2022
Đức Giê-su Ki-tô – Đường trung tín
Trong tiếng Do-thái, אֱמֻנָה /emunah /faith /đức tin thường được dịch là trung tín (faithfulness). Từ אֱמֻנָה /emunah cùng gốc với từ אָמֵן /amen với nghĩa là chắc chắn, sự thật, đúng vậy, khả tín. Đặc biệt, cùng một gốc với hai hạn từ trên, từ אֱ֭מֶת (emet) của tiếng Do-thái vừa có nghĩa là sự thật (truth /vérité) vừa có nghĩa là trung tín, trung thành, vững vàng, bền bỉ. Chẳng hạn, từ אֱ֭מֶת (emet) trong Tv 85,11-12 hay Cn 3,3, được dịch là sự thật hay chân lý (veritas, truth, vérité) trong bản dịch Kinh Thánh tiếng La-tinh hay một số bản dịch tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, trong khi một số bản dịch khác lại dịch là trung tín (faithfulness). Con người cần ‘nương tựa’ hay ‘gắn bó’ với אֱ֭מֶת (emet) để luôn đi đúng đường lối của Thiên Chúa. Người sống theo אֱ֭מֶת (emet) là người trung tín với huấn lệnh của Thiên Chúa và được Người thương yêu, nâng đỡ, phù trì. Trong các ngôn ngữ hiện đại, nhiều từ gần nghĩa với từ trung tín, chẳng hạn, trung thành hay thành tín (loyalty), trung thực (truthfulness), đáng tin cậy (trustworthiness), công chính (righteousness), cam kết (commitment), kiên định (steadfastness), trách nhiệm (responsibility), kiên quyết (firmness), bảo đảm (security), tận tâm (devotion), cống hiến (dedication), ổn định (stability).
Trong Tân Ước, từ πíστiς /pistis của tiếng Hy-lạp có thể được dịch là tin (faith) hay trung tín, trung thành, thành tín (faithfulness). Chẳng hạn, ở Rm 3,3, từ này được dịch là trung tín (τὴν πίστιν τοῦ θεοῦ: Lòng trung tín của Thiên Chúa). Tương tự như vậy, ở Mt 23,23; Gl 5,22; Dt 3,1-2; Tt 2,10, πíστiς cũng được dịch là trung tín hay thành tín. Đối nghịch với trung tín là bất tín ἀπιστία /apistia (unfaithfulness hay unbelief). Khi so sánh sự ảnh hưởng của hai nền văn hóa Do-thái và Hy-lạp đối với các chủ đề quan trọng trong Kinh Thánh, chúng ta nhận thức rằng văn hóa Do-thái thiên về nghĩa thực hành hơn là nghĩa suy tư như văn hóa Hy-lạp. Đó là lý do tại sao πíστiς /pistis của Hy-lạp thường được dịch là tin hơn là trung tín. Trong tiếng Việt, từ tin và trung tín đi đôi với nhau nhưng trung tín thường được hiểu theo nghĩa rộng hơn, trung tín bao gồm tin và thực hành điều mình tin nữa, chứ không chỉ ‘tin trong lòng’. Nói cách khác, trung tín có thể được hiểu là ‘đức tin trong hành động’.
Theo mặc khải Ki-tô Giáo, trung tín vừa là thuộc tính của Thiên Chúa vừa là thuộc tính của con người. Hơn thế nữa, trong nhãn quan Cựu Ước, trung tín thuộc về ‘bản tính’ của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là Người không cần phải cố gắng hay làm gì để trở nên trung tín bởi vì Người là trung tín. Theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 11,11). Trong sách Đệ Nhị Luật, Mô-sê nói với dân Do-thái: “Anh (em) phải biết rằng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành [אמן/ πιστóς/ trung tín]: Cho đến muôn ngàn thế hệ, Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu mến Người và giữ các mệnh lệnh của Người” (Đnl 7,9). Tác giả Thánh Vịnh 89 thân thưa cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, nào ai được như Chúa? Lạy Chúa quyền năng, đức thành tín hầu cận quanh Ngài” (Tv 89,9). Trong sách ngôn sứ I-sai-a, Thiên Chúa cũng được nhìn nhận là Đấng trung tín: “Vua chúa sẽ thấy và đứng lên, chư hầu sẽ thấy và bái lạy vì uy quyền của Đức Chúa là Đấng trung thành, là Đức Thánh của Ít-ra-en, Đấng đã tuyển chọn ngươi” (Is 49,7). Đặc biệt, Thiên Chúa trung tín cứu chữa con người khỏi tội bất tín: “Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” (Hs 14,5); “Sứ giả gian manh chỉ gây nên tai họa, sứ giả trung tín là phương thuốc chữa lành” (Cn 13,17). Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người sống đời trung tín để được thông phần sự sống của Người.
Tác giả Thánh Vịnh 31 cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng trung tín bảo vệ những ai cầu khẩn Người: “Núi đá và thành luỹ bảo vệ con, chính là Chúa. Vì danh dự Ngài, xin dẫn đường chỉ lối cho con. Lưới kẻ thù giăng, xin gỡ con ra khỏi, vì nơi con trú ẩn, chính là Ngài. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31,4-6). Tác giả sách Huấn Ca đề cao sự trung tín: “Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm điều đẹp ý Người” (Hc 15,15); “Hãy giữ lời và trung tín luôn luôn, thì bất cứ lúc nào cần điều chi, con cũng sẽ được” (Hc 29,3). Còn tác giả sách Châm Ngôn tán thưởng sự trung tín của người được sai đi: “Sứ giả trung tín với kẻ sai mình đi thì đáng quý như tuyết mát ngày mùa: Người đó làm vững lòng ông chủ” (Cn 25,13). Đặc biệt, dưới nhãn quan Cựu Ước, trung tín và thử thách đi đôi với nhau hay trung tín được tôi luyện qua thử thách. Điều này có nghĩa rằng người trung tín với Thiên Chúa là người chấp nhận những gian lao, khốn khó hay những nghịch cảnh liên lỉ hoặc bất ngờ xảy đến đối với bản thân mình cũng như những người thân thuộc. Những nhân vật trung tín điển hình trong Cựu Ước từ Nô-ê tới Áp-ra-ham, từ Mô-sê tới Đa-vít, không nhân vật nào lại không phải nếm mùi thử thách, đau khổ. Các ngôn sứ từ Giô-suê tới Sa-mu-en, từ I-sai-a tới Giê-rê-mi-a, từ Ê-dê-ki-en tới Ma-la-khi, không ngôn sứ nào lại không đối diện với nhiều gian nan, khốn khó để trung tín thực thi sứ mệnh được Thiên Chúa giao phó.
Sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã chọn Áp-ra-ham để qua ông, chương trình của Người được thực hiện. Thiên Chúa trung tín với lời hứa của Người đối với ông, cho ông và bà Xa-ra có con trai là I-xa-ác trong khi tuổi già: “Đức Chúa viếng thăm bà Xa-ra như Người đã phán, và Người đã làm cho bà như Người đã hứa. Bà Xa-ra có thai và sinh cho ông Áp-ra-ham một con trai khi ông đã già, vào thời kỳ Thiên Chúa đã hứa” (St 21,1-2). Áp-ra-ham thường được gọi là cha của những kẻ tin hay cha của những người trung tín. Thiên Chúa đã thử thách ông và ông đã diễn tả sự trung tín của mình (St 22,1-15). Ông tin vào Thiên Chúa và Thiên Chúa “kể ông là người công chính” (St 15,6). Sau này, tác giả sách Ma-ca-bê minh định rõ hơn khi viết: “Ông Áp-ra-ham lại không được kể là người trung tín trong cơn thử thách, và lại chẳng được kể là người công chính đó sao?” (1 Mcb 2,52). Tương tự như vậy, theo tác giả sách Huấn Ca: “Ông Áp-ra-ham là người cha vĩ đại của muôn dân tộc, vinh quang của ông chẳng ai sánh tày. Lề Luật của Đấng Tối Cao, ông hằng tuân giữ và ông được giao ước với Người. Nơi thân xác mình, ông đã lập giao ước, trong cơn thử thách, ông được nhìn nhận là trung thành” (Hc 44,19-20).
Đa-vít cũng được gọi là người trung tín của Thiên Chúa. Trước khi trở thành vị vua lỗi lạc nhất trong lịch sử Do-thái, ông được xem là người trung tín, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng người được xức dầu là Sa-un. Đa-vít có nhiều cơ hội để giết và chiếm quyền vua Sa-un, nhưng ông đã không làm như vậy. Khi vua Sa-un buộc tội ông A-khi-me-léc (là một tư tế) ủng hộ Đa-vít chống lại vua, ông A-khi-me-léc nói với vua: “Trong triều thần của ngài, có ai trung tín như ông Đa-vít, con rể của nhà vua, chỉ huy cận vệ của ngài, người được kính nể trong triều đình?” (1 Sm 22,14). Mặc dù Đa-vít lắm phen làm điều dữ, chẳng hạn như ngoại tình với bà Bát Se-va, lập mưu giết U-ri-gia để cướp lấy vợ ông, nhưng sau đó, ông đã thành tâm nhìn nhận tội lỗi mình và cầu xin sự tha thứ của Thiên Chúa. Ông đã ăn năn hối cải và được nghĩa với Thiên Chúa. Đa-vít trở thành mẫu gương hối cải, mẫu gương người tội lỗi trở thành người trung tín cho muôn người học hỏi qua bao thế hệ. Sự trung tín của Đa-vít có thể được gọi là ‘sự trung tín hoán cải’.
Lịch sử tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do-thái cũng là lịch sử của vị Thiên Chúa luôn trung tín và dân Do-thái bất tín. Đặc biệt, trong hành trình 40 năm về Đất Hứa, nhiều phen dân Do-thái đã lỗi phạm, than trách Thiên Chúa, thờ phượng tà thần, bất tuân phục Mô-sê. Chẳng hạn, khi không có nước uống, dân Do-thái đã gây sự với Mô-sê và ông đã cầu xin Thiên Chúa cho nước phun ra từ tảng đá để họ giải khát. Mô-sê đặt tên cho nơi mà dân Do-thái lỗi phạm với Thiên Chúa là ‘Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa là thử thách và gây sự’, bởi vì họ nghi ngờ sự hiện diện của Người mà rằng: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17,7). Các ngôn sứ và những người lãnh đạo dân Do-thái luôn nói về sự cần thiết phải trung tín với Thiên Chúa, chẳng hạn như Sa-mu-en nói với dân Do-thái: “Chỉ có một điều là anh em hãy kính sợ Đức Chúa và trung tín phụng thờ Người hết lòng: Anh em hãy xem việc vĩ đại Người đã làm giữa anh em” (1 Sm 12,24). Lời của Thiên Chúa trong Thánh Vịnh 81 thật uy nghi, mạnh mẽ và dứt khoát: “Dân Ta hỡi, nghe Ta cảnh cáo, Ít-ra-en này, phải chi ngươi chịu nghe Ta, thì đừng đem thần lạ về nhà, thần ngoại bang, chớ hề cúng bái” (Tv 81,9-10). Tương tự như vậy, lời của Thiên Chúa trong Thánh Vịnh 95 gợi lại lỗi phạm của dân Do-thái trong quá khứ: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 95,8-9).
Trong bối cảnh Cựu Ước, sự trung tín của Thiên Chúa đối với con người và sự trung tín của con người đối với Thiên Chúa hệ tại ở việc thực thi giao ước. Theo tác giả Thánh Vịnh 25 và 36: “Tất cả đường lối Chúa đều là yêu thương và thành tín đối với những kẻ nào giữ giao ước và lề luật Chúa” (Tv 25,10); “Lạy Chúa, tình thương Ngài cao ngất trời xanh, lòng thành tín vượt ngàn mây biếc” (Tv 36,6). Lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a tiên báo về vị minh quân thuộc dòng dõi vua Đa-vít là Đức Giê-su, Đấng trung tín như sau: “Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành” (Is 11,5) hay: “Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý” (Is 42,3). Quả thực, khi thời gian tới thời viên mãn, Đức Giê-su là Con Thiên Chúa đã đến với gia đình nhân loại. Người thể hiện sự trung tín của Thiên Chúa khi thiết lập Giao Ước Mới. Giao ước này làm cho lời của Thiên Chúa trở thành hiện thực: “Này sắp đến những ngày Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa. Giao ước đó sẽ không như giao ước Ta đã thiết lập với cha ông của chúng, trong ngày Ta cầm tay dẫn chúng ra khỏi Ai-cập” (Dt 8,8-9). Đức Giê-su là hiện thân của Thiên Chúa trung tín mà lề luật và các ngôn sứ diễn tả trong Cựu Ước. Nhờ sự trung tín của Đức Giê-su, tất cả những lề luật và lời ngôn sứ trong Cựu Ước được thực hiện, bởi vì, “Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa” (Dt 9,15).
Cuộc đời Đức Giê-su cho chúng ta thấy rằng trung tín không chỉ là một trong những thuộc tính của Người như bao thuộc tính khác nhưng gắn liền với ‘bản tính’ của Người. Trong thư gửi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô viết: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình” (2 Tm 2,11-13). Theo tác giả sách Khải Huyền, tên của Đức Giê-su là Trung Thành và Chân Thật (πιστὸς καὶ ἀληθινός): “Bấy giờ tôi thấy trời rộng mở: Kìa một con ngựa trắng, và người cỡi ngựa mang tên là ‘Trung Thành và Chân Thật’” (Kh 19,11). Tương tự như thế, thánh Phao-lô diễn tả Thiên Chúa là Đấng trung tín và sự bất tín của con người không phương hại đến sự trung tín của Thiên Chúa. Người viết: “Nếu có một số người Do-thái không trung tín thì sao? Chẳng lẽ sự bất trung bất tín của họ lại làm cho lòng trung tín của Thiên Chúa ra vô hiệu? Không phải thế! Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối” (Rm 3,3-4).
Đức Giê-su diễn tả sự trung tín qua việc làm theo ý Chúa Cha ngay trong thời thơ ấu. Chẳng hạn, lúc mười hai tuổi, Người lên Giê-ru-sa-lem và giảng dạy giữa các bậc thầy Do-thái. Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se tìm được Người và nói: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2,48). Đức Giê-su đã trả lời: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49). Trong sứ mệnh công khai, khi những người Do-thái chất vấn Đức Giê-su về việc Người chữa bệnh trong ngày sa-bát cho một người đau ốm đã ba mươi tám năm, Đức Giê-su nói với họ: “Tôi không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30). Trong hội đường Ca-phác-na-um, sau khi hóa bánh ra nhiều và thực hiện dấu lạ đi trên mặt biển, Đức Giê-su nói với những Người Do-thái: “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38).
Khi giảng dạy, Đức Giê-su cho các môn đệ biết rằng người trung tín là người luôn dành toàn tâm, toàn ý, toàn trí, toàn lực để phục vụ chủ mình sao cho mọi công việc của chủ được diễn ra tốt đẹp. Người nói: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16,13). Đức Giê-su dùng hình ảnh hai chủ để mời gọi mọi người ý thức hơn về ‘những ông chủ’ trong đời sống mình. Quả thực, nhiều người không chỉ làm tôi hai chủ mà là nhiều chủ. Có người cho rằng mình yêu mến Thiên Chúa và thực thi lời của Người. Tuy nhiên, vì tính ích kỷ, họ sẵn sàng làm tôi nhiều chủ khác nữa hầu đem lại lợi lộc tối đa cho mình và những người thân thuộc. Đức Giê-su mời gọi mọi người, trước hết, hãy trung tín với Thiên Chúa là Cha của Người như Người đã thực hiện. Nhờ đó, họ sẽ có thái độ phù hợp hơn với ‘những ông chủ’ khác trong đời sống mình.
Như đã đề cập ở trên, người trung tín cũng là người trung thực (truthfulness). Đức Giê-su luôn đề cao sự trung thực. Chẳng hạn, khi triển khai Bài Giảng Trên Núi về Tám Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37). Hơn ai hết, thấm nhuần giáo huấn của Đức Giê-su, thánh Phao-lô viết cho các tín hữu ở Cô-rin-tô: “Đức Ki-tô Giê-su, Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng tôi, là Xin-va-nô, Ti-mô-thê và tôi, rao giảng cho anh em, đã không vừa là ‘có’ vừa là ‘không’, nhưng nơi Người chỉ toàn là ‘có’. Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là ‘có’ nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên ‘A-men’ để tôn vinh Thiên Chúa. Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa” (2 Cr 1,19-21). Như vậy, nhờ Đức Giê-su, con người có thể luôn thưa ‘có’ để diễn tả lòng trung tín và hiếu thảo của mình đối với Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su cũng là Cha của mọi người.
Đường lối sư phạm của Đức Giê-su về trung tín rất cụ thể: Trung tín trong việc nhỏ để có thể trung tín trong việc lớn. Với Người, “ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn” (Lc 16,10). Trong ‘dụ ngôn những yến bạc’, khi người đầy tớ nhận của ông chủ năm yến và làm lợi thêm năm yến khác đến với ông chủ thì ông nói: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21). Thông thường, con người muốn làm những việc lớn lao, cả thể, để phô diễn thanh danh đối với người khác. Tuy nhiên, Đức Giê-su mời gọi mọi người hãy bắt đầu từ những việc nhỏ và trung tín trong những việc nhỏ. Quả thực, kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng cái vĩ đại chỉ có thể đến từ những cái nhỏ nhất. Chẳng hạn, để có bức tranh đẹp thì những chi tiết nhỏ nhất phải đẹp, thậm chí giá trị của bức tranh nhiều khi nằm ở những nơi bí ẩn, nhỏ bé, khó quan sát hơn là những nơi nổi trội. Những gì ‘làm nền’ cho bức tranh nhiều khi lại được trân quý hơn nội dung chính yếu của bức tranh nữa. Tương tự như vậy, một ngôi nhà đẹp được hình thành từ những chi tiết đẹp. Do đó, trung tín trong việc nhỏ là điều kiện cần và đủ cho trung tín trong việc lớn.
Khi người Do-thái đưa đến cho Đức Giê-su một người bị quỷ ám mắc bệnh động kinh, họ nói với Đức Giê-su: “Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi” (Mc 9,22). Đức Giê-su trả lời: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Mọi sự đều có thể đối với người tin” (Mc 9,23). Sau đó, Đức Giê-su đã trục xuất quỷ dữ ra khỏi người bệnh (Mc 9,25-28). Quả thực, lời nói và việc làm của Đức Giê-su minh chứng rằng mọi sự đều có thể đối với người tin, mọi sự đều có thể đối với người trung tín. Đây là Tin Mừng lớn lao cho gia đình nhân loại. Chúng ta biết rằng, trước những khó khăn thử thách, con người thường có hai thái độ: (1) Ngã lòng, nhụt chí, buông xuôi hoặc (2) kiên tâm, trông cậy, tin tưởng Thiên Chúa. Đức Giê-su mời gọi mọi người luôn hướng về Thiên Chúa và thực thi thánh ý Người. Nhờ đó, họ sẽ lãnh nhận hoa trái dồi dào nhờ sự trung tín của mình. Như Đức Giê-su đã chiến thắng tội lỗi và sự chết vì Người luôn trung tín, mọi người luôn được mời gọi cộng tác với Người để có thể chiến thắng chính mình và muôn cạm bẫy tiềm tàng trong cuộc sống.
Sách ngôn sứ I-sai-a cho mọi người biết về người tôi trung của Thiên Chúa, chịu đau khổ tột cùng, mặt mày tan nát, không còn dáng vẻ con người (Is 52,14). Vì trung tín với Thiên Chúa, người tôi trung bị khinh khi, nhục mạ, đau khổ, bệnh tật. Người tôi trung mang lấy tất cả đau khổ, bệnh tật, lỗi lầm của người khác. Người tôi trung bị buộc tội, bị giết chết, bị chôn giữa bọn ác nhân. Nhờ người tôi trung, Thiên Chúa làm cho mọi người nên công chính và được chung hưởng hạnh phúc miên trường (Is 53,1-12). Những gì được đề cập trong sách ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su, Đấng trung tín của Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và con người thật, Đức Giê-su vừa trung tín với Thiên Chúa vừa trung tín với con người qua mọi thời đại. Sự trung tín của Đức Giê-su là sự trung tín vĩnh cửu. Do đó, Người thiết lập Giao Ước Mới và vĩnh cửu một lần cho tất cả hầu cứu chuộc muôn người.
Đức Giê-su hứa ban phần thưởng là sự sống đời đời cho những ai trung tín với Người: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10,29-30). Với Đức Giê-su, trung tín với Người cũng chính là trung tín với Thiên Chúa là Cha của Người: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5,24). Người cũng nói: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy” (Ga 8,28). Với Đức Giê-su, hoán cải là điều kiện không thể thiếu được để trở nên trung tín và lãnh nhận hoa trái dành cho người trung tín. Chẳng hạn, trước sự hoán cải và lòng thành tín của tên gian phi, Đức Giê-su nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).
Chúng ta biết rằng trình thuật Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an từ chương 13 – 17 là trình thuật về cuộc đối thoại riêng giữa Đức Giê-su và các môn đệ trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn. Thánh Gio-an viết câu đầu tiên của trình thuật này như sau: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Đức Giê-su yêu thương các môn đệ cũng như mọi người cho đến giọt máu cuối cùng (Ga 19,34). Đức Giê-su đã chết và sống lại để diễn tả tình yêu đến cùng của Người. Đức Giê-su đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để ở lại với mọi người trong gia đình nhân loại cho đến cùng. Tình yêu của Người là tình yêu trung tín cho đến cùng. Sự trung tín của Đức Giê-su cho đến cùng cũng chính là sự vâng phục của Người cho đến cùng (Pl 2,8). Câu hỏi được đặt ra là ‘con người có yêu Thiên Chúa, yêu Đức Giê-su, yêu anh chị em đồng loại cho đến cùng không?’. Để có thể ‘yêu cho đến cùng’ như Đức Giê-su đã yêu, yêu đến nỗi gọi các môn đệ là bạn và hy sinh tính mạng vì họ, mọi người cần gắn bó với Người để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Người trong sự trung tín.
Với hành trình trần thế, Đức Giê-su vừa diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa đối với con người vừa diễn tả sự trung tín của con người đối với Thiên Chúa. Chính Đức Giê-su đã minh chứng Người là Đấng trung tín của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống Người. Là Thiên Chúa, Đức Giê-su cho mọi người biết rằng Thiên Chúa luôn trung tín chờ đợi sự hoán cải, trở về của con người, đồng thời, Người cũng ban dồi dào ơn lành cho những ai trung tín. Là con người, Đức Giê-su diễn tả cách thức thể hiện sự trung tín đối với Thiên Chúa. Đặc biệt, nhân danh toàn thể nhân loại, Đức Giê-su diễn tả Người là Thượng Tế, Bàn Thờ và là Con Chiên hầu đền tội cho nhân loại và phụng thờ Thiên Chúa. Trong các sách Kinh Thánh, thư gửi tín hữu Do-thái là tài liệu duy nhất diễn tả Đức Giê-su là Thượng Tế. Đặc biệt, phẩm vị Thượng Tế của Người vượt xa mọi thượng tế trong lịch sử Do-thái bởi vì Người là Thượng Tế siêu phàm (Dt 4,14). Các tư tế hay thượng tế trong lịch sử Do-thái là những hình ảnh hay biểu tượng hướng về Đức Giê-su là Thượng Tế siêu phàm.
Dưới nhãn quan của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, Đức Giê-su là vị Thượng Tế trung tín hiến dâng chính mình như Của Lễ hoàn hảo lên Thiên Chúa: “Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân” (Dt 2,17). Vì giống anh em mình trong gia đình nhân loại, Đức Giê-su cảm nghiệm được những bấp bênh, tủi nhục của kiếp người dưới ách thống trị của ma quỷ, thế gian, xác thịt (Dt 4,15-16). Người là Thượng Tế nhân từ và trung tín. Do đó, Người thấu hiểu những yếu đuối của anh em mình và yêu thương nâng đỡ họ trong mọi hoàn cảnh. Mặt khác, Người có khả năng đến với Thiên Chúa nhân danh anh em mình bởi vì Người trung tín cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự (Pl 2,8). Lời của Thiên Chúa Cha không chỉ vang vọng trong biến cố Đức Giê-su chịu Phép Rửa để bắt đầu sứ mệnh công khai mà còn vang vọng trong mọi biến cố của cuộc sống Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Câu hỏi đặt ra là ‘tại sao nhân loại lại cần vị Thượng Tế nhân từ và trung tín?’ Thưa, tại vì trong gia đình nhân loại không ai có thể được gọi là người nhân từ và trung tín đến mức có thể làm trung gian cho mọi người trước mặt Thiên Chúa. Bởi vì, là con cái của gia đình nhân loại, ai cũng là tội nhân, do vậy, không thể đền tội cho mình hay cho người khác được. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng một chiếc khăn bị vấy bẩn không thể lau sạch những vết bẩn nơi bất cứ vật dụng nào.
Tiếp tục chủ đề trung tín, tác giả thư gửi tín hữu Do-thái so sánh giữa Đức Giê-su và Mô-sê, được mệnh danh là người lãnh đạo và tôi tớ trung tín của Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, Mô-sê là tôi tớ trung tín của Thiên Chúa như lời Thiên Chúa phán: “Ngay cả điều ngươi vừa nói đó, Ta cũng sẽ làm, vì ngươi đã được nghĩa với Ta, và Ta biết đích danh ngươi” (Xh 33,17) hay: “Hãy nghe Ta nói đây! Nếu trong các ngươi có ai là ngôn sứ, thì Ta, Đức Chúa, Ta sẽ tỏ mình ra cho nó trong thị kiến, hoặc sẽ phán với nó trong giấc mộng. Nhưng với Mô-sê tôi tớ Ta thì khác: Tất cả nhà Ta, Ta đã trao cho nó” (Ds 12,6-7). Tương tự như Mô-sê, thời thơ ấu, Đức Giê-su đã sang Ai-cập (Mt 2,13-15). Như Mô-sê dẫn dắt dân Do-thái 40 năm trong sa mạc, Đức Giê-su cũng vào sa mạc 40 đêm ngày để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ. Trong sa mạc, dân Do-thái bị cám dỗ về (1) chuyện ăn uống, (2) thử thách Thiên Chúa và (3) phụng thờ tà thần. Họ đã sa chước cám dỗ. Đức Giê-su cũng bị cám dỗ như vậy nhưng Người không sa chước cám dỗ (Mt 4,1-11). Nói cách khác, dân Do-thái bất tín với Thiên Chúa và sa chước cám dỗ, còn Đức Giê-su luôn trung tín với Thiên Chúa và không sa chước cám dỗ.
Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Anh em hãy ngắm nhìn Đức Giê-su là Sứ Giả, là Thượng Tế, là Trung Gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin. Người trung thành với Đấng đã đặt Người lên chức vụ đó, cũng như ông Mô-sê đã trung thành khi thi hành chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa” (Dt 3,1-2). Đối với dân Do-thái, Mô-sê là mẫu gương trung tín cho mọi người Do-thái trong việc lắng nghe, tin tưởng và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Tuy nhiên, tác giả thư gửi tín hữu Do-thái còn đi xa hơn khi khẳng định: “Như người làm nhà đáng tôn vinh hơn chính ngôi nhà, thì Đức Giê-su cũng được coi là đáng tôn vinh hơn ông Mô-sê. Quả thật, nhà nào cũng phải có người làm ra, và Đấng làm ra mọi sự là Thiên Chúa” (Dt 3,3-4). Đặc biệt, tác giả thư gửi tín hữu Do-thái diễn tả Đức Giê-su là điểm đến của sự trung tín mà Mô-sê là đại diện và là điểm quy chiếu về sự trung tín của tất cả mọi người: “Ông Mô-sê đã trung thành khi thi hành chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa, với tư cách là tôi tớ để làm chứng về các điều Thiên Chúa sẽ phán truyền. Còn Đức Ki-tô thì trung thành với tư cách là người Con đứng đầu nhà Thiên Chúa. Mà nhà Thiên Chúa là chính chúng ta, miễn là chúng ta giữ vững đến cùng lòng tin tưởng và thái độ hiên ngang về niềm hy vọng của chúng ta” (Dt 3,5-6). Như vậy, dưới nhãn quan tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, sự trung tín của Đức Giê-su kiện toàn sự trung tín của Mô-sê cũng như mọi người trong dòng lịch sử, đồng thời, sự trung tín của Đức Giê-su đem lại ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai trung tín với giáo huấn của Người.
Thư gửi tín hữu Do-thái viết cho các Ki-tô hữu từng được gọi là dân riêng của Thiên Chúa (Xh 6,7). Đây là dân thấm nhuần tinh thần truyền thống Cựu Ước, trong đó Mô-sê là nhân vật vĩ đại đã dẫn dắt cha ông họ ra khỏi ách nô lệ Ai-cập về với Đất Hứa. Đối với họ, nói rằng Đức Giê-su cao trọng hơn Mô-sê là điều lạ lùng, khó có thể chấp nhận. Tuy nhiên, đối với tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, Mô-sê là người trung tín của Thiên Chúa nhưng sự trung tín của Mô-sê không trọn hảo (imperfect faithfulness) vì nhiều lúc ông mất niềm hy vọng, than trách Thiên Chúa hay không diễn tả sự thánh thiện của Người cách xứng hợp (Ds 20,12; Đnl 32,48-52). Trong khi đó, sự trung tín của Đức Giê-su là sự trung tín trọn hảo (perfect faithfulness). Mặt khác, sự trung tín thực thi thánh ý Thiên Chúa của Đức Giê-su không chỉ cho dân Do-thái mà cho mọi người trong gia đình nhân loại. Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái mời gọi mọi người hãy mở rộng tâm trí đến đón nhận Đức Giê-su. Mô-sê là mẫu gương trung tín với Thiên Chúa cho dân Do-thái, còn Đức Giê-su là mẫu gương trung tín với Thiên Chúa cho mọi người trong mọi thời và khắp mọi nơi.
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô viết: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6,8). Đối với thánh nhân, chỉ có những người sống trung tín với Đức Ki-tô mới có thể cùng chết với Người. Mục đích của người trung tín là được sống trong ân nghĩa của Thiên Chúa như Đức Giê-su đã sống hầu đáng lãnh nhận sự sống vĩnh cửu với Người. Gửi thư cho tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân viết: “Tôi đã phái người con yêu quý và trung tín của tôi trong Chúa, là anh Ti-mô-thê, đến với anh em. Anh ấy sẽ nhắc cho anh em những quy tắc hướng dẫn đời sống trong Đức Ki-tô mà tôi đã đề ra, những quy tắc mà tôi vẫn giảng dạy khắp nơi, trong mọi Hội Thánh” (1 Cr 4,17). Chúng ta biết rằng Ti-mô-thê vừa là người con trung tín của thánh Phao-lô trong Chúa, vừa là bạn đồng hành của thánh nhân trong việc loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại trong Giáo Hội thuở ban đầu. Ti-mô-thê đã học hỏi nhiều điều nơi thánh Phao-lô, nhất là việc hoán cải và gắn bó với Đức Giê-su cho đến hơi thở cuối cùng.
Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh giúp thánh Phao-lô cảm nhận được sự trung tín của Thiên Chúa qua sự trung tín của Đức Giê-su. Trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh nhân viết: “Hỡi anh em là những kẻ được Chúa yêu mến, chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa về anh em, vì Thiên Chúa đã chọn anh em ngay từ lúc khởi đầu, để cứu độ anh em nhờ Thần Khí thánh hóa và nhờ lòng tin vào chân lý” (2 Tx 2,13). Đặc biệt, theo thánh nhân: “Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ làm cho anh em được vững mạnh, và bảo vệ anh em khỏi ác thần” (2 Tx 3,3). Như vậy, Đấng trung tín vừa làm cho con người kiên vững trong đức tin vừa bảo vệ con người khỏi muôn hình thức sự dữ. Với tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân viết: “Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (1 Cr 1,9). Vì Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người luôn nâng đỡ con người và ban ân sủng cần thiết để con người có thể vượt qua những chướng ngại như thánh Phao-lô viết cho các tín hữu tại Cô-rin-tô: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1 Cr 10,13).
Theo mặc khải Kinh Thánh, Nguyên Tổ của gia đình nhân loại là A-đam và E-và đã không trung tín với Thiên Chúa và tội lỗi xâm nhập trần gian (St 3,1-7; Rm 5,12). Do đó, bất cứ hình thức tội lỗi nào đều mang âm hưởng của sự bất tín. Người phạm tội và người nên cớ cho người khác phạm tội đều là bất tín. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa cáo tội các tư tế của Ít-ra-en qua trung gian Ma-la-khi rằng: “Các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy. Các ngươi đã hủy hoại giao ước với Lê-vi, – Đức Chúa các đạo binh phán. Còn Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi đáng khinh và ra hèn mạt trước mặt toàn dân, vì các ngươi không tuân giữ đường lối Ta, và hay nể vì khi áp dụng Luật” (Ml 2,8-9). Trong Tân Ước, Đức Giê-su nói rằng: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9,42). Tương tự như vậy, thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma: “Thưa anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy coi chừng những kẻ gây chia rẽ và làm cớ vấp ngã, vì đi ngược lại với đạo lý anh em đã học hỏi; anh em hãy xa lánh họ” (Rm 16,17). Do đó, người trung tín với Thiên Chúa không chỉ tuân giữ lề luật của Người mà còn thường xuyên quan tâm đến câu hỏi ‘phải chăng mình là nguyên cớ cho người khác bất tín?’.
Như đã đề cập ở trên, trong bối cảnh Kinh Thánh, niềm tin (faith) và sự trung tín (faithfulness) đi đôi với nhau. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thức rằng sự trung tín có nghĩa rộng hơn. Bởi vì, sự trung tín đích thực không chỉ tin mà còn hành động nữa. Về điểm này, thánh Gia-cô-bê khẳng định: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: ‘Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin’” (Gc 2,17-18). Trong thực tế, chúng ta thấy rằng có nhiều người đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ không trung tín với Thiên Chúa bởi vì thiếu vắng hành động diễn tả niềm tin trong cuộc sống thường ngày. Đặc biệt, trong thế giới hôm nay, số người tin tưởng vào Đức Giê-su và chương trình của Người ngày càng tăng nhưng số người thực hành niềm tin xem ra ngày càng giảm. Hơn nữa, nhiều người cho rằng niềm tin mang tính cá nhân hơn là cộng đoàn. Hậu quả là, họ chỉ có tin mà không hành động, không gắn bó với cộng đoàn đức tin, không ý thức sự cần thiết phải loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại.
Thực thi thánh ý Thiên Chúa cách trung tín là điều cần thiết đối với các Ki-tô hữu. Sự trung tín mà Đức Giê-su muốn nơi các Ki-tô hữu không phải là sự trung tín chóng qua, nhất thời (moment) mà là tiến trình (process) luôn mãi. Có người cho rằng mình tin vào Thiên Chúa và hiểu giáo huấn của Người, nhưng ‘tạm hoãn’ thực thi giáo huấn Thiên Chúa để mưu cầu lợi ích cho bản thân và gia đình. Họ cho rằng họ sẽ ‘ăn năn hối cải’ trong tương lai. Họ quan tâm đến việc lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải, Xức Dầu Bệnh Nhân và Của Ăn Đàng vào phút chót hơn là sống trung tín, vác thập giá mình mỗi ngày mà theo chân Đức Giê-su (Mc 8,34). Quả thực, cây nghiêng bên nào thì ngả bên đó: Ai trung tín thì được hưởng hoa trái dành cho người trung tín; ai bất tín thì phải lãnh lấy hậu quả thích đáng với sự bất tín của mình. Điều Thiên Chúa muốn là con người hãy luôn trung tín với Thiên Chúa, với nhau và với muôn vật muôn loài do Người sáng tạo.
Một trong những khủng hoảng điển hình của thế giới hôm nay là ‘khủng hoảng sự trung tín’: Khủng hoảng sự trung tín trong đời sống cá nhân và tập thể; khủng hoảng sự trung tín trong đời sống gia đình và xã hội; khủng hoảng sự trung tín trong đời sống văn hóa và tôn giáo. Câu hỏi mà mọi người cần phải quan tâm: ‘Đâu là nguyên nhân chính yếu của hình thức khủng hoảng này?’ Thưa, nguyên nhân chính yếu xuất phát từ việc loại trừ Thiên Chúa là Đấng trung tín ra khỏi cuộc sống con người. Quả thực, khi con người không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng trung tín tuyệt đối, hằng hữu và phổ quát, cũng là khi con người quy chiếu đời sống mình về các hình thức trung tín do mình đặt ra. Hậu quả là con người chạy theo những ‘ngẫu tượng trung tín’. Trong Cựu Ước, ông Giô-suê nói với dân Do-thái: “Bây giờ anh em hãy kính sợ Đức Chúa, hãy chân thành và trung tín phụng thờ Người. Anh em hãy vất bỏ các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả và ở Ai-cập, và hãy phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24,14). Đức Giê-su là hiện thân của Thiên Chúa trung tín tuyệt đối, hằng hữu và phổ quát. Nhờ Người, con cái của gia đình nhân loại được cứu chữa khỏi hậu quả của các hình thức bất tín và được chung hưởng bình an, hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu.
Trung tín là điều kiện tiên quyết giúp xã hội loài người phát triển lành mạnh. Qua mọi thời đại, trung tín luôn là đặc tính mà bất cứ cá nhân, gia đình hay tổ chức nào cũng phải coi trọng. Chẳng hạn, điều mà ông chủ muốn nơi những người làm việc cho mình là sự trung tín; điều mà cha mẹ muốn nơi con cái là sự trung tín; điều mà người chồng muốn nơi người vợ cũng như người vợ muốn nơi người chồng là sự trung tín; điều mà thầy cô giáo muốn nơi học trò và học trò muốn nơi thầy cô giáo là sự trung tín. Nói cách khác, trung tín phải là kim chỉ nam của đời sống con người trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Đặc biệt, trung tín là nền tảng cho việc diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của người Ki-tô hữu giữa dòng đời. Do đó, là Ki-tô hữu, mỗi người hãy trung tín với ơn gọi của mình. Ai trung tín thì được mọi người tín nhiệm, được giao phó trọng trách và được Thiên Chúa yêu mến.
Là con người, ai cũng thích người khác trung tín với mình. Không chỉ những người với lương tâm tốt lành muốn bạn bè trung tín với mình, những người với lương tâm sa đọa cũng muốn như vậy. Ai cũng lo lắng, sợ hãi, dè chừng khi giao phó hay ủy thác công việc cho những người bất tín. Nói cách khác, không ai muốn bạn bè của mình là những người bất tín. Theo tác giả sách Huấn Ca: “Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc, ai gặp được người bạn như thế, là gặp được kho tàng. Không gì đổi lấy được một người bạn trung thành, và giá trị của người bạn ấy, không cân nào lường được. Người bạn trung thành là phương thuốc xoa dịu cuộc đời, những ai kính sợ Đức Chúa sẽ gặp được người như vậy” (Hc 6,14-16). Đức Giê-su là Bạn trung thành, Bạn trung tín của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại (Ga 15,12-15). Do đó, những ai đến với Người sẽ không bao giờ thất vọng bởi vì Người nhân từ, yêu thương và trung tín đến cùng.
Con người không thể trở nên trung tín với sức riêng của mình. Dưới nhãn quan của thánh Phao-lô, trung tín như là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Trong thư gửi tín hữu Ga-lát, ngài viết: “Hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23). Như vậy, con người cần luôn ở lại trong Thần Khí của Đức Giê-su và hành động theo sự hướng dẫn của Thần Khí như lời dạy của thánh Phao-lô đối với các tín hữu Ê-phê-xô: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi” (Ep 6,18). Do đó, điều cần thiết nơi mỗi Người là đừng bao giờ cho mình đã đạt được sự trung tín sung mãn, không cần thiết phải biến đổi gì nữa. Chúng ta biết rằng sự trung tín của con người không phải là ‘sự trung tín một lần cho tất cả’. Cạm bẫy của ma quỷ, thế gian, xác thịt vẫn còn đó. Theo tác giả Thánh Vịnh 89, “đức thành tín hầu cận quanh Thiên Chúa” (Tv 89,9). Còn con người trong hành trình trần thế thì sao? Nếu không có sự trợ giúp và bảo vệ của Thiên Chúa thì ‘sự bất tín bao phủ quanh con người’.
Thiên Chúa ban sự trung tín cho chúng ta và mời gọi chúng ta luôn biết cộng tác với Người để không ngừng ‘làm mới sự trung tín’ của mình. Nghĩa là chúng ta cần hướng về Thiên Chúa để ngày càng trở nên trung tín hơn, đồng thời, diễn tả sự trung tín của mình trong các tương quan của đời sống với niềm hy vọng rằng những gì Thiên Chúa hứa ban cho những ai trung tín đều trở thành hiện thực. Theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Vì Thiên Chúa muốn chứng minh rõ hơn cho những người thừa hưởng lời hứa được biết về ý định bất di bất dịch của Người, nên Người đã dùng lời thề mà bảo đảm điều Người đã hứa… cả lời hứa lẫn lời thề đều bất di bất dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể nói dối được. Do đó, chúng ta là những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được mạnh mẽ khuyến khích nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta” (Dt 6,17-18). Cũng theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt” (Dt 10,23-24). Như vậy, nói đến trung tín là nói đến hy vọng được diễn tả bằng tình yêu thương nhau cũng như làm việc tốt theo mẫu gương Đức Giê-su là Đường Trung Tín giữa lòng nhân loại như thánh Phao-lô khuyên dạy các tín hữu Cô-rin-tô: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô” (1 Cr 11,1).
Kinh nghiệm đời sống Ki-tô hữu cho chúng ta nhận thức rằng trung tín (faithfulness) và bất tín (unfaithfulness) luôn là chọn lựa của mỗi cá nhân giữa lòng xã hội. Cách cụ thể là mỗi người được tự do chọn lựa hay không chọn lựa Đường của Đức Giê-su là Đường Trung Tín cho đời sống mình. Trong bài giảng về thời cánh chung, Đức Giê-su dùng dụ ngôn người đầy tớ trung tín, Người nói: “Vậy thì ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc? Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình” (Mt 24,45-47). Đức Giê-su luôn mời gọi mọi người trong gia đình nhân loại luôn là những đầy tớ trung tín, những đầy tớ kiên tâm lắng nghe, học hỏi, suy niệm và thực thi lời của Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa nhưng Đức Giê-su đã trút bỏ chính mình, mặc lấy thân phận tôi tớ trung tín để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại. Người đã đi Đường Trung Tín cho đến tận cùng hầu mang lại ơn cứu độ vĩnh viễn cho mọi người. Như vậy, ơn cứu độ của con người hệ tại ở việc theo hay không theo Đường Trung Tín của Đức Giê-su giữa dòng đời.
Cuộc sống của người Ki-tô hữu luôn đối diện với nghịch lý: Tận đáy lòng, không ai muốn mình là người bất tín đối với Thiên Chúa, với anh chị em mình và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo nhưng thực tế cho thấy xu hướng bất tín luôn tiềm tàng nơi mỗi người. Ai cũng cảm thấy mình mọn hèn, yếu đuối, dễ bị tổn thương trong hành trình theo Đường Trung Tín của Đức Giê-su. Như đề cập ở trên, trong Cựu Ước, dân Do-thái chịu nhiều thử thách và lắm phen bất tín với Thiên Chúa. Trong Tân Ước, các môn đệ Đức Giê-su dù được Người thương yêu dạy dỗ nhưng họ vẫn tỏ ra bất tín, nhất là khi phải đối diện với những nghịch cảnh. Chẳng hạn, trong cuộc thương khó của Đức Giê-su, thánh Phê-rô đã bất tín, phủ nhận tương quan mật thiết giữa ngài và Đức Giê-su, không chỉ một lần mà là ba lần (Mt 26,69-74). Tuy nhiên, thánh nhân đã ăn năn hối cải và được Đức Giê-su tha thứ. Chính Đức Giê-su phục sinh đã hiện ra để củng cố đức tin cho ngài cũng như các môn đệ. Từ đó, họ trở nên những nhân chứng thực thụ của Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho đến cùng. Đức Giê-su phục sinh đã thúc giục tác giả sách Khải Huyền viết thư cho Hội Thánh Xi-miếc-na rằng: “Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi sắp phải chịu… Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2,10). Hãy trung thành, hãy trung tín, hãy yêu thương đến cùng là mệnh lệnh của Đức Giê-su phục sinh cho mọi người.
Trong Cựu Ước, khi dân Do-thái trở về Đất Hứa Ca-na-an, dưới sự dẫn dắt của Mô-sê, họ đã không đi đường ngắn hơn mà lại đi đường dài hơn. Họ đã tin tưởng vào Thiên Chúa qua trung gian Mô-sê để vào sa mạc. Đây là hành trình lắm thử thách và nhiều gian truân nhưng họ đã vượt qua tất cả. Như dân Do-thái nhờ Mô-sê đã về được với Đất Hứa Ca-na-an, mọi người trong gia đình nhân loại nhờ Đức Giê-su, Đường Trung Tín, sẽ được về sum họp cùng Thiên Chúa. Đường Trung Tín của Đức Giê-su không phải là Đường ngắn nhất nhưng là Đường duy nhất cho phép con người đến với Thiên Chúa, đến với Đất Hứa vĩnh cửu là Quê Hương đích thực của mọi người (Pl 3,20). Do đó, dõi theo Đường Trung Tín của Đức Giê-su luôn là bảo chứng cho những ai được gọi là Ki-tô hữu, là môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su giữa dòng đời.
Chúng ta có thể kết luận rằng theo mặc khải Ki-tô Giáo, trung tín vừa là thuộc tính của Thiên Chúa vừa là thuộc tính của con người. Hơn nữa, trung tín thuộc về ‘bản tính’ Thiên Chúa. Sự trung tín của Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể trong chương trình cứu độ nhân loại được Đức Giê-su thực hiện: Người trung tín trong việc trở nên người phàm; trung tín với Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se trong gia đình Na-da-rét; trung tín trong việc lên Giê-ru-sa-lem để phụng thờ Thiên Chúa; trung tín trong việc thực thi truyền thống Do-thái; trung tín trong việc đón nhận Phép Rửa của Gio-an Tẩy Giả; trung tín trong việc vào sa mạc 40 đêm ngày và chịu ma quỷ cám dỗ; trung tín trong việc giảng dạy lời của Thiên Chúa; trung tín trong việc trừ quỷ, chữa bệnh, tha tội, hồi sinh kẻ chết, nhằm diễn tả quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa; trung tín bước vào cuộc khổ nạn; trung tín khi các môn đệ bất tín trong cuộc khổ nạn; trung tín cho đến hơi thở cuối cùng trên thập giá; trung tín hiện diện với các môn đệ sau khi sống lại; trung tín ở lại với mọi người trong gia đình nhân loại cho đến tận thế, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể. Nói cách khác, Đường của Người trong hành trình trần thế là Đường Trung Tín. Mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đi Đường Trung Tín của Người, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi tới muôn đời (Dt 13,8).
2022
Vì sao nhiều bạn trẻ ngày nay sợ kết hôn?
Vì sao nhiều bạn trẻ ngày nay sợ kết hôn?
Một danh nhân đã nói: “Hôn nhân là con đường đưa ta xuống địa ngục hay dẫn ta vào thiên đàng” (Balzac). Những ai đã bước vào đời sống hôn nhân gia đình đều có chung một nhận định này là hôn nhân đối với người này có thể là hỏa ngục nhưng với người khác lại là thiên đàng.
Riêng một số người đã trải nghiệm những đắng cay trong đời sống hôn nhân thì đã thốt lên cách bi quan là, “Hôn nhân giống như cái lồng chim, con ở trong thì muốn bay ra, còn con ở ngoài thì muốn bay vào” (Montaigne). Hay đã than thở rằng: “Cãi lộn chiếm phần lớn đời sống hôn nhân, phần còn lại không có gì đặc sắc” (Thornoton Wilder). Thực tế là ngày nay một số bạn trẻ quyết định không kết hôn, bởi đối với họ hôn nhân chỉ là một bi kịch, một thảm họa, một điều gì đó đáng sợ…với suy nghĩ rằng “Hôn nhân là mồ chôn tình yêu!” (Chamfort).
Trong phạm vi bài này, chúng ta thử tìm hiểu về thực trạng và nguyên nhân liên quan câu chuyện nhiều bạn trẻ ngày nay sợ kết hôn, đồng thời cũng muốn bàn đến một số những giải pháp khả thi nhằm giúp các bạn trẻ có cái nhìn tích cực hơn về hôn nhân, nhất là đối với các bạn trẻ Ki-tô giáo.
1.- Thực trạng
Trong bài báo có tựa đề “Giới trẻ Hàn Quốc lười kết hôn, ngại sinh con” trên trang vnexpress.net ngày 31-5-2021, tác giả đã cho biết như sau: Trước áp lực của cuộc sống hiện đại, thế hệ trẻ Hàn Quốc đang chọn cách sống độc thân, không con cái, dẫn đến nhiều hệ quả đối với nền kinh tế hàng đầu châu Á. ‘I Live Alone’ (Tôi sống một mình) là chương trình truyền hình thực tế nổi tiếng, kể về cuộc sống của các diễn viên, ca sĩ K-pop với những hoạt động đời thường như cho thú cưng ăn hoặc nấu mì ramen vào lúc nửa đêm – tất cả đều một mình.
Tác giả bài báo cho biết tiếp, ngày càng nhiều người Hàn Quốc ở độ tuổi 20-30 chọn từ bỏ ba điều được coi là quan trọng trong cuộc đời mỗi con người: hẹn hò, kết hôn và sinh con. Họ được gọi là “thế hệ Sampo” và thường bị chỉ trích là ích kỷ. Theo một báo cáo của chính phủ Hàn Quốc, những người sống một mình đã chiếm gần 40% dân số ở đất nước này. Năm 2020, khi quốc gia này lần đầu tiên báo cáo tỷ lệ tăng trưởng dân số âm, thứ trưởng Bộ Tài chính khi đó là Kim Yong-beom tuyên bố cột mốc quan trọng này là “nút thắt tử thần”. [1]
Quả thực, hiện nay, xu hướng chọn lựa sống độc thân, ngại kết hôn, sợ làm đám cưới, không muốn có con đang lan tràn mạnh mẽ tại nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là tại Á Châu như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Xu hướng này ngày càng trở nên đáng lo ngại hơn bởi đó không còn đơn thuần là một hiện tượng cá nhân nhỏ nhoi nữa, mà đang trở nên một hội chứng tâm lý đặc biệt mà các chuyên gia gọi đó là Hội chứng sợ kết hôn (Gamophobia).
Vậy “Hội chứng sợ kết hôn” (Gamophobia) là gì? Theo tác giả Nguyễn Thảo trên trang tamly.com.vn ngày 8-2-2022 đã cho biết như sau:
Hội chứng sợ kết hôn (Tiếng Anh: Gamophobia/ Fear of Commitment, Fear of Marriage) là một dạng rối loạn tâm lý ít gặp. Hội chứng này đặc trưng bởi nỗi sợ thái quá, vô lý về việc cam kết lâu dài cho một mối quan hệ (thường là hôn nhân). Gamophobia được xếp vào nhóm rối loạn lo âu ám ảnh sợ hãi (ám ảnh sợ đặc hiệu) như chứng sợ độ cao, sợ côn trùng, sợ máu v.v…
Hội chứng sợ kết hôn (Gamophobia) đặc trưng bởi nỗi sợ thái quá về hôn nhân và sự gắn kết lâu dài trong một mối quan hệ. Hội chứng này thường gặp ở những người có trải nghiệm tiêu cực về hôn nhân gia đình trong quá khứ. Những ý nghĩ về việc kết hôn hoặc sự ràng buộc lâu dài trong một mối quan hệ khiến bệnh nhân trở nên lo lắng, bất an, sợ hãi và căng thẳng. Thậm chí một số người trở nên hoảng loạn và mất kiểm soát. Có rất nhiều dạng ám ảnh sợ đặc hiệu nhưng Gamophobia ít được nghiên cứu hơn. Chính vì vậy, không ít người cảm thấy hoang mang, lo lắng khi bản thân có nỗi sợ vô lý về việc gắn kết lâu dài hay cụ thể hơn là kết hôn.
Hiện tại, chưa có thống kê chính xác về tỷ lệ người mắc hội chứng sợ kết hôn. Theo ước tính có khoảng 12.5% người Mỹ mắc phải chứng ám ảnh sợ, trong đó phổ biến nhất là sợ kim tiêm, sợ máu, sợ nhện vv…Trong khi đó tỷ lệ người mắc hội chứng Gamophobia ước tính khoảng dưới 1% dân số. Tương tự như các dạng ám ảnh đặc hiệu khác, Gamophobia có thể đi kèm với những nỗi sợ vô lý khác như nỗi sợ bị bỏ rơi, sợ thân mật và sợ phải tin tưởng người khác. Dù chưa có thống kê chính xác nhưng các chuyên gia nhận thấy, tỷ lệ người mắc hội chứng này tăng lên đáng kể trong 15 năm qua và nguy cơ cao hơn ở nữ giới trẻ tuổi.[2]
Theo một khảo sát được thực hiện trên website fearof.net với sự tham gia của 69.108 người vào giữa năm 2019, phụ nữ hiện nay có xu hướng từ chối kết hôn nhiều hơn đàn ông. Cụ thể, 66% người tham gia là nữ mắc hội chứng Gamophobia. Trong khi đó, con số này chỉ là 34% với nam giới.[3]
Riêng tại các đô thị lớn ở Trung Quốc, hiện tượng khiếp sợ hôn nhân hiện nay đang dần dần đã trở thành một căn bệnh truyền nhiễm trong giới phụ nữ công chức. Các nhà tâm lý học và xã hội học đã tiến hành tìm hiểu và thấy có mấy nguyên nhân chính của căn bệnh trên, chẳng hạn như: do sợ gánh vác trách nhiệm trong hôn nhân, lo sợ hôn nhân là mồ chôn của tình yêu, do bị ảnh hưởng của những biến cố lớn trong cuộc đời như tuổi thơ đã phải chịu một vết thương tâm lý nặng nề, để lại dấu ấn sau đậm trong tim họ, hay trường hợp luôn lo sợ về gánh nặng kinh tế sau khi kết hôn, hoặc người có những yêu cầu quá cao, quá hoàn mỹ đến mức hà khắc về đối tượng hôn nhân.[4]
Một thống kê cho biết, tại Trung Quốc, tỷ lệ kết hôn đang giảm mạnh. Vào năm 2021, chỉ có 8,13 triệu cặp đôi đăng ký kết hôn, giảm 12% so với năm 2020. Đây cũng là năm thứ bảy liên tiếp tỷ lệ này giảm. Nếu so với năm 2013 (13,47 triệu cặp đăng ký kết hôn), tỷ lệ này đã giảm đến 40%. Một cuộc điều tra dân số trong năm vừa qua cho thấy nước này đã trải qua mức thấp nhất trong sáu thập kỷ về tỷ lệ sinh.
Trong khi đó, ở Nhật Bản thống kê cho thấy, cứ 4 người đàn ông thì có 1 người không lập gia đình cho đến độ tuổi 50. Tại sao vậy? Theo báo Japan Times, xu hướng không lập gia đình ngày càng tăng trong xã hội là một nội dung trong báo cáo sắp công bố của Chính phủ Nhật. Bên cạnh đàn ông, tỉ lệ phụ nữ Nhật ở vậy một mình đến tuổi 50 là 1/7 người. Dữ liệu này được Chính phủ Nhật công bố 5 năm một lần và không tính đến những người đã ly hôn hoặc có hôn phu/hôn thê qua đời trước tuổi 50. So với hồi thập niên 1970, chỉ có 1,7% đàn ông và 3,33% phụ nữ Nhật chưa từng kết hôn đến tuổi 50.
Các chuyên gia đánh giá xu hướng độc thân đi lên là do áp lực đối với chuyện cưới xin trong xã hội Nhật ngày càng giảm, cùng với nó là nỗi lo tài chính trong nhóm những người không có nghề nghiệp ổn định. Phát hiện này cũng đồng nghĩa tỉ lệ sinh ở Nhật khó lòng sớm hồi phục, trong khi sẽ có thêm nhiều người cao tuổi độc thân chọn viện dưỡng lão để sống những năm tháng cuối đời.
Riêng tại Việt Nam, tác giả bài viết “Những người chọn sống độc thân” đăng trên trang vnexpress.net ngày 2-3-2022 cho hay: Tại Việt Nam, theo Tổng cục thống kê tỷ lệ người sống độc thân cũng đang có xu hướng tăng nhanh, từ 6,23% năm 2004 tăng lên 10,1% vào năm 2019. Một giảng viên khoa Tâm lý Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã cho hay là sống độc thân đã trở thành xu hướng mới, đại diện cho sự độc lập về kinh tế và tinh thần của một số người trẻ. Chuyên gia này cũng cho biết thêm về một nghiên cứu tại Mỹ thực hiện năm 2012 bởi các nhà tâm lý học Đại học Thành phố San Diego và được Hiệp hội Tâm lý học (Mỹ) công bố, những người sinh ra trong thập niên 80 và 90 thường tự cho mình là trung tâm hơn so với thế hệ trước. Họ trân trọng chủ nghĩa cá nhân, biểu hiện lớn nhất là khát vọng sống cho mình. Nếu hôn nhân không thể cải thiện chất lượng cuộc sống, hoặc ảnh hưởng đến giá trị bản thân, họ sẽ không lựa chọn hôn nhân. Ngoài ra, theo chuyên gia này, ngoài lý do theo đuổi chủ nghĩa cá nhân, việc chưa tìm thấy đối tượng phù hợp, sợ trẻ con hay bị ám ảnh về hôn nhân không hạnh phúc cũng khiến nhiều người chọn độc thân.[5]
Như vậy, chúng ta đã thấy rằng vấn đề sợ kết hôn không chỉ là một xu hướng nhất thời, chung chung nữa, mà đã trở thành một căn bệnh truyền nhiễm đặc biệt, đã và đang lây lan trong giới trẻ tại nhiều nơi trên thế giới. Các nhà tâm lý học và xã hội học đã nghiên cứu sâu hiện tượng này và đã phát hiện ra nhiều nguyên nhân khiến cho nhiều bạn trẻ lo sợ không dám kết hôn một cách bình thường nữa. Vậy những nguyên nhân chính là những nguyên nhân nào?
2.- Nguyên nhân
Trở lại với bài viết “Hội chứng sợ kết hôn” trên trang tamly.com.vn ngày 8-2-2022, tác giả đã nêu ra một số nguyên nhân gây Hội chứng sợ kết hôn, như sau: Hiện tại, các chuyên gia chưa thể xác định được nguyên nhân gây hội chứng sợ kết hôn. Tương tự như các ám ảnh sợ đặc hiệu khác, Gamophobia thường là hậu quả do nhiều yếu tố kết hợp. Trong đó, những trải nghiệm tiêu cực trong quá khứ là yếu tố có vai trò quan trọng nhất. Các nguyên nhân, yếu tố có thể gây ra chứng Gamophobia, đó là:
2.1. Trải nghiệm tiêu cực từ thời thơ ấu: Các chuyên gia nhận thấy, những người mắc hội chứng Gamophobia thường có gia đình không hạnh phúc, chứng kiến cha mẹ cãi nhau và có các hành vi bạo lực từ khi còn nhỏ. Điều này tạo nên thái độ tiêu cực của trẻ về việc kết hôn và dần phát triển thành nỗi sợ vô lý, thái quá.
2.2. Thất bại trong hôn nhân: Ngày nay, việc ly hôn, ly thân không còn là vấn đề quá xa lạ. Sau một cuộc hôn nhân tan vỡ, cả hai người đều sẽ phải chịu tổn thương về mặt tinh thần. Ngoài ra, chứng kiến những người xung quanh liên tục thất bại trong tình yêu cũng khiến cho nhiều người có suy nghĩ tiêu cực về hôn nhân. Yếu tố này góp phần thúc đẩy sự phát triển của nỗi sợ vô lý, thái quá về việc gắn kết lâu dài.
2.3. Ảnh hưởng của nền văn hóa: Ở một số quốc gia, phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi khi kết hôn và nam giới phải có nguồn lực tài chính để chi trả cho những thủ tục cưới xin phức tạp. Những yếu tố này cũng được xem là nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển nỗi sợ phi lý, thái quá về việc kết hôn.
2.4. Di truyền: Tương tự như các ám ảnh sợ đặc hiệu khác, Gamophobia cũng có khả năng di truyền. Ở những bệnh nhân mắc các ám ảnh sợ, chuyên gia nhận thấy hạch hạnh nhân hoạt động quá mức. Cơ quan này chịu trách nhiệm chi phối và kiểm soát nỗi sợ, sự lo lắng và bất an. Hạch hạnh nhân hoạt động quá mức khiến cho một số người sợ hãi thái quá với một số vấn đề không thực sự nguy hiểm.
Tác giả bài viết cũng cho biết thêm, theo nhiều chuyên gia, hội chứng sợ kết hôn là hệ quả do di truyền kết hợp với các yếu tố tâm lý – xã hội. Trong đó, thường có liên quan đến những trải nghiệm tiêu cực về hôn nhân của người thân trong gia đình hoặc chính bản thân người bệnh. Mặt khác, nhiều người nhầm lẫn hội chứng sợ kết hôn với những người theo chủ nghĩa độc thân, muốn sống tự do, thoải mái thay vì gò bó trong mối quan hệ hôn nhân. Sự nhầm lẫn này khiến cho nhiều bệnh nhân không được thăm khám và điều trị sớm. So với các dạng ám ảnh sợ khác, Gamophobia ít ảnh hưởng đến việc học, nghề nghiệp mà chủ yếu ảnh hưởng đến các mối quan hệ.
Người mắc hội chứng sợ kết hôn sẽ gặp phải nhiều vấn đề trong các mối quan hệ. Bởi phản ứng thái quá khi người khác hỏi về tình trạng hôn nhân và dự định lâu dài trong mối quan hệ. Mâu thuẫn, xung đột có thể xảy ra khiến bệnh nhân dần thu mình, ít giao tiếp và kết bạn. Việc giới hạn các mối quan hệ cũng sẽ gây ra những khó khăn nhất định trong quá trình học tập, làm việc, sinh hoạt vv…
Tương tự như các ám ảnh sợ đặc hiệu khác, bệnh nhân mắc hội chứng sợ kết hôn sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề sức khỏe thể chất như stress, mất ngủ, cao huyết áp, suy nhược cơ thể… Suy nghĩ tiêu cực, cảm giác đau khổ và tuyệt vọng khi phải chia tay với người mình yêu thương cũng khiến cho người bệnh phát triển các vấn đề tâm lý khác như rối loạn lo âu, trầm cảm, rối loạn ăn uống. Bản thân người mắc hội chứng Gamophobia nhận ra sự thái quá, vô lý về nỗi sợ của bản thân nhưng không thể nào kiểm soát. Để quên đi thực tại, bệnh nhân có xu hướng sử dụng rượu bia, thuốc lá, chất gây nghiện và khó có thể duy trì được lối sống lành mạnh. Nhiều người lựa chọn các mối quan hệ độc hại để tránh sự áy náy, hối hận khi phải chấm dứt mối quan hệ.[6]
Trên đây, dựa vào những nghiên cứu của các nhà chuyên môn về tâm lý xã hội, chúng ta biết được tính chất của hội chứng sợ kết hôn như thế nào, cùng với việc phát hiện ra nhiều biểu hiện đặc trưng và những nguyên nhân chính gây ra chứng này. Hiện nay, người ta đã nghiên cứu và đưa ra nhiều giải pháp khả thi nhằm làm giảm thiểu sự gia tăng và mức độ nghiêm trọng của hiện trạng này. Các chuyên gia đã thực hiện một số giải pháp khả thi trên ba phương diện y tế, tâm lý và xã hội.
Bên cạnh đó, vai trò của tôn giáo, đặc biệt là Hội thánh Công giáo, cũng góp phần không nhỏ trong việc quan tâm, yêu thương và nâng đỡ các bạn trẻ cách chung và những ai đang trong tình trạng sợ kết hôn, do dự không dám lập gia đình và kể cả những người được chẩn đoán là đang mắc hội chứng Gamophobia.
Sau đây, chúng ta sẽ bàn về các giải pháp nêu trên.
3.- Giải pháp của xã hội
Các nhà chuyên môn nhận định rằng, nỗi sợ vô lý về việc kết hôn gây ra nhiều ảnh hưởng đối với cuộc sống. Ngoài tình trạng phải sống đơn độc, sự đau khổ, lo lắng và bất an do hội chứng này gây ra cũng khiến cho bệnh nhân phải đối mặt với nhiều vấn đề sức khỏe thể chất và tinh thần. Can thiệp điều trị là điều cần thiết đối với hội chứng sợ kết hôn mặc dù còn tồn đọng nhiều khó khăn và thách thức. Tùy vào tình trạng cụ thể, bác sĩ sẽ tư vấn phương pháp phù hợp. Hiện nay, các phương pháp được áp dụng phổ biến nhất là liệu pháp tâm lý và sử dụng thuốc.
3.1. Y tế
Các chuyên gia cho rằng, sử dụng thuốc không phải là lựa chọn ưu tiên đối với hội chứng sợ kết hôn. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân thường xuyên lo lắng, căng thẳng, bác sĩ có thể chỉ định dùng một số loại thuốc. Trường hợp mắc đồng thời với trầm cảm và các rối loạn lo âu khác sẽ phải sử dụng thuốc lâu dài như một phương pháp điều trị chính. Dùng thuốc không giúp ích trong việc kiểm soát nỗi sợ phi lý và thái quá. Do đó, bệnh nhân bắt buộc phải kết hợp sử dụng thuốc với can thiệp liệu pháp tâm lý.
3.2. Tâm lý
Liệu pháp tâm lý là lựa chọn ưu tiên khi điều trị rối loạn ám ảnh sợ, bao gồm cả hội chứng sợ kết hôn. Mục tiêu của phương pháp này là giúp bệnh nhân vượt qua nỗi sợ và học cách khống chế sự sợ hãi vô lý, thái quá. Về lâu dài, nỗi sợ kết hôn sẽ thuyên giảm và bệnh nhân có thể trải nghiệm cuộc sống một cách trọn vẹn thay vì thường trực sự lo lắng, sợ hãi như trước đây. Trước khi can thiệp, chuyên gia sẽ đánh giá tình trạng cụ thể và lựa chọn phương pháp phù hợp với từng bệnh nhân.
Liệu pháp tâm lý là phương pháp điều trị chính đối với hội chứng sợ kết hôn. Một số liệu pháp tâm lý tiêu biểu được áp dụng cho bệnh nhân mắc hội chứng sợ kết hôn, chẳng hạn như:
Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT- Cognitive Behavioral Therapy): là hình thức trị liệu giúp bệnh nhân thay đổi suy nghĩ một cách tích cực hơn, từ đó kiểm soát nỗi sợ và giúp người bệnh phát triển các mối quan hệ lành mạnh. Hiện nay, CBT là phương pháp trị liệu tâm lý được áp dụng phổ biến nhất nhờ mang đến nhiều lợi ích.[7]
Liệu pháp tiếp xúc: Liệu pháp tiếp xúc (liệu pháp phơi nhiễm) được thực hiện bằng cách cho bệnh nhân tiếp xúc với nỗi sợ với cường độ tăng dần theo thời gian. Khi bệnh nhân xuất hiện sự sợ hãi và lo lắng, chuyên gia sẽ hướng dẫn các kỹ thuật thư giãn như thư giãn cơ, hít thở sâu,… Quá trình này sẽ được lặp đi lặp lại giúp cho bệnh nhân học cách khống chế nỗi sợ và giảm đi sự sợ hãi vô lý, thái quá.
Cách chung, liệu pháp tâm lý mang lại hiệu quả cao trong điều trị hội chứng sợ kết hôn và các ám ảnh sợ khác. Để tăng hiệu quả, chuyên gia có thể đề nghị bệnh nhân can thiệp trị liệu nhóm, cặp đôi hoặc gia đình bên cạnh trị liệu cá nhân.
3.3. Cá nhân
Theo các chuyên gia, phạm vi cá nhân sẽ có các biện pháp tự cải thiện. Ngoài các phương pháp y tế, bệnh nhân cũng cần có các biện pháp tự cải thiện để vượt qua nỗi sợ kết hôn và gắn kết lâu dài. Các biện pháp này góp phần giúp giảm nỗi sợ thái quá, đồng thời hỗ trợ bệnh nhân học cách khống chế cảm xúc và thay đổi những suy nghĩ méo mó về hôn nhân.
Các chuyên gia đã đề nghị một số biện pháp tự cải thiện hội chứng sợ kết hôn như:
. Chia sẻ tình trạng sức khỏe của bản thân với gia đình hoặc những người bạn thân thiết. Khi được người khác thấu hiểu, bệnh nhân sẽ cảm thấy thoải mái và có động lực để điều trị.
. Tập thói quen viết nhật ký hằng ngày cũng là cách giải tỏa cảm xúc hữu hiệu. Biện pháp này sẽ giúp bệnh nhân kiểm soát sự lo lắng, căng thẳng, bất an… Đồng thời có cơ hội đánh giá lại suy nghĩ, cảm xúc của bản thân, từ đó điều chỉnh hành vi và nhận thức một cách đúng đắn hơn.
. Nên trò chuyện, chia sẻ với những người có hôn nhân trọn vẹn để thay đổi những suy nghĩ tiêu cực. Năng lượng tích cực từ những người xung quanh sẽ giúp bệnh nhân có thêm niềm tin và hy vọng về hôn nhân, từ đó giảm đi nỗi sợ và sự lo lắng thái quá về việc gắn kết lâu dài.
. Xây dựng lối sống lành mạnh, không dùng rượu bia, thuốc lá và chất gây nghiện.
. Tham gia các hoạt động cộng đồng và thực hiện những hành động có ý nghĩa để gia tăng sự tự tin, lòng trắc ẩn và yêu thương. Nhiều nghiên cứu cho thấy, hoạt động thiện nguyện giúp giảm đáng kể những cảm xúc tiêu cực và học cách kiểm soát tốt cảm xúc cá nhân.
Các chuyên gia tâm lý cho biết thêm là trầm cảm là một trong những bệnh tâm lý phổ biến nhất dẫn tới tình trạng sợ hãi hôn nhân. Vì thế người mắc hội chứng Gamophobia luôn cần được sự quan tâm chăm sóc của gia đình và của cộng đồng. Bất kỳ ai tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời mình có thể thấy chùn bước trước quyết định kết hôn và cảm thấy lo lắng, sợ hãi. Tuy nhiên với lòng kiên định cùng sức mạnh của ý chí, nỗi sợ hôn nhân có thể được giải quyết tương tự như các nỗi sợ khác. Để vượt qua nỗi sợ này, bạn cần tin tưởng người khác đồng thời duy trì lòng tin vào bản thân.
Tóm lại, theo các chuyên gia tâm lý và các nhà xã hội học, trong vấn đề thực trạng hôn nhân ở Việt Nam hiện nay, cùng với việc vi phạm điều kiện kết hôn, hiện tượng không muốn lập gia đình cũng là một hiện tượng hôn nhân đáng bàn luận. Không muốn lập gia đình có thể hiểu là nam, nữ không muốn tham gia vào mối quan hệ vợ chồng và không muốn xác lập quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng. Hiện tượng trên khởi đầu trong những nước có mức sống cao ở Bắc Âu, lan sang Bắc Mỹ. Ở Châu Á, Nhật Bản là quốc gia điển hình. Riêng ở Việt Nam, hiện nay chưa có con số thống kê về tỉ lệ người theo xu hướng sống độc thân. Trên thực tế, trong một thời gian dài, hiện tượng này trở thành một trào lưu và được nhiều bạn trẻ hưởng ứng, nhiều người trở nên tôn sùng “chủ nghĩa độc thân”.
Nhìn trên phương diện lợi ích quốc gia, xu hướng không lập gia đình nếu kéo dài sẽ gây xáo trộn đời sống xã hội, điển hình như: không lập gia đình kéo theo việc duy trì nòi giống bị gián đoạn, dẫn tới lực lượng lao động trên thị trường suy giảm; khi bước sang giai đoạn già hóa dân số, gánh nặng về vấn đề phúc lợi xã hội sẽ tăng cao; tỉ lệ sinh đẻ giảm khiến lượng cầu của hàng hóa, dịch vụ cho bà mẹ và trẻ em giảm theo. Quan trọng nhất, các “tế bào xã hội” sẽ dần bị mất đi. Hiện tượng trên có thể được hình thành từ nhiều nguyên nhân, nhưng điển hình có thể kể đến như do sự du nhập văn hóa từ các quốc gia khác, do áp lực về kinh tế và do tư tưởng muốn sống tự do, không thích ràng buộc của các bạn trẻ. (Nguồn: Internet)
3.- Giáo huấn của Hội thánh về mục vụ Hôn nhân Gia đình
Chúng ta biết rằng ngày nay, hôn nhân đối với hầu hết các bạn trẻ, kể cả các bạn trẻ Công giáo là một thực tế đầy khó khăn và phức tạp. Dường như họ đang gặp phải những thách thức to lớn khiến nhiều người rơi vào tâm lý khủng hoảng, hoang mang lo sợ cho viễn ảnh hôn nhân của mình. Có thể kể ra, nào là thực trạng ly hôn lan tràn, nào là việc bị ép kết hôn sớm, nào là chuyện phá thai hoặc có thai trước hôn nhân, nào là hiện tượng “mẹ-đơn-thân”, rồi vấn đề bạo hành bạo lực trong gia đình vv.
Trước những mặt tiêu cực đó của hôn nhân, Hội thánh Công giáo luôn bầy tỏ trách nhiệm phải làm sao giúp các bạn trẻ mạnh mẽ vượt qua tất cả, để có một cuộc hôn nhân xứng đáng và đem lại hạnh phúc đích thực. Có thể nói, Hội thánh mọi thời đều tỏ ra rất quan tâm, lo lắng tới vấn đề hôn nhân gia đình của các Ki-tô hữu, những người đã lập gia đình, những người đang gặp khó khăn cách này cách khác trong đời sống hôn nhân, những ai đang chuẩn bị kết hôn.
Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II trong Tông huấn Những bổn phận gia đình Kitô hữu (Familiaris Consortio/ FC) ngày 22-11-1981, ngay trong phần dẫn nhập với tiêu đề “Giáo hội phục vụ các gia đình” đã viết như sau:
“Vì biết rằng hôn nhân và gia đình là một trong những điều thiện hảo quý giá nhất của nhân loại, Giáo Hội muốn ngỏ lời và đem lại sự nâng đỡ cho những người đã biết được giá trị của hôn nhân cũng như gia đình và đang cố gắng sống trung thành với giá trị đó, cho những người đang sống trong ngập ngừng âu lo và đang đi tìm chân lý, cho những người đang bị ngăn cản cách bất công, không được tự do sống những dự phóng của gia đình họ. Trong khi đem lại sự nâng đỡ cho nhóm thứ nhất, ánh sáng cho nhóm thứ hai và sự trợ giúp cho nhóm người thứ ba, Hội Thánh muốn đem thân phục vụ mọi người đang bận tâm lo lắng cho số phận của hôn nhân và gia đình.
“Giáo Hội đặc biệt ngỏ lời với các bạn trẻ đang chuẩn bị dấn thân trên con đường hôn nhân và gia đình, ngõ hầu mở ra cho họ những chân trời mới bằng cách giúp họ khám phá ra vẻ đẹp và sự cao cả của ơn gọi sống tình yêu phục vụ cho sự sống.” (x. số 1)[8]
Nếu đối với một số người, hôn nhân là tai họa, là gánh nặng, là hỏa ngục, là một cuộc chơi, là một ván cờ…thì trái lại hôn nhân đối với người Công giáo được khẳng định như một ơn gọi, một ơn huệ, một sứ mệnh đến từ Thiên Chúa. Vẻ đẹp cao cả của hôn nhân là do bản chất của nó nằm trong ý định sáng tạo và cứu rỗi của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ để họ kết hợp thành đôi hôn phối sống với nhau và nương tựa nhau: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2,18); “Bởi thế người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2, 24).
Và sự kết hôn của họ nằm trong chương trình kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa: “Những đôi bạn cử hành hôn nhân Công giáo là những người đã đi vào trong chính kế hoạch của lịch sử cứu độ, mà cao điểm tìm thấy trong Giao Ước Tình Yêu của Đức Ki-tô với Hội thánh. Họ được mời gọi trở nên hình ảnh sống động của Tình Yêu Thiên Chúa…” (Thánh GH Gio-an Phao-lô II, FC).
Hôn nhân đích thực là một ơn gọi như bao ơn gọi khác, bởi vì Thiên Chúa đã kêu gọi con người đi vào đời sống ấy như một ơn thiên triệu và hôn ước giữa hai người nam nữ được thiết định như một bí tích vừa đem lại ân sủng vừa thúc đẩy dấn thân chu toàn sứ mệnh.
“Thiên Chúa là tình yêu và nơi chính mình Người, Người đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương giữa các ngôi vị. Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh Người và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông. Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người” (Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II, FC số 11).
Mặt khác, hôn nhân cũng là một sứ mệnh đặc biệt, bởi vì Thiên Chúa đã ban cho con người một trái tim để yêu và được yêu, một giới tính để hấp dẫn và thu hút nhau, một định mệnh để liên kết sống-với-nhau. Khi lãnh nhận những ân huệ ấy, con người đáp trả Đấng Tạo Thành bằng việc thi hành sứ mệnh của hôn ước. Họ chấp nhận nên một để trọn đời yêu thương và nâng đỡ bổ sung cho nhau, “Không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (x. Mt 19,6; St 2,24). Do vậy, “Sự hiệp thông vợ chồng ăn rễ sâu từ sự thu hút tự nhiên về giới tính, cũng như từ sự bổ túc lẫn nhau giữa nam và nữ, được nuôi dưỡng nhờ những nỗ lực của đôi bạn muốn chia sẻ cho nhau trọn cả bản thân trong suốt cuộc đời”. [9]
Họ chấp nhận liên kết nhau để hướng đến một mục đích cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh sản và giáo dục con cái. Họ ý thức rằng, “Con cái là ân huệ cao quý của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ. Tình yêu vợ chồng còn phong phú nhờ những hoa quả của đời sống luân lý, tinh thần và siêu nhiên được cha mẹ truyền lại cho con cái qua việc giáo dục. Theo nghĩa này, mục tiêu nền tảng của hôn nhân và gia đình là phục vụ cho sự sống và hạnh phúc.”[10]
Trong lá thư gửi các cặp vợ chồng nhân ngày lễ Thánh Gia 26-12-2021, cũng là dịp kỷ niệm 5 năm ban hành Tông huấn Amoris laetitia / Niềm Vui của Tình Yêu, ĐTC Phan-xi-cô đã chia sẻ những lời nhắn nhủ như sau:[11]
Với các bạn trẻ chuẩn bị kết hôn, ngài viết: “Ngay cả trước khi đại dịch xảy ra, việc các cặp đôi đính hôn lên kế hoạch cho tương lai cũng chẳng dễ dàng gì vì khó tìm được việc làm ổn định. Giờ đây, thị trường lao động thậm chí còn bấp bênh hơn, cha khuyến khích các cặp đôi đã đính hôn đừng nản lòng, nhưng hãy có sự can đảm sáng tạo như Thánh Giuse đã thể hiện, người mà cha đã muốn tôn vinh trong năm dành riêng cho ngài. Trên hành trình tiến tới hôn nhân, hãy luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, dù khả năng của các con có hạn chế, vì đôi khi chính những khó khăn lại mang đến cho mỗi chúng ta những nguồn lực mà chúng ta chưa bao giờ nghĩ rằng mình có. Đừng ngần ngại dựa vào gia đình và bạn bè của các con, vào cộng đoàn Giáo hội, vào giáo xứ, để giúp các con chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân và gia đình bằng cách học hỏi từ những người đã trải qua lộ trình mà các con đang bắt đầu”.
Riêng đối với các đôi vợ chồng đã kết hôn, câu hỏi đặt ra là họ có thể đóng góp điều gì cho đời sống và sứ mạng của Hội Thánh. Về điểm này, ĐTC đã nhắc đến vai trò của giáo dân trong Hội Thánh, ngài viết: “Như cha đã lưu ý, chúng ta ngày càng nhận thức được căn tính và sứ mạng của giáo dân trong Giáo hội và xã hội. Các con có sứ mạng biến đổi xã hội bằng sự hiện diện của các con tại nơi làm việc và đảm bảo rằng các nhu cầu của gia đình được quan tâm đúng mức.”
Tiếp theo, ngài nhấn mạnh vai trò của các cặp vợ chồng trong Mục vụ Hôn nhân: “Vì vậy, cha khuyến khích các con, các cặp vợ chồng thân mến, hãy tích cực hoạt động trong Giáo Hội, đặc biệt là trong việc chăm sóc mục vụ gia đình. Tinh thần đồng trách nhiệm đối với sứ mạng của Giáo hội đòi hỏi các cặp vợ chồng và các thừa tác viên được thụ phong, đặc biệt là các giám mục, hợp tác với nhau cách hiệu quả trong việc quan tâm chăm sóc các Giáo hội tại gia”. Đừng bao giờ quên rằng gia đình là “tế bào nền tảng của xã hội.” ./.
Aug. Trần Cao Khải
[1] Giới trẻ Hàn Quốc lười kết hôn, ngại sinh con – VnExpress Đời sống
[2] Hội chứng sợ kết hôn (Gamophobia) là gì? Cách vượt qua nỗi sợ – Tâm Lý Học (tamly.com.vn)
[3] Hội chứng Gamophobia: Hễ nhắc đến hôn nhân là toát mồ hôi hột, tay chân bủn rủn (afamily.vn)
[4] Sợ hôn nhân – Căn bệnh của giới nữ công chức – Báo Người lao động (nld.com.vn)
[5] Vì sao nhiều người trẻ Việt chọn sống độc thân (vnexpress.net)
[6] Hội chứng sợ kết hôn (Gamophobia) là gì? Cách vượt qua nỗi sợ – Tâm Lý Học (tamly.com.vn)
[7] CBT: Những hiểu biết cơ bản liệu pháp nhận thức hành vi – YouMed
[8] Tông Huấn Familiaris Consortio (Gia Đình Kitô Hữu) Của ĐGH Gioan Phaolô II (Ngày 22-11-1981) – (1) | Học viện Đa Minh (catechesis.net)
[9] UB Giáo Lý Đức Tin – Giáo Lý Hôn Nhân Gia Đình – NXB TG Hànội 2004
[10] UB Giáo Lý Đức Tin – Giáo Lý Hôn Nhân Gia Đình – NXB TG Hànội 2004
[11] Đọc Thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi các đôi vợ chồng (hdgmvietnam.com)
2022
Yêu nhau trong giai điệu ngày thường
Yêu nhau trong giai điệu ngày thường
Vượt trên những ngăn cản khuyên lơi của gia đình và bạn bè, vượt qua quãng đường dài tít tắp, và đôi khi vượt trên cả sự chênh lệch tuổi tác hay khác biệt về “môn đăng hộ đối”, nhiều người trẻ ngày nay cảm thấy rằng tình yêu là tất cả, và mọi thứ không phải là vấn đề miễn là họ yêu nhau. Tuy nhiên, khi đam mê cháy bỏng nguội bớt, những cưng chiều tình tứ ban đầu cũng sẽ tàn lụi. Tình yêu dù có lãng mạn, bền chặt đến đâu thì cuối cùng cuộc sống chung của họ cũng không thể bỏ lơ những thứ tầm thường như cơm áo gạo tiền và đủ điều vụn vặt khác. Khi những đôi bạn trẻ thực sự bắt đầu đối mặt với những vấn đề này, các vấn đề khác sẽ lần lượt bị lột trần.
Khoảng thời gian của thời tuổi trẻ, ta yêu nhau bằng tất cả sự say mê, đắm đuối; ta mong muốn mang đến cho nhau những gì lãng mạn, đẹp đẽ và hào hoa nhất. Nhưng tất cả đó là chưa đủ, vì khi quyết định gắn kết với nhau, ta cần sự thức nhận về tình yêu, về anh và em trong “giai điệu ngày thường” vượt trên những dư vang của thời tuổi trẻ cuồng nhiệt. Người ta yêu nhau, sống chung với nhau vì muốn mang bình yên đến cho nhau. Tình yêu không phải một vài lời hứa, tình yêu cũng không phải chỉ bên nhau một, hai ngày, càng không phải những lời thề non hẹn biển được viết trên giấy hay nói suông. Tình yêu là trách nhiệm không từ bỏ, hơn nữa đó là sự đồng hành bình đạm. Tình yêu phải đủ sâu đậm để đi được một đoạn đường dài, nếu không nó sẽ nhanh chóng bị giết chết giữa vô vàn lo toan trong bộn bề cuộc sống. Muốn đi với nhau trên một con đường dài trong một hành trình lâu bền, tình yêu phải là cái gì đó “tự nhiên và tự nguyện” trong chính những giai điệu ngày thường chứ không phải là những rung động trong những lúc nảy lửa của những kỷ niệm nồng nàn ngắn ngủi. Tình yêu càng sâu sắc thì càng ẩn sâu bên trong chứ không nằm ở miệng hay sự thể hiện hời hợt bên ngoài.
Giá trị đích thực của hôn nhân đôi khi không nằm ở sự đúng sai chính yếu, cũng không hệ ở sự ngọt ngào, lãng mạn và bay bổng như những ngày đầu mới yêu mà nằm ở những chi tiết hết sức nhỏ bé trong cuộc sống thường nhật. Đó là những quan tâm chân thành, những hi sinh nho nhỏ hàng ngày không chút đắn đo. Đó là khi trời lạnh, có người nhắc ta mặc thêm áo ấm. Đó là khi ta tăng ca về khuya, trong nhà vẫn có ánh đèn đợi ta về. Đó là khi ta gặp chuyện buồn hay khó chịu, luôn có người sẵn sàng lắng nghe. Mọi khoảng sáng tối của cuộc đời ta đều có một người đồng hành, vui vì niềm vui của ta, buồn vì nỗi buồn của ta. Nếu không có những thứ này, hai người sẽ không thể bên nhau dài lâu được. Trong hôn nhân, một người cố gắng là không đủ, nó cần sự nỗ lực của cả hai. Có những người chia tay không phải vì hết yêu, mà vì quá mệt mỏi để tiếp tục tình yêu ấy…
Trong năm qua, vì lệnh giãn cách xã hội, phần đông người Sài Gòn đã không đi làm, các em học sinh nghỉ học và phải ở trong nhà nhiều tháng. Chắc hẳn chưa khi nào các gia đình Sài Gòn đông đủ lâu dài như thế vì hầu như mọi thành viên trong gia đình, thuộc nhiều thế hệ, nhiều lứa tuổi, đã ở trong nhà nhiều tháng. Không gian chật hẹp với 4 bức tường của căn phòng trọ hay ngôi nhà trong hẻm sâu đã khiến không ít người cảm thấy bức bí, khó chịu và mệt mỏi. Không ít gia đình xảy ra cãi vã xích mích, va chạm về những điều vụn vặt mà trước đây, vì sự bận rộn của công việc và cuộc sống người ta dễ lơ đi nhanh hơn. Chính trong những lúc đồng lao cộng khổ, ta nhận ra sự chân chính của một tình yêu thủy chung. Chính trong những giai điệu của ngày thường, ta nhận ra nhịp điệu của tình yêu, nhịp điệu của cuộc đời vang lên trong mênh mông sâu thẳm.
Gió Biển
2022
Cái động và cái tĩnh của người tu – Một góc nhìn về ơn gọi thánh hiến
Cái động và cái tĩnh của người tu – Một góc nhìn về ơn gọi thánh hiến
Hạt suy tư được gợi hứng từ đoạn Tin Mừng Gioan 8, 1-11
Nếu đoạn Tin mừng Ga 8, 1-11 được chuyển thể thành phim, thì chắc chắn đó sẽ là một bộ phim rất hấp dẫn, vô cùng kịch tính và đầy dãy những hình ảnh đánh động người xem đến từng chi tiết nhỏ nhất. Một cuộc giao tranh giữa động và tĩnh.
Bộ phim của chúng ta được bắt đầu với một cảnh tĩnh: Sau một ngày giảng dạy nhiệt tâm, đám đông ai về nhà nấy, thì Chúa Giêsu đến Núi Ôliu nghỉ ngơi và cầu nguyện một mình cùng Chúa Cha. Sự kết hợp mật thiết giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha thì không cần phải bàn cãi. Chính Người đã khẳng định mạnh mẽ với chúng ta rất nhiều lần: Ta và Cha Ta là một. Khung cảnh trên núi Ôliu có lẽ tĩnh lắm, vì Chúa Giêsu đâu cần nói nhiều với Chúa Cha. Khi hai người đã hiểu nhau và gắn bó khăng khít đến độ nên một thì không cần phải nói gì nhiều. Ngôn ngữ của họ không còn là ngôn ngữ của lời nói nữa, nhưng là ngôn ngữ của sự hiện diện và của ánh mắt; nhiêu đó thôi cũng đã đủ để hiểu tất cả rồi! Cái tĩnh từ sự kết hợp mật thiết với Chúa Cha là nguồn sức mạnh cho cuộc sống và sứ vụ của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu phá vỡ sự im lặng của màn đêm: khi trời vừa sáng, Người đã trở lại đền thờ. Không khí bắt đầu xôn xao và kéo theo cảnh động vào sân đền thờ. Dân chúng đua nhau đến với Chúa Giêsu để nghe Người giảng dạy. Xem ra họ rất thích đến với vị thầy Giêsu này, vì giáo lý của Người thì mới mẻ và Người dạy lại có uy quyền, chứ không như các kinh sư của họ. Thêm vào đó, lâu lâu Người lại ra lệnh cho các thần ô uế, rồi trừ quỷ, rồi chữa bệnh… Quả thật, có một sự sinh động, hấp dẫn và lôi cuốn đến từ nội tâm, lời nói, cử chỉ và việc làm của Chúa Giêsu. Tất cả đều toát lên cái gì đó rất Chúa, đến độ người ta phải nói với nhau: Ông này thật là một vị ngôn sứ. Ông đúng thật là Đức Kitô…
Cảnh phim bắt đầu sôi động hơn, khi các người Pharisêu và các kinh sư lôi một người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giêsu. Một đám đông hầm hầm sát khí và bạo lực, phá tan bầu khí hứng thú của một buổi giảng dạy tôn giáo. Mỗi người một tiếng, kẻ thì bĩu môi, người thì chế giễu, kẻ thì chỉ chỏ, người thì kết án… Cứ thế, cái động ngày càng sôi sục của một phiên tòa đầy âm mưu và nham hiểm đã tràn ngập xung quanh Chúa Giêsu. Đến giây phút này, Người vẫn tĩnh!
“Thưa Thầy, người phụ nữ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Môsê dạy chúng tôi ném đá y. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Một người Pharisêu kênh kiệu hỏi thách, để gài bẫy Chúa Giêsu. Câu hỏi thách ấy như một viên đá đầu tiên ném vào mục tiêu là Chúa Giêsu. Người phụ nữ vẫn đứng giữa họ. Lòng đầy tủi nhục, mặt mũi bết bát xấu hổ. Cái chết đang chờ chị. Sự hối hận hòa theo những giọt nước mắt ăn năn muộn màng rơi xuống ướt đôi bàn chân xinh của chị, chảy vào lòng đất khô cằn như cõi lòng những người đang đứng xung quanh chị.
Đến giây phút ấy, Chúa Giêsu vẫn tĩnh – cái tĩnh của Thiên Chúa. Cái im lặng mà chúng ta vẫn thường lầm tưởng Thiên Chúa làm ngơ trước nỗi đau khổ của con người. Nhưng thực ra đâu phải như thế. Có bao giờ Thiên Chúa làm ngơ trước loài người mà Ngài đã hết lòng yêu thương và dựng nên họ vì chính họ đâu. Ngài đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài cơ mà. Có loài thụ tạo nào được như thế đâu. Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta cách vô điều kiện. Chúa Giêsu đã chứng minh điều đó.
Trước câu hỏi của người Pharisêu, Chúa Giêsu cúi xuống đất và bắt đầu viết. Người viết gì thì chỉ có những người ở đó biết. Nhưng dường như Người đang đan mây dệt gió để tạo một cơn mưa, cơn mưa làm dịu đi những cái đầu động, đang sùng sục sát khí, la lối và kết án. Người nói: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Câu nói ấy như một gáo nước lạnh xối thẳng vào mặt những kẻ đang thù ghét và bày mưu tính kế gài bẫy Người. Nói xong, Chúa Giêsu lại cúi mặt xuống đất lần thứ hai, như thể không muốn nhìn những con người tội lỗi sắp lìa bỏ Ngài mà đi.
Thế rồi, kẻ trước người sau, từng người một, lặng lẽ bỏ đi. Cái sôi động lúc đầu giờ đã trôi đâu mất, nhường chỗ cho cái tĩnh của Chúa Giêsu và người phụ nữ. Đám đông nãy giờ quan sát cũng dần dần rút lui. Ắt hẳn họ cũng đồng tình với bản án ném đá người phụ nữ hư hỏng kia. Điều đó chứng minh một điều: họ đến với Chúa Giêsu chỉ vì vụ lợi thôi, bởi vì họ không hề hiểu gì về giáo lý và hành động yêu thương của Chúa Giêsu. Tất cả sự sôi động đã tan biến chỉ với một câu nói của Chúa Giêsu. Cái tĩnh của Người đã chiến thắng bao nhiêu cái động xung quanh Người.
Tưởng như câu chuyện đã kết thúc ở đó, nhưng chưa. Còn người phụ nữ thì sao? Chúa Giêsu không kết án chị. Người không phủ nhận tội chị đã phạm, nhưng tha thứ cho chị. Tình yêu của Người luôn đi bước trước, tha thứ tất cả và chịu đựng tất cả. Giờ đây, chị không còn đứng giữa một đám đông đòi kết án chị nữa, nhưng chị đứng giữa một tình yêu bao la và lòng thương xót vô hạn của Chúa Giêsu. Chị đứng giữa một Đấng thánh luôn yêu thương chị và hiến mình vì chị và cho cả những kẻ đã kết án chị nữa, dẫu cho từ đầu tới gần cuối câu chuyện, Chúa Giêsu chỉ toàn im lặng và tĩnh mà thôi. Đó là cái tĩnh của tình yêu, cái tĩnh của sự tha thứ vô ngần của Thiên Chúa, mà con người không thể hiểu nỗi.
Trong cuộc sống thường ngày, dường như chúng ta cũng động quá nhiều. Cái động có thể đến từ chính con người chúng ta, hoặc có thể do những sự kiện và biến cố xảy ra hằng ngày, hoặc cũng có thể do người khác mang lại cho chúng ta. Nhiều lúc chúng ta bị cuốn theo những cái động bên ngoài đó, nhưng vẫn cho rằng mình ổn, vì đã thành công lướt thắng được tất cả. Tuy nhiên, nhìn kỹ lại coi: tâm hồn chúng ta có thật sự tĩnh và bình an không? Nếu câu trả lời là không, thì Chúa Giêsu cho chúng ta một giải pháp, để đánh tan mọi cái động đang phá đi sự bình an nội tâm của chúng ta. Cái động làm cho chúng ta thấy mình dường như trống rỗng, mất phương hướng, không tìm ra ý nghĩa của đời sống hiện tại. Cái động làm cho tâm hồn chúng ta nhạt đi, theo cái vô vị của những công việc thường ngày, chứ không còn mặn mòi như thuở ban đầu mới yêu Chúa…
Đức Hồng y Robert Sarah, Tổng trưởng bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa của việc ngày nay người Kitô hữu bị khủng hoảng đức tin, muốn rời bỏ Chúa và Giáo Hội, không còn quan tâm đến người khác mà chỉ sống hưởng thụ cho chính mình. Đó là vì người ta đã không còn kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể nữa. Thánh Thể là nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống đức tin và đời sống Kitô hữu. Một khi đã xa rời nguồn mạch thì làm gì có sự sống nữa? Chúng ta chỉ là những cái xác Kitô hữu không có sức sống, vì không cắm rễ vào nguồn mạch là Chúa Giêsu Thánh Thể.
Tôi có quen một cha xứ nọ. Trước đây ngài là con người rất hiền hòa, vui tươi và hay quan tâm tới mọi người xung quanh. Tuy nhiên, sau khi chuyển đến một giáo xứ có nhà thờ cách khá xa nhà xứ, ngài đã dần dần thay đổi tính cách. Ngài chỉ ở trong nhà thờ mỗi khi dâng thánh lễ. Công việc bao la, công chuyện bao quanh, nào là tương giao với chính quyền đang gây khó khăn, nào là xây dựng, nào là củng cố hội đoàn… Dần dần, điếu thuốc và ly cà phê là bạn đường suy tư của ngài. Cây đàn Guitar là bạn tâm giao chia sẻ vui buồn của đời sống ơn gọi. Chiếc Smartphone là nơi ngài tìm đến, để kiếm một giải pháp cho công việc mục vụ đang làm… Cứ như thế, giờ gặp gỡ và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể đã trở thành xa sỉ đối với ngài lúc nào không hay. Và đó là lý do giải thích cho sự thay đổi tính cách của ngài. Giờ đây, ngài dễ nỗi cáu, ít cười và trầm tư hơn.
Thật ra, đó cũng chính là kinh nghiệm thiêng liêng rất riêng của tôi. Năm Thần 1 và Thần 2, tôi chăm chăm vào học hành, với bao nhiêu là mục tiêu. Rốt cuộc, tôi nhận ra sau này những mục tiêu ấy cũng mục và tiêu hết thôi. Tạ ơn Chúa, sau những năm tháng miệt mài đó, Chúa đã cho tôi nhận ra hình như tôi đang đặt sai mục tiêu. Tôi đi tu đâu phải chỉ để học. Tôi đi tu là để ở lại và sống với Chúa cơ mà. Đại dịch Covid 19 làm tôi sống chậm hơn; những cái đau như nhiễm Virus Covid 19 hay đau chân cả tháng trời củng cố thêm cái chậm và cái tĩnh mà Chúa cần nơi con người tôi, để rồi, tôi khám phá ra Chúa Giêsu Thánh Thể mới là nơi tôi cần tìm đến và sống với. Từ đó, tôi thấy tâm hồn mình được bình an hơn. Và lạ thay, khi dành ít thời gian để học hơn nhưng việc học của tôi lại trở nên dễ dàng và thư thái hơn. Tôi ngủ ngon hơn, da mặt đẹp hơn, sáng hơn và bớt đi mấy nếp nhăn…
Vậy thì đâu là giải pháp cho chúng ta? Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời. Đó chính là sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Thể. Hãy dành thời gian và không gian riêng tư để kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể. Đừng sợ mất thời gian ngồi trong tĩnh lặng và nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Bởi vì, chính lúc đó, chúng ta đang đắm mình trong nguồn mạch sung mãn của đời sống đức tin của Giáo Hội. Chính những giây phút đó, tâm hồn chúng ta mới tìm được sự bình an đích thực. Sự bình an đủ sức giúp chúng ta chiến thắng được những cái động của thế giới xung quanh, của cái vô vị và nhạt nhẽo hay hiện diện trong đời sống cộng đoàn. Chính cái tĩnh của Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ là nguồn sức mạnh cho cuộc sống và sứ vụ của chúng ta. Cái tĩnh ấy sẽ ban cho chúng ta có đủ sức mạnh để đánh tan mọi cái động của thế gian đang tác động lên chúng ta. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể gìn giữ tất cả chúng ta. Amen.
Giuse hạt bụi tro