2022
Sự thánh thiện của linh mục qua đức ái mục tử
Trong Tông huấn Gaudete et Exsultate (về ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày hôm nay), Đức Thánh cha Phanxicô muốn nhấn mạnh đến vấn đề chính yếu về ơn gọi nên thánh mà Chúa nói với mỗi người trong chúng ta, lời mời gọi này Chúa nói một cách cá nhân với từng người là “phải thánh thiện vì Ta là Đấng thánh” (Lv 11,44, x. 1Pr 1,16). Đồng thời, Đức Thánh cha cũng nhắc lại lời khẳng định của Công đồng Vaticanô II rằng: “Tất cả các Kitô hữu, dù trong hoàn cảnh hay bậc sống nào, cũng được Chúa kêu gọi, để mỗi người một cách, vươn tới sự thánh thiện trọn hảo như chính Chúa Cha là Đấng trọn lành”[1]. Cách riêng khi nói về ơn gọi nên thánh của các linh mục thì trong Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis (về tác vụ và đời sống các linh mục) đã nói rõ: cùng chung với các Kitô hữu khác khi được lãnh nhận bí tích Rửa tội các linh mục cũng được mời gọi hướng đến sự hoàn thiện mà Chúa Giêsu đã mời gọi: “Các con hãy trở nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Tuy nhiên, các linh mục còn có một lý do đặc biệt buộc phải đạt tới sự hoàn thiện này, do bởi các linh mục được thánh hiến cho Thiên Chúa qua bí tích Truyền chức thánh. Các linh mục trở nên khí cụ sống động của Đức Kitô Tư Tế vĩnh cửu, để tiếp tục thực hiện các công trình kỳ diệu của Người cho toàn thể xã hội con người qua mọi thời. Vì thế, khi trở thành hiện thân của Đức Kitô theo chức vụ của mình, mỗi linh mục cũng nhận được những ơn riêng, để khi phục vụ dân được trao phó cho ngài cũng như phục vụ toàn thể Dân Chúa, các ngài có thêm khả năng vươn đến sự hoàn thiện của chính Đấng đã trao tác vụ cho các ngài, và để sự yếu đuối của xác thịt phàm nhân được chữa lành nhờ sự thánh thiện của Đấng đã vì chúng ta mà trở nên Vị Thượng tế “thánh thiện, vô tội, vẹn toàn, tách biệt khỏi các tội nhân” [Hr 7,26] (PO 12). Nói tóm lại, các linh mục chúng ta phải trở nên là các linh mục thánh thiện của thời đại ngày hôm nay[2]. Nhưng làm như thế nào để đời sống linh mục trở nên thánh thiện trong thời đại này?
- Sự thánh thiện của linh mục qua đức ái mục tử
Trong bài giáo lý nói về sự thánh thiện vào ngày 13 tháng 4 năm 2011 tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã nhắc lại những lời giải thích của Công đồng Vaticanô II để xác định rõ đâu là trọng tâm của sự thánh thiện. Công đồng cho chúng ta biết rằng sự thánh thiện của Kitô hữu không gì khác hơn là sống bác ái một cách trọn vẹn. “Thiên Chúa là tình yêu; ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4,16). Thiên Chúa đã tuôn đổ tình yêu của Ngài vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Thần được ban cho chúng ta (x. Rm 5,5); vì thế, tặng phẩm thứ nhất và cần thiết nhất chính là đức ái, nhờ đó chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân vì Ngài” (LG 42).
Bởi vậy, trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis đã chỉ ra phương cách nên thánh của linh mục là nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô Mục Tử và là thực thi đức ái trong mục vụ (PDV 27). Hay nói cách khác, các linh mục nên thánh qua việc theo gương mẫu của Chúa Giêsu là Vị Mục tử đích thực biết rõ, yêu thương đàn chiên, đến nỗi hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (x. Ga 10,15). Tình yêu dành cho đàn chiên đến nỗi Người chấp nhận chết trên thập giá. Tình yêu của Chúa Kitô không có sự chọn lựa ai để yêu, nhưng dành cho tất cả mọi người, không loại trừ ai. Người đã nhắc chúng ta về điều này khi nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16). Những lời này cho thấy Chúa Giêsu muốn mọi người có thể đón nhận tình yêu thương của Chúa Cha. Và chính các linh mục được mời gọi để thực hiện sứ vụ này của Chúa Kitô, Vị Mục tử nhân lành yêu thương tất cả mọi người, cả những người không thường xuyên hoặc không bao giờ đến nhà thờ, cả những người chống đối hoặc gây ra các tổn thương cho mình. Bởi lẽ tất cả đều là con Chúa, những người mà Chúa Cha giao phó cho các mục tử chăm sóc[3]. Như thế, linh mục là dấu chỉ hữu hình về tình yêu nhân từ của Chúa Cha[4]. Cũng như, Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã khẳng định:
“Thái độ mến Chúa và yêu người là dấu xác nhận người môn đệ đích thực của Đức Kitô” (LG 42). Đây là sự đơn sơ đích thực, sự vĩ đại và chiều sâu của đời sống Kitô hữu, của sự thánh thiện. Đây là lý do tại sao thánh Augustinô, khi chú giải về chương thứ tư trong thư thứ nhất của thánh Gioan, có thể tuyên bố táo bạo: “Dilige et fac quod vis [Yêu và làm những gì bạn muốn]”; và ngài tiếp tục: “bạn có thinh lặng, hãy thinh lặng vì yêu thương; bạn có nói, hãy nói vì yêu thương; bạn có sửa lỗi, hãy sửa lỗi vì yêu thương; bạn có tha thứ, hãy tha thứ vì yêu thương; hãy để tình yêu thương bén rễ trong bạn, vì từ cội rễ này không gì khác ngoài điều thiện mới có thể tiến triển được” (7,8 PL 35). Những ai được tình yêu hướng dẫn, những ai sống bác ái hết mình, đều được Thiên Chúa hướng dẫn, vì Thiên Chúa là tình yêu. Do đó những từ quan trọng này được áp dụng: “Dilige et fac quod vis”, “Yêu và làm những gì bạn muốn”[5].
Như vậy, chính nhờ sống đức ái mục tử trọn hảo mà các linh mục sẽ trở nên thánh thiện như Cha trên trời. Cũng thế, mọi người sẽ nhận ra nơi người linh mục có Chúa trong họ (x.Ga 13,35). Như những gì trong Tông huấn Pastores dabo Vobis đã nói: “Các linh mục được mời gọi nối dài sự hiện diện của Đức Kitô, Vị Mục tử duy nhất và tối cao, bằng cách noi theo lối sống của Người và bằng cách làm sao cho mình như thể được Người xuyên thấu ngay giữa đàn chiên được giao phó cho mình” (PDV 15).
- Người linh mục là hình ảnh sống động của Chúa Giêsu – Vị Mục tử nhân lành
Bài tham luận Ước nguyện của giáo dân về linh mục tại Công nghị Tổng Giáo phận Hà Nội (ngày 20 tháng 01 năm 2022) vừa qua, đã nói lên nhiều mong muốn của người giáo dân về linh mục, nào người linh mục là gương sáng trong đời sống dấn thân, người làm chứng cho chân lý, người tốt lành tử tế, trí tuệ… nhưng đặc biệt là giáo dân mong ước linh mục là một chứng nhân tình yêu – Nhìn thấy Chúa nơi linh mục, luôn hạnh phúc với sứ vụ và hết lòng vì tha nhân[6].
Thật vậy, trong thời đại ngày hôm nay, giáo dân mong muốn rất nhiều điều về linh mục. Nhưng chỉ có một điều mong ước là căn bản và cần thiết nhất mà dù trong bất kỳ thời đại nào, dù ở giáo xứ miền quê hay thành thị, dù ở những nơi giàu có hay nghèo khó, đó chính là mong ước giống như ước nguyện của tông đồ Philipphê nói với Chúa Giêsu năm xưa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8). Quả vậy, ước nguyện này của thánh Philipphê cũng chính là ước nguyện của người giáo dân mong muốn nơi linh mục của họ.
Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện. Không phải là một nghệ sĩ, không phải một giáo sư, không phải một kỹ sư. Nhưng là một người Cha. Trong một giáo xứ không có nhu cầu cần một kỹ sư hay một nghệ sĩ, nhưng chỉ có nhu cầu cần một người cha. Người mục tử chúng ta hôm nay cũng phải đáp trả cho những con chiên của mình như những gì Chúa Giêsu đã trả lời cho Philipphê: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.” (Ga 14,9-11). Dĩ nhiên là những linh mục chúng ta ngày hôm nay không dám trả lời như Chúa Giêsu đã trả lời với thánh Philipphê. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu phải luôn là khuôn mẫu và luôn là mục tiêu mà các linh mục vươn tới, bằng cách trong nếp sống và sứ vụ của mình mỗi ngày trở nên giống Chúa Giêsu hơn. Để rồi, trong sự e sợ và run rẩy, nhưng với một đức tin mạnh mẽ và can đảm thì người linh mục chúng ta ngày hôm nay cũng dám nói lên rằng: ai nhìn thấy tôi là thấy Chúa Giêsu.[7]
Để có thể trở nên hình ảnh sống động và phản chiếu đức ái mục tử của Đức Giêsu Kitô vị Thượng Tế đời đời một cách rõ ràng trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống của người linh mục, ngoài việc thi hành các tác vụ của mình cách ý thức, các linh mục còn tìm thấy các phương thế khác. Đặc biệt là nơi Đức Maria.
- Chúa Giêsu trao ban cho các linh mục những gì quý giá nhất của Người, đó là Thánh mẫu của Người
Công đồng Vaticanô II đã mời gọi các linh mục luôn hướng nhìn Đức Maria như là một mẫu gương hoàn hảo cho sự hiện hữu của các linh mục (PO 18). Ai không biết noi gương đức hạnh của Mẹ Maria thì không phải là người con tận tình. Do đó, linh mục phải nhìn lên Mẹ Maria nếu muốn trở thành một chứng nhân cho đức ái qua việc dâng hiến toàn thân cho Chúa và cho Giáo hội. Cũng như việc chiêm ngưỡng Đức Trinh nữ Maria luôn làm sáng tỏ lý tưởng mà linh mục phải theo đuổi trong sứ vụ chăm sóc đoàn chiên của mình[8]. Bởi thế, Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở: “Các linh mục phải lấy tình con thảo thành kính tôn sùng và mến yêu Đấng là mẹ của Vị Thượng tế đời đời, là Nữ vương các tông đồ và là nguồn trợ lực cho tác vụ linh mục” (PO 18).
Thật vậy, do bởi vai trò quan trọng của Đức Trinh nữ Maria trong đời sống và sứ vụ của linh mục, nên các linh mục đều biết rằng Đức Maria là người mẹ, là nhà đào tạo xuất sắc của chức linh mục, vì Mẹ là người biết cách uốn nắn trái tim linh mục; Do đó, Đức Trinh nữ Maria biết và muốn bảo vệ các linh mục khỏi những nguy hiểm, khi bị kiệt sức và những lúc nản lòng: với sự ân cần của một người mẹ, Mẹ trông nom người linh mục để người con của Mẹ có thể ngày càng thêm khôn ngoan, thêm sức mạnh và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta (x. Lc 2,52)[9].
Như vậy, chúng ta nhận ra rằng có một môi liên hệ gần gũi và bền chặt giữa Chúa Giêsu với Đức Trinh nữ Maria và chức linh mục. Như Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã trích dẫn lại lời của một trong những người con hiếu thảo của Mẹ Maria đó là thánh Gioan Maria Vianey, những lời mà cha thánh họ Ars yêu mến và thường xuyên lặp lại: “Chúa Giêsu Kitô, sau khi cho chúng ta tất cả những gì Người có thể cho chúng ta, Người còn muốn làm cho chúng ta thành người thừa kế những gì quý giá nhất của Người, đó là Thánh mẫu của Người”. Điều này áp dụng cho mọi Kitô hữu, cho tất cả chúng ta, nhưng theo một cách đặc biệt là đối với các linh mục. Chúng ta hãy cầu nguyện để Mẹ Maria làm cho tất cả các linh mục trở nên giống với hình ảnh của Chúa Giêsu là con của Mẹ, trong mọi vấn đề của thế giới ngày nay, như những người quản lý kho tàng tình yêu quý giá của Người với tư cách là Vị Mục tử nhân lành. Lạy Mẹ Maria, mẹ của các linh mục, xin cầu bầu cho chúng con![10]
- Vấn tâm
Trong dịp tĩnh tâm hôm nay, chúng ta cùng nhau vấn tâm với những gợi ý từ bài giảng của Đức Thánh cha Phanxicô dành cho các linh mục trong thánh lễ Truyền Dầu ngày 14 tháng 4 năm 2022 vừa qua.[11]
- “Chăm chú nhìn Chúa Giêsu” là một ân sủngmà linh mục chúng ta phải trau dồi. Là điều tốt vào cuối ngày, nhìn lên Chúa, và để Chúa nhìn vào tâm hồn chúng ta, cùng với những người chúng ta đã gặp. Đây không phải là việc đếm tội, nhưng là một chiêm ngắm đầy yêu thương, chúng ta nhìn vào ngày sống của mình với cái nhìn của Chúa Giêsu và như thế nhìn thấy những ân sủng trong ngày, những ân ban và tất cả những gì Người đã làm cho chúng ta, để tạ ơn. Và chúng ta cũng cho Chúa thấy những cám dỗ của chúng ta, để nhận ra và từ chối chúng.
- Có ba không gian của việc tôn thờ ngẫu tượng ẩn giấu,trong đó Ác thần sử dụng các thần tượng của chúng để làm suy yếu chúng ta khỏi ơn gọi làm mục tử và từng chút một, tách chúng ta khỏi sự hiện diện tốt lành và yêu thương của Chúa Giêsu, của Chúa Thánh Thần và của Chúa Cha.
– Thần tượng trong tinh thần thế gian mang tính thiêng liêng đó là “một đề xuất cho cuộc sống, một nền văn hóa của phù du, bề ngoài, hoá trang”. Tiêu chí của nó là sự chiến thắng, một chiến thắng không thập giá… Tinh thần thế gian tìm kiếm vinh quang của chính mình lấy khỏi chúng ta sự hiện diện của Chúa Giêsu khiêm nhường và chịu đau khổ. Chúa gần gũi với mọi người, Chúa Kitô đau khổ với tất cả những người đau khổ. Một linh mục theo tinh thần thế gian không gì khác hơn là một kẻ ngoại đạo khoác áo giáo sĩ.
– Thần tượng Quan tâm trước tiên đến tính thực dụng của những con số được coi là ưu tiên hàng đầu. Những người yêu mến thần tượng ẩn giấu này có thể được công nhận vì tình yêu của họ đối với các số liệu thống kê, những thứ có thể làm mất tính chất con người trong các cuộc thảo luận và lấy số đông làm tiêu chí cho sự phân định. Đây không thể là cách duy nhất và cũng không thể là tiêu chí duy nhất trong Giáo hội của Chúa Kitô. Con người không thể được “đánh số”, và Thiên Chúa không ban Thần khí “bằng thước đo” (Ga 3,34). Thực tế, trong sự quyến rũ của những con số, chúng ta tìm kiếm chính mình và chúng ta hài lòng với sự kiểm soát được đảm bảo bởi lý luận này, vốn không quan tâm đến các khuôn mặt cá nhân và xa rời tình yêu.
– Thần tượng Duy chức năng, nhắm hiệu quả. Điều này có thể quyến rũ nhiều người “nhiệt tình với các danh mục hơn là lên đường”. Tâm thức của người theo chủ nghĩa chức năng hướng đến hiệu quả, không quan tâm đến mầu nhiệm. Từng chút một, thần tượng này đang thay thế sự hiện diện của Chúa Cha trong chúng ta. Cha chúng ta là Đấng Tạo Hóa, nhưng không phải là Đấng chỉ làm cho mọi thứ “hoạt động”. Ngài “tạo nên” chúng ta với tư cách là Cha, với sự dịu dàng, chăm sóc thụ tạo và làm cho con người tự do hơn… Linh mục với tâm thức chức năng nuôi dưỡng chính mình, đó là cái tôi của mình. Theo chủ nghĩa chức năng, chúng ta bỏ qua một bên việc tôn thờ Chúa Cha trong những việc nhỏ và lớn của cuộc đời mình và chúng ta hài lòng với hiệu quả các chương trình của mình.
Trong hai không gian cuối cùng của việc thờ ngẫu tượng ẩn giấu (theo các con số và duy chức năng) chúng ta thay thế hy vọng, là không gian của cuộc gặp gỡ với Chúa, bằng các kết quả thực nghiệm. Đó là một thái độ hư danh về phía mục tử, một thái độ làm tan rã sự kết hợp của dân với Thiên Chúa và định hình một thần tượng mới dựa trên những con số và chương trình: thần tượng “sức mạnh của tôi, sức mạnh của chúng tôi”. Việc che giấu những thần tượng này và không biết cách vạch mặt chúng ra trong cuộc sống hàng ngày làm tổn hại đến lòng trung thành của giao ước linh mục của chúng ta và làm cho mối quan hệ cá nhân của chúng ta với Chúa trở nên nguội lạnh.
(Trích: Suy niệm tĩnh tâm linh mục Giáo phận Phú Cường, tháng 5/2022)
[1] x. ĐTC Phanxicô, Tông huấn Gaudete Et Exsultate, số 10.
[2] x. ĐTC Gioan Phaolô II, Sứ điệp ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ XV (2000), số 3.
[3] x. ĐTC Phanxicô, Bài giảng trước kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Chúa nhật 25/4/2021.
[4] x. Bộ Giáo sĩ, Đào tạo linh mục – 2016 (Bản dịch của Uỷ ban Giáo sĩ và Chủng sinh trực thuộc HĐGMVN), nxb Tôn giáo, 2017, số 35.
[5] ĐTC Bênêđictô XVI, Bài giáo lý nói về sự thánh thiện, 13/4/2011.
https://www.vatican.va/content/benedictxvi/it/audiences/2011/documents/hfben-xvi_aud_20110413.html
[6] x. Bài tham luận Ước nguyện của giáo dân về linh mục https://www.tonggiaophanhanoi.org/bai-tham-luan-uoc-nguyen-cua-giao-dan-ve-linh-muc/
[7] x. ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Scoprite la gioia della speranza, Art, Roma 2006.
[8] x. NORBERTO RIVERA, The blessed Virgin Mary in the life and ministry of the priest (Đức Trinh Nữ Maria trong đời sống và sứ vụ của linh mục), Conference at the 2° International meeting of Priests – Yamoussoukro, 09/7/1997. https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cclergy/documents/rc_con_cclergy_doc_19071997_conri_en.html
[9] Ibid.
[10] x. ĐTC Bênêđictô XVI, Bài giáo lý nói về Đức Maria Mẹ của tất cả các linh mục, 12/8./2009.
https://www.vatican.va/content/benedictxvi/it/audiences/2009/documents/hf_ben-xvi_aud_20090812.html
[11] ĐTC Phanxicô, Bài giảng trong thánh lễ Truyền Dầu, 14/4/2022.
https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2022-04/dtc-phanxico-cu-hanh-le-truyen-dau-tai-den-tho-thanh-phero.htmlLM Phaolô Nguyễn Phú Cường
2022
Đối diện với những thử thách về đức tin
Đối diện với những thử thách về đức tin
Trong hành trình đức tin, có lẽ chúng ta đã từng trải nghiệm: khi thì mình rất mạnh mẽ trong đức tin, nhưng lại có những lúc mình hoang mang, ngờ vực và không tin vào Thiên Chúa; Một lúc nào đó, chúng ta thấy mình hoàn toàn tin tưởng và can đảm bước theo Chúa Giêsu Kitô, nhưng không lâu sau, chúng ta lại thấy nghi ngờ, bất an, và dễ dàng bị khuất phục trước những nỗi sợ hãi phi lý của mình.
Kinh nghiệm của thánh Tôma về sự dao động trong đức tin có thể giúp làm sáng tỏ những trải nghiệm rất phổ biến này. Khi Chúa Giêsu kiên quyết trở lại miền Giuđêa, bất chấp việc người Do Thái ráo riết tìm cách để ném đá và giết chết Người, thánh Tôma đã khích lệ các môn đệ đồng môn của mình rằng: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!” (Ga 11,16) Khi đó, đức tin, sự can trường, hăng hái nơi thánh Tôma mạnh mẽ biết bao! Thánh Tôma đã sẵn sàng đi theo Đức Kitô dù có phải đau khổ và thậm chí là phải chết, không những thế, ngài còn khuyến khích những môn đệ khác cũng làm như vậy.
Nhưng rồi, chỉ ít tuần sau đó. Mọi người khác đều đã tin vào Chúa Phục Sinh, ngoại trừ Tôma. Lúc này, thánh Tôma đã định hướng cho mình một đức tin có điều kiện, “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20,25) Người đã từng có đức tin rất mạnh mẽ trước đây, đến nỗi sẵn sàng chịu đau khổ và chết với Đức Kitô thì nay lại đòi phải chạm vào vết thương của Đức Kitô thì mới tin vào sự phục sinh của Người. Người đã từng dẫn đầu nhóm mạnh dạn trong đức tin thì giờ đây lại làm cho những người khác cũng cảm thấy hoài nghi về đức tin của họ vào Đức Kitô Phục sinh.
Chúng ta học được một số điều từ kinh nghiệm của Thánh Tôma về cách động viên bản thân khi chúng ta thấy mình bắt đầu dao động trong đức tin vào Chúa Kitô Phục sinh.
- 1. Những giây phút dao động ấy là những khoảnh khắc mà chúng ta phải nuôi dưỡng lòng biết ơn đối với hồngân đức tin. Đức tin là ânban của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha, là Ðấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, … Chẳng ai đến với Tôi được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” (Ga 6,44.65) Chúa Giêsu tự nguyện đón nhận thập giá để chúng ta có một đức tin chiến thắng sự chết, “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3,14-15)
Khao khát và quyết tâm theo Chúa Giêsu Kitô trong đức tin và trung kiên tuân giữ lời Người là một món quà của tình yêu thương xót mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Khi đức tin bị dao động, có bao giờ chúng ta dừng lại để tạ ơn về hồng ân đức tin mà Đức Kitô đã ban cho chúng ta trên đồi Canvê và trong Bí tích Rửa tội chưa? Chúng ta biết ơn như thế nào về đức tin mà chúng ta có được vào sự Hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể? Chúng ta có biết ơn về đức tin, mà nhờ đó, chúng ta khiêm tốn xưng thú tội lỗi của mình với linh mục và nhận được ơn tha thứ cùng với sự bảo đảm của chính Thiên Chúa không? Những thử thách trong đức tin là để dẫn chúng ta đến với lòng biết ơn sâu sắc này đối với hồng ân đức tin mà chúng ta dễ dàng cho là đương nhiên.
- 2.Những khi đức tin bị dao động cũng là lúc chúng ta cần đặt trọn niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô.Chỉ có Chúa Giêsu Kitô, “Ðấng khai mở và kiện toàn lòng tin của chúng ta” (Dt 12,2) mới có thể dập tắt những nghi ngờ và khôi phục lại đức tin khi chúng ta dao động. Chúng ta không thể giả mạo và cũng không thể khôi phục đức tin chỉ bằng hành động của mình. Không phải câu nói “Chúng tôi đã thấy Chúa” của các tông đồ khác thốt ra có thể phục hồi đức tin của thánh Tôma. Ông cần một cuộc gặp gỡ với chính Chúa Kitô Phục sinh.
Khi trải qua những thử thách đau đớn về đức tin, chúng ta hãy ghi nhớ điều này: “Thiên Chúa, nguồn mọi ân sủng, là Ðấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Ðức Kitô, sẽ cho anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường.” (1Pr 5,10) Chỉ Thiên Chúa, Đấng ban đức tin cho chúng ta như một quà tặng mới có thể phục hồi đức tin đó. Thay vì hoảng sợ và từ bỏ đức tin, chúng ta có thể đối phó với đức tin đang chao đảo của mình bằng sự phó thác, kiên tâm chờ đợi Thiên Chúa đổi mới đức tin của chúng ta trong sự tin tưởng.
- 3.Chúng ta phải nuôidưỡng đức tin đang suy yếu của mình bằng cách kiên trì cầu nguyện và học hỏi Lời Chúa. Thánh Tôma tiếp tục nghe theo lời của các tông đồ khác, “Chúng tôi đã thấy Chúa”, ngay cả khi ngài không tin ngay lập tức. Thánh Tôma không chối bỏ nhưng ngài không thể tin vào những lời ấy. Và rồi, chính những lời đó đã giúp Tôma đón nhận một đức tin được phục hồi từ Đức Kitô Phục sinh.
Khi đức tin bắt đầu suy yếu, chúng ta cần nhớ rằng “có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Ðức Kitô” (Rm 10,17). Như vậy, chúng ta tạo cơ hội để cho Chúa phục sinh khôi phục và đào sâu đức tin của chúng ta khi chúng ta trung thành dành thời gian cầu nguyện với sự trợ giúp của Lời Chúa.
- 4. Chúng ta đối diện với đức tin đang dao động của mình bằng cách siêngnăng xét mình hơn dưới ánh sáng của Lời Chúa. Nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta muốn loại bỏ những trở ngại đối với đức tin, bắt đầu từ tội chưa xưngthú. Vì những tội đó giết chết và làm tổn thương đức tin của chúng ta, nên Chúa Giêsu đã ban cho Hội Thánh phương tiện để tha thứ tội lỗi nhân danh Người và bởi quyền phép của Người, “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20,22)
Tình yêu thương nhân từ của Thiên Chúa không chỉ xóa bỏ tội lỗi mà còn khơi lại nơi chúng ta lòng tin vào Đức Kitô Phục sinh. Đức tin của chúng ta không thể được phục hồi khi chúng ta cố chấp hoặc thỏa hiệp với tội lỗi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1,15) Bước đầu tiên của lòng tin mạnh mẽ là việc ăn năn chừa cải khỏi tội lỗi. Lòng thương xót của Thiên Chúa là phương thế dẫn chúng ta đến một đức tin sâu xa vào uy quyền của Đức Kitô Phục sinh, giống như đã xảy ra với thánh Tôma, “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”
- 5. Chúng ta không được đặt đức tin dựa trên những điều kiện, hoàn cảnh hoặc thành tíchcủa chúng ta trong cuộc đời này. Tôma đã đấu tranh với đức tin của mình bởi vì đólà một đức tin có điều kiện và phụ thuộc vào những gì ông có thể nhìn thấy và chạm vào, “Trừ khi tôi nhìn thấy, tôi chạm vào, tôi cảm thấy…” Niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô Phục sinh cũng mong manh như những điều kiện của cuộc sống khi chúng ta đặt niềm tin ấy vào những điều kiện bên ngoài của mình. Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta một đức tin vô điều kiện vì đức tin là hồng ân Người ban tặng cho chúng ta, một đức tin không phụ thuộc vào hoàn cảnh trong cuộc đời này: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”
- 6. Chúng ta phải duy trì sự liên kết trong cộng đoàn đức tin ngay cả khi đức tin của chúng ta chaođảo.Mặc dù chưa thể tin vào việc Chúa Kitô Phục sinh, nhưng thánh Tôma không từ bỏ cộng đoàn đức tin, trái lại, ngài đã ở lại với cộng đoàn cho đến khi Chúa Giêsu trở lại lần thứ hai chỉ để khôi phục đức tin của ông. Rất có thể, cộng đoàn đã tiếp tục cầu nguyện cho Tôma và kiên nhẫn với ông.
Cũng vậy, chúng ta không được bỏ cộng đoàn đức tin khi gặp thử thách trong đức tin. Đức Kitô luôn luôn trở lại với dân Người để khôi phục đức tin đang suy yếu của họ. Đức Kitô trở lại với chúng ta trong mỗi bí tích, đặc biệt là trong Bí tích Thánh Thể, làm cho những vết thương vinh quang của Người không ngừng hiện diện với chúng ta và chữa lành sự cứng lòng của chúng ta, “Vì Người phải mang những vết thương mà anh em được chữa lành.” (1Pr 2,24)
- 7.Chúng ta kiên trì trong đức tin cho đến cùng,ngay cả khi đức tin bị lung lay vì chúng ta tin chắc rằng phần thưởng tối hậu cho đức tin của chúng ta là ở trên trời. Chúng ta không thể từ bỏ đức tin vì những điều kiện hoặc trải nghiệm trần thế của mình. Chúa Kitô Phục Sinh đã phán với Thánh Gioan tông đồ khi thánh nhân bị lưu đày rằng: “Ðừng sợ! Ta là Ðầu và là Cuối. Ta là Ðấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời.” (Kh 1,17-18) Thánh Gioan thoáng nhìn thấy phần thưởng mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho những ai kiên trì trung thành làm chứng cho Ngài bất chấp những bách hại và gian khổ trong cuộc đời này.
Thật vậy, có rất nhiều thử thách trong cuộc sống đe dọa đức tin của chúng ta. Chúng ta có vô số lý do để từ bỏ đức tin. Chúng ta có vô vàn cuộc đấu tranh nội tâm tưởng như chẳng bao giờ dứt. Chúng ta cảm thấy bất lực khi đối diện với nhiều hành động xấu xa và bất công trong cuộc sống và trên thế giới. Tương lai của chúng ta có thể xuất hiện tối tăm và u ám, với đầy những thách thức và trở ngại. Ngay cả Giáo Hội, như là cộng đoàn đức tin, cũng vướng phải những tai tiếng đáng ghê tởm.
Không phải lúc nào chúng ta cũng tránh được những thử thách này, và chúng ta bị cám dỗ để ngưng lại trên một đức tin có điều kiện, giống như của Thánh Tôma, “Trừ khi tôi thấy, tôi nghe, tôi sở hữu, tôi cảm nhận, tôi thích thú, tôi đạt được …, tôi sẽ không tin.” Chúa Giêsu không ban thưởng cho chúng ta vì đức tin như thế nhưng vì một đức tin không liên quan gì đến điều kiện hoặc thành tích của chúng ta, “Phúc thay những người không thấy mà tin!”
Bí tích Thánh Thể là cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với Chúa Kitô Phục sinh, là nguồn mạch và chóp đỉnh của đức tin của chúng ta. Không phải lúc nào Chúa Giêsu cũng ngăn cản những thử thách về đức tin vì Người muốn rằng nhờ những thử thách mà chúng ta vun trồng một đức tin mạnh mẽ và sống động, điều duy nhất có thể “chiến thắng thế gian” (1Ga 5,4). Chúa Giêsu biết rõ mọi thử thách về đức tin của cá nhân chúng ta hiện nay. Trong tình yêu thương xót, Chúa Giêsu đến để khôi phục và củng cố đức tin đang dao động của chúng ta, để một khi có thể tiến bước theo Người với một đức tin sống động trong suốt cuộc đời, và một ngày nào đó, chúng ta sẽ được thông phần vinh quang với Người trong Vương quốc vĩnh cửu.
Lm. Nnamdi Moneme, OMV – Nguồn: Catholic Exchange (27/4/2022)
Chuyển ngữ: Nt. Anna Ngọc Diệp, OP – Dòng Đa Minh Thánh Tâm
2022
Bài tham luận: Người sinh viên Công giáo sống đức tin trong thời đại mới
Bài tham luận: Người sinh viên Công giáo sống đức tin trong thời đại mới
Têrêxa Lê Thị Thủy Tiên
- ĐẶT VẤN ĐỀ
“Hôm nay bạn cảm thấy thế nào?”
Câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại làm khó một bộ phận lớn những người Sinh viên Công giáo (SVCG) ngày nay. Họ không thể trả lời được chính xác trạng thái cảm xúc, diễn biến tâm lý, những trải nghiệm trong ngày sống hay mục đích sống của mình là gì. Trong khi đó, đây là biểu hiện dễ thấy nhất của sự trưởng thành về nhận thức và đức tin.
Ở góc nhìn khác, Giáo Hội đóng vai trò như người đồng hành giúp người SVCG kiên vững và an yên bước đi trên hành trình trưởng thành một cách trọn vẹn.
Vậy thì điều gì sẽ xảy ra nếu người đồng hành chưa thực sự đồng hành đúng nghĩa? Bài tham luận này, chúng con xin phép bàn về góc nhìn và niềm tin vào việc thay đổi góc nhìn sẽ có được cách tiếp cận đúng đắn, giúp người SVCG thực sự trưởng thành trong đời sống đức tin của mình.
- THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
- Mạng xã hội chi phối đời sống
Không chỉ là môi trường hoạt động chủ yếu của sinh viên ngày nay, mạng xã hội còn tác động trực tiếp đến suy nghĩ, cảm xúc, hành vi của các bạn.
- Hoạt động cầu nguyện chưa được giới sinh viên thực hiện với cách làm và thái độ đúng đắn
Vẫn còn tồn đọng một số rất đông các bạn chỉ bắt đầu cầu nguyện khi gặp khó khăn trong cuộc sống, một số ít khác thậm chí còn không biết cách cầu nguyện thế nào.
- SVCG ngày nay có mối bận tâm lớn về việc làm và các mối quan hệ xã hội
Người SVCG ngày nay bắt đầu đi làm từ sớm. Thậm chí, có nhiều bạn từ năm nhất, năm hai Đại Học đã đi làm thêm để kiếm thu nhập phụ giúp gia đình hoặc để trải nghiệm nhiều hơn.
Các bạn đề cao việc kết nối mối quan hệ, thể hiện bản thân, tìm kiếm niềm vui và những điều thú vị trong cuộc sống dù là ở môi trường bên ngoài hay môi trường online.
- Thiếu định vị bản thân
Thiếu sự thấu hiểu rõ ràng, chân thật về bản thân và nhân sinh, xã hội khiến các bạn dễ lung lạc về ý chí, đức tin, không biết nên hành xử, ra quyết định thế nào trước những thách thức trong cuộc sống, không biết mục đích sống của mình là gì và làm thế nào sống đúng với mục đích cuộc đời mình.
III. NGUYÊN NHÂN VẤN ĐỀ
- Áp lực lớn từ xã hội
Tâm thức xã hội tạo nên một vòng xoay cuộc sống mà ai cũng dễ bị cuốn vào. Chỉ cần lệch một chút với vòng xoay đó, lập tức một bạn nào đó sẽ mang trong mình tâm lý bị bỏ rơi, tâm lý của người thất bại.
Những áp lực từ xã hội đòi hỏi các bạn phải dành hết thời gian mình có để học thật nhiều, làm và va chạm xã hội từ sớm.
- Thiếu những người đồng hành đúng nghĩa
Đồng hành không chỉ là việc chỉ bảo, dẫn dắt. Mà một người đồng hành đúng nghĩa với sinh viên cần thấu hiểu, san sẻ, trở thành điểm tựa của sinh viên. Người đó không can thiệp vào quyết định của sinh viên nhưng biết cách khai mở vấn đề giúp các bạn tự thấu hiểu vấn đề của chính mình và chủ động đưa ra quyết định. Vì sinh viên khác giới trẻ ở một điều, sinh viên có sự tự lập và đề cao quyền tự quyết.
Trong số 22 nhóm trực thuộc Hội SVCG TGP, có 80% nhóm sinh viên đã có Cha Linh Hướng, một số nhóm trong đó mới chỉ có thời gian gần đây. Và 20% còn lại chưa có người đồng hành tại nơi các bạn sinh hoạt. Thời gian dài về trước, hầu như các nhóm tự tổ chức chương trình và sinh hoạt mà thiếu người dẫn dắt sâu, sát trong từng hoạt động.
- Một bộ phận Sinh viên ngày nay thiếu sự chủ động trong cuộc sống
Các bạn luôn tìm điểm tựa hoặc dựa dẫm vào sự thúc giục, nhắc nhở của người khác, chưa có góc nhìn đúng đắn nhưng lười tìm hiểu về giáo lý, Kinh Thánh và những chuyển biến trong hoạt động của Giáo Hội. Các bạn dễ tham gia vào xu hướng xã hội, nhưng lại không biết cách áp dụng giáo lý vào đời sống. Khi có điều bất như ý xảy đến, các bạn loay hoay và dễ dàng đổ lỗi cho đối tượng khác.
- Khác biệt về góc nhìn dẫn đến cách tiếp cận chưa đúng
Đây là nguyên nhân vì sao TGP nói chung và Hội SV nói riêng nỗ lực nhiều nhưng chưa thực sự tạo ra hiệu quả trong đời sống đức tin của người SVCG.
Bản thân mỗi người ai cũng có tiềm năng vô hạn để trở thành bất kỳ ai, làm bất cứ điều gì họ muốn làm. Đó là quyền tự do lựa chọn mà Thiên Chúa trao cho con người. Cho nên trong mối tương quan với sinh viên, những người đồng hành không thể áp đặt góc nhìn của người đi trước cho các bạn đi sau, cũng không thể áp dụng phương pháp cũ cho một thời đại mới.
Thời đại mới này chính là “dịch chuyển để thích nghi”. Muốn tiếp cận các bạn sinh viên, đầu tiên cần linh hoạt và đặt góc nhìn của mình vào xu hướng chuyển mình của xã hội, tiếp theo là đặt mình vào vị trí của sinh viên để thấu hiểu những ước mong, tâm tư, trăn trở của các bạn rồi từ đó hòa nhập cùng các bạn.
- GIẢI PHÁP
- Hệ thống lại cơ cấu nhân sự một cách chặt chẽ và rõ ràng:
Hội SV cần có quy chế, trong đó các Nhóm SVCG cần nghiêm túc nhìn nhận lại vai trò của Hội SV, hoạt động theo nguyên tắc thống nhất do Hội đề ra.
TGP cần bổ sung nhân lực là quý tu sĩ để đồng hành cùng những nhóm sinh viên chưa có Cha Linh Hướng hoặc Cha Linh Hướng đang ở cách xa vị trí hoạt động của nhóm.
Ủy Ban SVCG TGP Hà Nội cần quản lý một cách chặt chẽ những hoạt động của các Nhóm SVCG trong Hội để có thể kịp thời hỗ trợ và nâng đỡ.
- Thành lập và đẩy mạnh hoạt động của Ban Tư vấn Chuyên môn
Ban Tư vẫn Chuyên môn bao gồm những tu sĩ đồng hành là quý Cha, quý Thầy, quý Sơ có chuyên môn trong một số lĩnh vực quan trọng: Truyền thông, tâm lý học, phụng vụ, thánh nhạc, giáo lý hôn nhân,… Vai trò là những người chia sẻ tri thức, tạo nên môi trường bồi dưỡng chuyên môn cho sinh viên về cả những kỹ năng trong đời sống lẫn đức tin, đồng hành cùng sinh viên và tư vấn, giải đáp.
- Tận dụng sức mạnh truyền thông
Trong thời đại mới, MXH đóng vai trò quan trọng tác động đến tâm lý, cảm xúc, hành vi của người sinh viên. Vì vậy khía cạnh truyền thông cần được quan tâm hơn cả.
- Tích cực bồi dưỡng năng lực truyền thông
Ban TVCM kết hợp cùng Hội SV tổ chức bồi dưỡng chuyên môn truyền thông cho sinh viên, giảng dạy và đồng hành trong suốt quá trình công tác để các bạn áp dụng được kiến thức vào công việc của mình.
- Sự cộng tác chặt chẽ giữa truyền thông TGP, truyền thông Giới Trẻ TGP và truyền thông Hội SVCG TGP sẽ giúp những hoạt động của Hội SV tiếp cận rộng hơn đến toàn thể giáo dân trên khắp Giáo Phận.
- c. Góc nhìn truyền thông trong thời đại mới với người SVCG
Muốn truyền thông đạt hiệu quả, truyền thông Công Giáo cần tiếp cận với xu hướng chuyển mình chung của xã hội. Hoạt động truyền thông cần sôi nổi mới có thể thu hút người trẻ hướng về. Làm điều đó bằng cách nào?
– Cần tham gia vào xu hướng, nhưng chắt lọc và sử dụng xu hướng một cách phù hợp.
– Thay đổi nhiều hình thức thông tin: Trước đây chỉ có bài viết, báo chí, video, bây giờ có thể bổ sung phim ngắn, phim hoạt hình, podcast,…
– Khởi xướng xu hướng bằng cách tổ chức những hoạt động kích thích sự sáng tạo nơi người trẻ. Ví dụ: Thánh Ca Cover, kể chuyện Kinh Thánh bằng hình thức sáng tạo,…
– Khởi tạo những chiến dịch truyền thông mạnh mẽ, chất lượng.
– Sử dụng đa dạng kênh thông tin: trước đây chỉ Facebook, Website, Youtube. Nhưng ngày nay TikTok và Spotify đang là xu hướng.
- Tích cực hỗ trợ sinh viên để cải thiện đời sống xã hội:
- Hướng nghiệp/ Kết nối việc làm:
Hội SV kết hợp cùng Hội Doanh Nhân tổ chức những hoạt động hướng nghiệp dành cho sinh viên, kết nối việc làm.
- Hoạt động bác ái:
Hội SV cùng Hội Caritas kết hợp để hỗ trợ các bạn SV có hoàn cảnh khó khăn. Bên cạnh đó, chúng con mong Ủy Ban SVCG có thể hỗ trợ nhiều hơn trong việc thấu triệt về tinh thần bác ái để các bạn sinh viên biết cách sống đời bác ái đúng nghĩa chính trong đời sống của mình. Bời vì chúng con tin bác ái chính là cách để truyền giáo.
- Áp dụng triệt để tam giác TSD:
Tam giác TSD bao gồm:
T – Talking – Nói, lên tiếng, chia sẻ: Hãy cho các bạn sinh viên cơ hội và môi trường để nói lên tiếng nói của mình, qua những chương trình tranh luận hoặc hoạt động chia sẻ nhằm tiếp nhận tiếng nói sinh viên, đáp ứng nhu cầu thể hiện bản thân rất lớn của các bạn.
S – Studying – Học tập: Tạo cơ hội để các bạn học những kiến thức và kỹ năng cần thiết để đối trị trước những vấn đề trong đời sống.
D – Doing – Thực hành: Bên cạnh việc học tập, cần hình thành môi trường để các bạn áp dụng kiến thức vào thực tế, kích thích sự sáng tạo, thúc đẩy năng lực của các bạn.
Áp dụng triệt để tam giác TSD sẽ giúp các bạn sinh viên Công Giáo thực sự triển nở và sống tốt hơn trong chính đời sống của mình.
KẾT LUẬN:
Để sống đức tin trưởng thành, ai cũng cần cả một quá trình hun đúc và tôi luyện. Nhưng chỉ cần trên hành trình đó, các bạn sinh viên tìm được một người đồng hành có góc nhìn phù hợp, biết cách san sẻ và hỗ trợ, thì chặng đường sẽ an vui và vững vàng hơn biết bao.
Cuối cùng, một điều chúng con muốn nhấn mạnh để tự nhắc nhở chính mình – Người SVCG trong thời đại mới ngày nay: Thay đổi góc nhìn sẽ tạo nên chuyển biến. Bản thân người SVCG cần linh hoạt và chủ động phát triển để vừa tốt đời, vừa đẹp Đạo – đời và Đạo song tu.
Ước mong những điều chúng con chia sẻ trong buổi tham luận hôm nay sẽ được lắng nghe, nhìn nhận và thực sự tạo nên những chuyển biến tích cực trong đời sống của người sinh viên Công Giáo để các bạn sống đức tin trưởng thành một cách trọn vẹn.
2022
Nhân tháng hoa kính Đức Mẹ
- Trần Đức Anh, O.P
– Trong truyền thống của Giáo hội, có hai tháng trong năm Phụng vụ được dành để vun trồng và bày tỏ lòng kính mến đối với Mẹ Maria: tháng 5 là tháng Hoa, và tháng 10 là tháng Mân Côi. Cả hai tháng do Giáo hội đề ra đều nhắm giúp các tín hữu gia tăng lòng sùng kính đối với Mẹ Thiên Chúa và noi gương các nhân đức của Mẹ hiền.
Ở Việt Nam, tại nhiều nơi, các tín hữu vẫn có thói quen dâng hoa kính Đức Mẹ trong tháng 5. Thói quen tốt lành trên đây đã được các linh mục thừa sai truyền sang Việt Nam, theo một truyền thống cổ kính ở Tây Phương theo lễ nghi La tinh, trong khi các tín hữu ở miền Cận Đông theo nghi lễ Bizantine vẫn dành tháng 8 để biệt kính Đức Mẹ: họ dành 14 ngày đầu tiên trong tháng, để ăn chay, cầu nguyện, chuẩn bị cho ngày 15/8 là lễ An nghỉ của Đức Mẹ Maria.
Vài nét lịch sử
Tại Tây Phương, tháng 5 được gọi là “Maggio” trong tiếng Ý, hoặc “Mai” trong tiếng Pháp, “May” trong tiếng Anh. Các danh từ này đều bắt nguồn từ tên của nữ thần “Maia” là con gái của nữ thần Atlante, người yêu của thần Jupiter. Ngày 1 tháng 5 được dành để tế nữ thần Maia.
Ở Roma, vào đầu tháng 5 xưa kia vẫn có thói quen kính nữ thần Flora, thần hoa: người ta tổ chức những trò chơi, nhảy múa, ca hát, làm những đoàn xe hoa rồi chọn một thiếu nữ làm “tiểu nữ hoàng mùa xuân” hay là “vị hôn thê tháng 5”. Trong thời Trung cổ, các lễ đó vẫn được tiếp tục, nhưng được biến thành những lễ tình yêu, lễ vui mừng.
Các tín hữu Kitô cũng lấy lại truyền thống đó của dân ngoại, nhưng biến cải và mặc cho chúng những ý nghĩa tôn giáo, như đã biến cải ngày 25/12 ngày lễ kính thần mặt trời của dân ngoại thành ngày lễ Chúa Giáng Sinh, là Mặt Trời công chính soi sáng cho nhân loại. Các tín hữu Công giáo đã biến tháng 5 kính nữ thần Flora và Maia của dân ngoại thành tháng Hoa kính Mẹ Thiên Chúa.
Người đầu tiên đã gắn liền tháng 5 với hình ảnh của Mẹ Maria chính là vua Alfonso X của Tây Ban Nha, vào năm 1200. Tuy nhiên, người đầu tiên đã soạn cuốn sách nhỏ về lòng sùng kính Đức Mẹ trong mùa xuân là Chân phước Henri Suso, dòng Đa Minh ở thành Konstanz bên Đức. Năm 1.300, cha Hensi Suso đã soạn cuốn sách tựa đề “Những Lời chào”, trong đó có những bài tôn kính Mẹ Maria suốt trong mùa xuân. Tiếp đến, tại Roma vào năm 1.500, thánh Philipphê Neri bắt đầu dạy cho giới trẻ dành riêng tháng 5 để tôn sùng Đức Mẹ: thánh nhân dạy các thiếu niên hái hoa trang hoàng các ảnh tượng Đức Mẹ, hát những bài ca tôn kính Mẹ Thiên Chúa và thực hành các nhân đức noi gương Mẹ.
Cũng trong thời kỳ đó ở thành Firenze, Trung Italia, tháng 5 trở thành một tháng đặc biệt do sáng kiến của các cha dòng Thánh Đa Minh: người ta tổ chức các buổi trình diễn những vở kịch kính Nữ Vương trời đất. Một tài liệu vào năm 1677 kể lại rằng: các tập sinh Đa Minh ở Fiesole, gần Firenze, họp nhau lại thành một hội Đức Mẹ Maria để ca hát tôn kính Mẹ Thiên Chúa trong tháng 5: Họ hát kinh cầu và các thánh ca vào ngày 1/5, và Chủ Nhật sau đó, họ đội triều thiên bằng hoa hồng đỏ trên đầu tượng Đức Mẹ và đặt vào bàn tay Mẹ một trái tim bằng bạc.
Tại thành phố Napoli, Nam Italia, một thế kỷ sau đó, vào tháng 5 hàng năm, các tín hữu bắt đầu có thói quen ca hát kính Đức Mẹ và vị linh mục ban phép lành Mình Thánh Chúa sau đó.
Người viết cuốn sách đầu tiên về tháng 5 là linh mục Dionisi, dòng Tên, sống tại thành phố Verona, Bắc Italia. Cuốn sách được xuất bản năm 1700 với tựa đề “Tháng Đức Mẹ Maria”, dưới đó là tiểu đề “Tháng 5 dâng kính Mẹ, với việc thực hành các hoa nhân đức khác nhau, dành cho những người đặc biệt sùng kính Mẹ, dùng trong gia đình cho các người gia trưởng, trong các tu viện và trong các quán”. Cuốn sách của cha Dionisi rất nổi tiếng và đã được xuất bản 18 lần trong một thế kỷ tại châu Âu.
Kể từ năm 1.700 trở đi, việc dành riêng tháng 5 kính Đức Mẹ trở thành một thói quen phổ thông ở mọi nơi: trong gia đình, các tín hữu thường dọn một bàn thờ nhỏ, đọc kinh Mân Côi, hát thánh ca, đọc kinh cầu Đức Bà. Vì thế, tháng 5 trở thành một thứ tuần đại phúc liên kết các tín hữu lại với nhau nhân danh lòng tôn sùng Mẹ Thiên Chúa. (P. Domenico Nicolai de’ Servi, “Con Maria verso il 2000”, Ed Carroccio, 1991, pp. 100-103)
Lòng sùng kính đích thực đối với Mẹ Maria
Trong tháng biệt kính Đức Mẹ, các tín hữu được mời gọi đào sâu lòng sùng kính Đức Mẹ.
Công đồng chung Vatican II, trong Hiến chế “Ánh Sáng Muôn Dân” (Lumen gentium) đã dạy rằng: “Các tín hữu hãy nhớ, lòng sùng kính chân chính đối với Đức Mẹ không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại một sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một đức tin chân thật. Đức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 67)
Và Công đồng liệt kê bốn yếu tố của lòng sùng kính đích thực đối với Mẹ Maria: thứ nhất là tôn kính, vì Người là Mẹ Thiên Chúa; tiếp đến là yêu mến, vì ngài là Mẹ hiền của chúng ta; thứ ba là cầu nguyện vì lời cầu bầu của Mẹ được nhìn nhận là có một hiệu năng đặc biệt, Người được các thánh gọi là “người cầu bầu toàn năng”; và thứ tư là noi gương Mẹ Maria, vì Người là mẫu gương mọi nhân đức cho các tín hữu, là những người họp thành thân mình mầu nhiệm của Chúa Kitô mà ngài là Mẹ.
Công đồng chung Vatican II phê bình những sự thái quá giả tạo, và nhắn nhủ các nhà thần học cũng như các vị rao giảng Lời Chúa hãy thận trọng, đừng rơi vào chỗ thái quá, trong việc đề cao phẩm giá đặc biệt của Mẹ Maria, và Công đồng nhiệt liệt khuyến khích các tín hữu hãy học hỏi Thánh Kinh, các tác phẩm của các Giáo phụ và các Thánh Tiến sĩ Hội thánh, cũng như Phụng vụ La tinh và Đông Phương, để trình bày một cách đúng đắn về chức vụ và những đặc ân của Đức Trinh nữ Maria. Chức vụ và đặc ân này luôn luôn có mục tiêu là Chúa Kitô, Người là nguồn mạch của mọi chân lý, sự thánh thiện và lòng sùng mộ. Đức Phaolô VI thì khuyến khích các tín hữu hãy noi gương Mẹ Maria, biến cuộc sống của mình thành một việc thờ phượng dâng lên Thiên Chúa, việc thờ phượng này bao trùm và ảnh hưởng trên toàn cuộc sống.
Thánh Têrêxa Hài Đồng
Trước đó, thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trong cuốn “Tự Thuật”, cũng đã than phiền rằng: có những nhà giảng thuyết và thần học mô tả sự thánh thiện và các nhân đức của Mẹ Maria với những thành ngữ cao vời quá đến độ các tín hữu cảm thấy nản chí không dám noi theo mẫu gương của Mẹ nữa.
Vài ngày trước khi qua đời, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã thốt lên: “Ôi, tôi yêu mến Đức Mẹ dường nào! Giả sử tôi là linh mục, tôi sẽ nói mọi sự tốt đẹp về Mẹ… Người ta thường trình bày Đức Mẹ như một nhân vật siêu phàm không thể đến gần được. Cần trình bày Ngài như một vị mà chúng ta có thể noi gương bắt chước được. Ngài là người Mẹ hơn là Nữ vương! Tôi đã nghe có người nói vinh quang của Mẹ làm lu mờ tất cả các thánh, giống như mặt trời khi mọc lên làm biến tan các vì sao! Trời ơi, điều đó kỳ quặc quá! Một người Mẹ lại làm biến tan vinh quang của con cái mình sao! Tôi nghĩ ngược lại, và tôi tin rằng: chính Mẹ là người càng làm tăng vinh quang của các tín hữu con cái Ngài… Tôi nghĩ cuộc đời của Đức Mẹ rất đơn sơ” (”Truyện một tâm hồn”, chương 12).
Quả thực, những lời trên đây của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng là một phản ứng đối với những tác giả trình bày về Mẹ Maria một cách quá cao vời làm cho Mẹ trở nên xa lạ với phàm nhân.
Sự kiện Giáo hội đề nghị các tín hữu noi gương Mẹ Maria trên con đường đời, không hề mâu thuẫn với giáo huấn từ trước đến nay về nghĩa vụ các tín hữu phải noi gương Chúa Kitô. Noi gương Mẹ Maria không hề mâu thuẫn với sự theo gương Chúa Kitô, trái lại càng mang lại cho chúng ta một phương thế dễ dàng và chắc chắn hơn để kết hiệp với Chúa Kitô và đạt tới sự thánh thiện mà ngài đã mời gọi các tín hữu. Về điểm này, cũng trong tông huấn “Signum Magnum”, Đức Phaolô VI đã quả quyết: “Sự noi gương Đức Trinh Nữ Maria chẳng những không làm cho tâm hồn các tín hữu xa rời sự trung thành bước theo Chúa Kitô, trái lại càng làm cho sự theo Chúa trở nên đáng yêu và dễ dàng hơn; bởi vì Mẹ Maria là đấng luôn chu toàn thánh ý Thiên Chúa, nên hơn ai hết, Mẹ đáng được lời khen ngợi của Chúa, khi Người nói với các môn đệ: “Ai làm theo ý Cha ta đấng ở trên trời, thì người ấy chính là anh em, chị em và là mẹ của Ta”.
Nguồn: vaticannews.va/vi/