2023
Vài cảm tưởng chung quanh các bài suy niệm của Cha Timothy Radcliffe
Thượng hội đồng giám mục năm 2023 có nhiều cái bất thường, một trong số đó là cuộc tĩnh tâm ba ngày trước khi bắt tay vào việc: chuyện này chưa từng xảy ra! Các bài tĩnh tâm được giao cho Timothy Radcliffe O.P., nguyên bề trên tổng quyền Dòng Đa Minh (1992-2001) đảm trách. Các bài suy niệm này đã được chuyển ngữ sang tiếng Việt. Tôi xin mạn phép ghi nhận vài cảm tưởng, đặc biệt dành cho những ai không quen với tổ chức của Dòng Đa Minh. Tôi xin chia bài này làm ba phần: 1/ Từ ngữ; 2/ Não trạng; 3/ Nội dung các bài suy niệm.
I. Từ ngữ
Từ mấy năm qua, các văn bản của Hội đồng giám mục Việt Nam dịch synodality là “hiệp hành”. Đến lúc họp Synod thì lại gọi nó là “Thượng hội đồng”. Điều trớ trêu là Synod lần này bàn về synodality mà dịch là “Thượng hội đồng bàn về tính hiệp hành” thì quả là chẳng ăn khớp với nhau! Vì thế, hoặc là phải đổi “hiệp hành” hoặc là phải đổi “Thượng hội đồng”, làm sao cho thấy có sự tương ứng với nhau.
Theo tôi nghĩ, dịch synodality là “hiệp hành” là không chuẩn, bởi vì “hành” có thể hiểu là “đi” (bộ hành, hành trang, lữ hành), mà cũng có thể hiểu là “làm” (hành động, thi hành, thực hành). Thiết tưởng nên dịch là “hiệp nghị” thì đúng hơn (nghị là bàn luận; “hội nghị” là họp bàn, để đưa đến “quyết nghị”). Như vậy synodus episcoporum (Giáo luật đ.342) sẽ dịch là “Hiệp nghị các giám mục”, còn synodus diocesana (Giáo luật đ.460) sẽ dịch là “Hiệp nghị giáo phận”.
II. Não trạng
Trên thực tế, theo ý Đức Thánh Cha Phanxicô, khóa họp lần này nhằm thay đổi một não trạng, ngõ hầu khám phá rằng bản chất của Giáo hội là synodalitas, nghĩa là có sự tham gia của tất cả các phần tử, chứ không phải chỉ tùy thuộc vào sự điều hành của các cấp lãnh đạo. Sự khó khăn của việc thay đổi não trạng nằm ở chỗ làm thế nào gây được ý thức về sự cần thiết phải lắng nghe nhau, bàn thảo với nhau. Đây là một điều cực kỳ khó khăn, bởi vì đã bị lãng quên từ nhiều thế kỷ rồi, trong đời sống Giáo hội, cũng như trong đời sống các Dòng tu.
A. Trong đời sống Giáo hội
Vào các thế kỷ đầu, các giám mục họp nhau thường xuyên. Thế nhưng, các cuộc họp ấy trở nên thưa dần, rồi bỏ luôn. Nên biết là những cuộc họp này không chỉ là “gặp gỡ thân hữu”, mà còn đi đến các quyết nghị lập pháp. Vài thí dụ.
1/ Công đồng giáo tỉnh
Ngay từ thế kỷ III, các Giám mục thuộc cùng giáo tỉnh đã quen gặp nhau trong các “công đồng” (concilium, synodus) để cùng nhau giải quyết những vấn đề chung. Tập tục ấy trở thành luật pháp khi công đồng Nicea I (325) truyền các công đồng giáo tỉnh phải họp mỗi năm hai lần, vào đầu mùa Chay và mùa thu. Tổng Giám mục có bổn phận phải triệu tập, và các Giám mục có nghĩa vụ phải tham dự nếu không thì sẽ mắc vạ tuyệt thông. Những vấn đề thường đem ra bàn thuộc phạm vi kỷ luật, phụng vụ địa phương, chuẩn nhận các cuộc bầu cử Giám mục, thành lập giáo phận, vân vân. Thế nhưng, theo dòng thời gian, hạn kỳ nhóm họp được từ từ giãn ra. Mặc dù công đồng Calxêđonia (451) lặp lại lệnh truyền họp mỗi năm hai lần như Nicêa, nhưng sang thế kỷ sau, Adge (505), Toledo (589) chỉ buộc mỗi năm một lần. Trong suốt thời Trung cổ, hạn kỳ mỗi năm một lần còn được công đồng Laterano IV (1215) nhắc lại, nhưng công đồng Constanza (1414-18) và Trento (1542-63) kéo dài ra ba năm. Sang thế kỷ XIX, công đồng Vaticanô I cho phép 5 năm mới họp, và bộ giáo luật 1917 còn rộng hơn nữa: 20 năm. Bộ giáo luật hiện hành lại càng lỏng lẻo: chừng nào đa số các Giám mục của giáo tỉnh xét là thuận lợi (đ.440 §1). Nói thế thì cũng hầu như khai tử cho định chế này vậy
2/ Công nghị giáo phận
Chúng ta không rõ nó ra đời từ hồi nào. Công nghị sớm nhất được chứng tích lịch sử lưu lại là Auxerre vào năm 585. Công nghị truyền rằng mỗi năm các linh mục phải tụ họp vào tháng 5 để tìm cách thực thi các nghị quyết của công đồng giáo tỉnh và để báo cáo cho Giám mục về tình hình của giáo phận. Tưởng nên ghi nhận là các hội nghị lập pháp trong Giáo hội bên Tây phương thường mang danh là concilium (công đồng), thế nhưng không hiểu vì lý do gì các tài liệu cổ đã gọi các hội nghị giáo phận là synodus (công nghị). Trong thời Trung cổ, các công nghị thường họp hằng năm, mỗi lần kéo dài chừng ba bốn ngày, và đã có những quyển nghi thức về cách cử hành (Pontificale Romanum. Ordo ad Synodum) được phát hành. Mục tiêu của công nghị có tính cách kỷ luật: thi hành các nghị quyết của các công đồng chung hay công đồng giáo tỉnh, sửa phạt các vi phạm giáo luật. Công đồng Laterano IV (1215) đã buộc cử hành công nghị giáo phận hằng năm. Hạn kỳ ấy vẫn còn được duy trì bởi công đồng Trentô (Sắc lệnh cải tổ, khóa 24, 1563), vì nhận thấy tầm quan trọng của nó trong việc chấn hưng Giao hội. Thánh Carôlô Borrômêô nổi tiếng về việc tổ chức các công nghị giáo phận. Nhằm giúp cho các Giám mục biết phương cách thực thi quyết nghị của công đồng, ĐTC Bênêđictô XIV đã viết một tác phẩm tựa đề De Synodo dioecesana xuất bản tại Rôma năm 1748. Tuy nhiên với thời gian, nhiều giáo phận tỏ ra lơ là với việc tổ chức công nghị; đàng khác các Giám mục cũng không muốn triệu tập thường xuyên vì e sợ ảnh hưởng của thuyết chủ-công-đồng (conciliarismus) đặt hội nghị lên trên Giám mục. Vào hồi công đồng Vaticano I, một số giám mục đã đề nghị họp ba năm một lần, nhưng công đồng chưa có dịp xét tới. Bộ giáo luật 1917 kéo dài thời hạn triệu tập ra mười năm, nhưng trên thực tế không được tuân giữ cho lắm. Một thí dụ cụ thể là chính giáo phận Rôma mãi tới năm 1959 mới mở công nghị, (nghĩa là hơn 40 năm sau khi bộ luật được ban hành). Điều 461 của bộ giáo luật hiện hành thì để tùy cho Giám mục xét, sau khi đã bàn hỏi với Hội đồng linh mục. Với lối hành văn co dãn như vậy, ắt là công nghị giáo phận dần dần sẽ được khai tử. Thử hỏi: xưa nay ở Việt Nam có bao nhiêu giám mục triệu tập công nghị?
3/ Các công đồng hoàn vũ
Chỉ cần đối chiếu vài con số thì đủ rõ. Thời trung cố, một thế kỷ 3 công đồng . Thế kỷ XII: Latêranô I (1123); Latêranô II (1139); Latêranô III (1179). Thế kỷ XIII: Latêranô IV (1215); Lyon I (1245); Lyon II (1274). – Thời cận đại, 3 thế kỷ một công đồng: từ Trentô (1545-63) đến Vaticanô I (1869-70).
B. Đời sống các Dòng tu
Chỉ xin lấy thí dụ từ Dòng Đa Minh để đối chiếu. Trong các thế kỷ đầu tiên, các tổng tu nghị họp hằng năm, (vào ngày thứ hai sau lễ Hiện Xuống), đang khi dòng Phan-sinh 3 năm mới họp một lần. Vào thời ấy, bề trên tổng quyền không có nhiệm kỳ, nhưng có thể từ chức hoặc bị bãi chức. Từ năm 1368, nhịp độ các khóa họp tăng lên hai năm, và qua năm 1553, tăng lên ba năm (được Giáo hoàng Julius II chấp thuận); năm 1635 Giáo hoàng Urbano VIII cho giãn ra sáu năm, nhưng đến năm 1679, giáo hoàng Innocentê XI truyền trở lại ba năm, và điều này vẫn còn hiệu lực cho đến nay. Duy có điều là đức Piô IX ấn định nhiệm kỳ tổng quyền là 12 năm (chứ không vô hạn như trước). Vì thế thứ tự các khóa họp sẽ là: a) bầu cử (giám tỉnh và đại biểu họp chung); b) đại biểu; c) giám tỉnh; d) đại biểu. Năm 1974, nhiệm kỳ tổng quyền giảm xuống còn 9 năm, và thứ tự xếp lại như sau: a) bầu cử (giám tỉnh và đại biểu họp chung); b) đại biểu; c) giám tỉnh.
Để thấy rõ nét đặc sắc của dòng Đa Minh, ta hãy đối chiếu với các dòng được thiết lập vào thời cận đại.
– Dòng Tên chỉ còn tổng hội (gọi là congregatio generalis) được triệu tập khi nào cần bầu tổng quyền. Các cuộc họp khác (tổng hội hoặc tỉnh hội) bị dẹp vì tốn kém và mất thời giờ!
– Các dòng tu với lời khấn đơn (được thành lập do sắc lệnh bộ tu sĩ năm 1901) còn phân biệt hai loại tổng tu nghị: a) bầu cử; b) bàn việc. Tổng tu nghị “bầu cử” thì bắt buộc phải có; còn tổng tu nghị “bàn việc” thì để tùy luật riêng.
– Trên thực tế, hiện nay, trong các dòng tu, các tổng tu nghị chỉ họp nhau để bầu bề trên tổng quyền; và có nghĩa là 4 hay 6 năm mới họp một lần.
Tóm lại, khuynh hướng chung của Giáo hội và của các Dòng tu là ngại “hiệp nghị”, tránh các buổi hội họp bao nhiêu có thể. Vì thế, đến lúc “bất đắc dĩ” phải gặp nhau, thì họ cảm thấy nhiều lúng túng. Thiết tưởng đó là một não trạng mà Đức Thánh Cha Phanxicô muốn thay đổi. Các bài suy niệm của cha Timothy Radcliffe được soạn theo hướng đó. Chúng ta cần gặp gỡ nhau, kể cả cãi nhau mà chẳng đưa đến kết luận nào! Điều cần là làm thế nào nhận ra Chúa Giêsu đang hiện diện trong cuộc cãi nhau đó! Thật vậy, các hiệp nghị của chúng ta không giống như các buổi họp chính trị, dựa trên những lý luận tự nhiên tìm cách thắng đối phương, nhưng dựa trên ánh sáng và sức mạnh của Thánh Linh: Ngài nói qua những người tham dự.
III. Nội dung các bài suy niệm
Sáu bài suy niệm của cha Timothy Radcliffe nhằm chuẩn bị tinh thần cho các người tham dự Hiệp Nghị chấp nhận những khó khăn có thể gặp trên tiến trình “hiệp nghị”.
Đề tài của các bài suy niệm có thể tóm gọn vào các từ sau: Hy vọng; Nhà ở; Tình bạn; Đàm thoại, Thẩm quyền, Chân lý.
1/ Hy vọng
Mở đầu loạt bài suy niệm, cha Radcliffe ghi nhận rằng nhiều người đến với hiệp nghị với nỗi lơ sợ sẽ gặp nhiều xáo trộn, sợ rằng những thay đổi sẽ đưa tới chia rẽ, ly giáo. Nhưng có người lại hy vọng rằng Giáo hội sẽ canh tân triệt để. Dù sao đi nữa, chúng ta cần nhớ lại những lời trong Tin mừng: “Đừng sợ!”. Vì thế chúng ta cần xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi sợ hãi. Mỗi người chúng ta mang những niềm hy vọng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Chúng ta hãy chia sẻ cho nhau những hy vọng ấy, giống như các môn đệ tại bữa Tiệc Ly. Và họ đã nhận được niềm hy vọng vượt quá mọi niềm hy vọng, như thánh Phaolô nói (Rm 4,18: spem contra spem: hy vọng mặc dù không còn gì để hy vọng), đó là “Hy vọng Thánh Thể”, khi Chúa Giêsu đã trao hiến mình và máu của Người để nhân loại được cứu độ. Niềm hy vọng này vượt quá óc tưởng tượng của chúng ta, vượt quá những ước mong của chúng ta. Chúng ta tin tưởng kể cho nhau nghe những hy vọng ấy, lắng nghe Chúa và lắng nghe nhau để tìm hiểu ý Chúa dành cho Giáo hội và cho nhân loại. Nhờ vậy chúng ta sẽ hợp nhất với nhau trong một niềm hy vọng vượt lên trên những bất đồng ý kiến của chúng ta. Thiên Chúa sẽ dự liệu vượt quá sự ước mong của chúng ta, tựa như các môn đệ khi phải giải quyết cơm bánh cho đám dân trong nơi hoang địa (Mc 8,1-10).
2/ Nhà ở
Đừng kể cuộc khủng hoảng về chỗ trú ngụ mà nhiều người đang gặp, cuộc khủng hoảng “nhà thiêng liêng” còn trầm trọng hơn. Nhiều người thiếu “tổ ấm” của gia đình, sống trong cảnh cô quạnh. Giáo hội hiện nay cũng gặp khủng hoảng về nhà ở, theo nghĩa là nhiều người không còn cảm thấy Giáo hội như là nhà của mình; họ cảm thấy lạc lõng. Người thì cho rằng Giáo hội đã mất căn tính cổ truyền. Đối lại, người khác lại ước mơ một Giáo hội đổi mới và mở rộng đến thế giới hơn nữa. Cả hai quan điểm đều có phần đúng. Dù nói sao đi nữa, chúng ta đừng quên rằng Thiên Chúa, Đấng Emmanuel, đã đến cư ngụ giữa chúng ta. Chúng ta cần giúp cho mọi người cảm thấy Giáo hội như là nhà của mình; đừng người nào cảm thấy mình bị loại trừ. Có người lo rằng chấp nhận hết mọi người vào trong Giáo hội là làm méo mó căn tính của Giáo hội. Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng căn tính của Giáo hội có một phần đã được biểu lộ, nhưng còn một phần phải khám phá, như thánh Giaon tông đồ đã viết: Hiện nay chúng ta đã là con cái Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ như thế nào thì chưa được tỏ lộ (1Ga 3,2). Không lạ gì mà có những căng thẳng không thể nào tránh được. Một đàng Chúa hứa sẽ đến cư ngụ trong nhà của ta (Ga 14,23); đàng khác, thì Ngài hứa sẽ đem ta vào nhà của Chúa (Ga 14,2).
3/ Tình bạn
Hiệp nghị sẽ coi là thành công nếu đưa chúng ta đến tình bạn sâu xa hơn với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau. Thế giới ngày nay khao khát tình bạn, vì bị xáo trộn bởi những yếu tố gây chia rẽ, khiến cho con người chỉ nghĩ đến quyền lợi cá nhân. Đối lại, tình bạn phải giúp nhau nhìn về một mục tiêu, cho dù không đồng ý với nhau về giải đáp cho các câu hỏi. Chính khi can đảm chia sẻ những nghi ngờ và cùng nhau tìm kiếm chân lý mà nảy ra tình bạn.
4/ Nói chuyện
Dựa theo trình thuật hai môn đệ trên đường Emmaus, cha Radcliffe cho thấy rằng trong Giáo hội cũng có nhiều người bực bội vì những cảnh chướng tai gai mắt. Họ hy vọng hiệp nghị lắng nghe các đòi hỏi của họ. Cuộc đàm thoại được coi là đích thực khi không đi từ những câu trả lời đã chế sẵn, nhưng cần phải nhảy vọt để đi vào cảm nghiệm của người khác bằng cách lắng nghe họ, từ đó gây ra một chiều kích mới. Chúng ta cần chấp nhận sự khác biệt phong phú, nảy sinh những tương quan mới.
5/ Thẩm quyền
Giáo hội đang trải qua một cuộc khủng hoảng quyền bính, mất uy tín do những chuyện lạm dụng về tình dục và tài chính. Thật ra, cuộc khủng hoảng quyền bính xảy ra cho tất cả mọi thể chế xã hội hiện nay. Người ta chạy theo những tài tử, những diễn viên và kể cả các nhà độc tài, hơn là nghe theo chính quyền. Thế nhưng chính trong bối cảnh này, mà người ta cảm thấy khát khao được nghe tiếng nói có thẩm quyền để hướng dẫn họ về ý nghĩa cuộc đời. Nói đến quyền bính trong Giáo hội, cha Radcliffe nhắc lại rằng tất cả mọi người được rửa rội đều có thẩm quyền trong Chúa Kitô. Chúng ta đừng nên quên ba khía cạnh cơ bản của thẩm quyền. Một là cái Đẹp (Mỹ), mở óc tưởng tượng đến cõi siêu việt; hai là cái Tốt (Thiện), đòi hỏi sự can đảm và dấn thân; ba là con đường của sự Thật (Chân) cần được thông đạt cách thành thật. Cả ba con đường đều cần thiết, bởi vì cái đẹp mà không có sự thật và sự thiện thì có nguy cơ trở thành trống rỗng; nếu thiếu chân lý, thì cái tốt rơi vào cảm tình, còn sự thật mà thiếu sự thiện thì đưa đến pháp đình tôn giáo. Ước gi Giáo hội là một cộng đồng mang thẩm quyền hỗ tương, và cuối cùng, Giáo hội cần mang uy tín của Chúa để hướng dẫn nhân loại đang khát khao sự chân thật.
6/ Thánh Thần chân lý
Dù trên đường đi, chúng ta gặp những xung khắc, nhưng chúng ta tin rằng Thánh Thần chân lý sẽ dẫn đưa Giáo hội đến chân lý vẹn toàn. Thần khí thổi ở đâu ngài muốn. Mong sao Ngài sẽ dẫn chúng ta qua những con đường của đón tiếp, ban cho chúng ta khả năng lắng nghe, đối thoại và hiểu biết. Đừng sợ đối diện với những chân lý chướng tai, nhưng hãy bình tĩnh chứ không để cho sự tức giận đè nặng.
Trong những cuộc suy niệm này, cha Radcliffe đã thuật lại nhiều kinh nghiệm từ cuộc sống Đa Minh. Như đã nói ở đầu. Dòng Đa Minh họp tổng tu nghị ba năm một lần; nhưng các quyết định của phiên họp có thể sẽ bị phiên họp tới xóa bỏ. Theo hiến pháp, một quyết định cần được phê chuẩn bởi ba tổng hội liên tiếp (với thành phần tham dự khác nhau) thì mới có giá trị. Một kinh nghiệm khác là trong các khóa họp, không ai được gạt bỏ ý kiến người khác vì bị coi là vớ vẩn. Có thể là ý kiến ấy sai, vô lý, tuy vậy, dù có sai đi nữa, vẫn có cái gì đáng được tôi chú ý, để tìm hiểu xem họ muốn nói cái gì, tuy có lẽ chưa tìm được cách thích hợp để diễn tả. Cuối cùng, chúng ta đều là những kẻ “ăn mày chân lý”, chứ không phải là chủ nhân của chân lý.
Cha Radcliffe kể lại rất nhiều kinh nghiệm nhờ những cuộc tiếp xúc với nhiều người, và không ngại kể lại cảm nghiệm cá nhân lúc bị bệnh. Những câu chuyện ấy được phân tích dưới ánh sáng của Lời Chúa, nhờ kinh nghiệm dạy học lâu năm.
——————————–
Phụ thêm
Cha Timothy Radcliffe, OP. sinh ngày 22-8-1945, gia nhập dòng Đa Minh năm 1971. Trong thời giam giữ nhiệm vụ Bề trên tổng quyền, cha đã đi thăm anh em ở khắp các đại lục, và đã để lại 16 thư chung, được LM Nguyễn Cao Luật, OP. sưu tập trong bộ Can đảm hướng tới tương lai (Học viện Đa Minh, 2017): 1/ Dấn thân thi hành sứ vụ (Phục sinh 1994): tr. 267. 2/ Công viên kỷ Jura và bữa Tiệc ly (Tháng 6/1994): tr. 297. 3/ Hãy đi và giảng thuyết (21/5/1996): tr. 315. 4/ Ơn gọi tu trì hôm nay (8/8/1996): tr. 324. 5/ Suối nguồn hy vọng. Học hỏi và loan báo Tin Mừng (tháng 11/1995): tr. 345. 6/ Tự do theo tinh thần Đa Minh và trách nhiệm. Hướng tới một linh đạo về quản trị: tr. 377. 7/ Lời hứa ban sự sống (25/2/1998): tr. 419. 8/ Kinh Mân côi (tháng 10/1998): tr. 463. 9/ Con gấu và chị đan sĩ. Ý nghĩa đời tu trì ngày hôm nay (tháng 10/1998): tr. 479. 10/ Giai đoạn đào tạo sơ khởi (13/2/1999): tr. 502/ 11/ Thánh Catarina Siena, bổn mạng châu Âu (tháng 4/2000): tr. 534. 12/ Ngai Thiên Chúa. Với các viện phụ Biển Đức (6/9/2000): tr. 541. 13/ Tôn vinh, chúc tụng, giảng thuyết. Sứ vụ của gia đình Đa Minh (tháng 12/2000): tr. 562. 14/ Sứ vụ trong một thế giới trốn chạy. Những công dân tương lai của vương quốc (tháng 12/2000): tr. 584. 15/ Đời sống chiêm niệm của các nữ đan sĩ (29/4/2001): tr. 609. 16/ Dụ ngôn Người Samari tốt lành (30/6/2001): tr. 643.
Phan Tấn Thành, OP.
Nguồn https://catechesis.net/
2023
Người tu sĩ đồng tính
Trả lời:
Chào bạn,
Trước khi đưa ra câu trả lời cho chuẩn xác, hãy cùng làm rõ câu hỏi của bạn.
Hạn từ “tu sĩ” được dùng để chỉ những người nam/nữ sống đời thánh hiến qua việc tuyên khấn công khai các lời khuyên phúc âm (gọi tắt là lời khấn) trong một hội dòng. “Người tu sĩ hiến dâng trọn vẹn thân mình như một hy lễ được dâng lên Thiên Chúa, nhờ đó tất cả cuộc sống họ trở nên một việc liên lỉ thờ phượng Thiên Chúa trong đức ái” (GL 607). Đôi khi, chúng ta cũng hay nghe nói đến từ “đan sĩ”. Thuật ngữ “đan sĩ” không xuất hiện nhiều trong Giáo Luật cho bằng từ “tu sĩ”. Thực ra, dưới một khía cạnh nào đó, các đan sĩ cũng là tu sĩ, vì họ tuyên công khai và giữ các lời khấn. Nhưng thuật ngữ “đan sĩ” được dành riêng cho các tu sĩ sống trong một đan viện. Đây là một kiểu đời tu xuất hiện rất sớm trong Giáo hội. Các linh mục triều không được gọi là “tu sĩ” vì họ không tuyên giữ công khai các lời khấn. Họ được gọi là “giáo sĩ”.
Liên quan đến xu hướng tính dục, phải phân biệt: dị tính, đồng tính (nam hoặc nữ), song tính[1], ngoài ra, còn có người chuyển giới (transgender), người đang chưa rõ về giới tính của mình và đang tìm hiểu về bản thân (questioning).
– “Dị tính” là người bị hấp dẫn tính dục bởi những người khác giới và không có cảm giác về mặt cảm xúc hay tình dục với người cùng giới.
– “Đồng tính” là người bị hấp dẫn tính dục bởi những người cùng giới tính và không có cảm giác về cảm xúc hay tính dục với những người khác giới tính. Có loại đồng tính nữ (gọi là lesbian hay les), và đồng tính nam (gọi là gay).
– “Song tính” là người bị hấp dẫn tính dục bởi cả người cùng giới lẫn khác giới (bisexual).
Câu hỏi của bạn chỉ giới hạn trong phạm vi “đồng tính”, nhưng chúng tôi ngầm hiểu là bạn đang ám chỉ đến một kiểu xu hướng tính dục không-phải-là-dị-tính, nghĩa là xu hướng mà chúng ta tạm gọi là “khác với xu hướng tính dục tự nhiên thông thường của đại đa số người trên thế giới”. Vì thế, dưới đây, khi trả lời câu hỏi của bạn, chúng tôi sẽ dùng từ “đồng tính” theo nghĩa này.
“Có sao không?” là một câu hỏi rất mơ hồ. Chúng tôi không hiểu là bạn đang nói đến điều gì: người đồng tính có được chấp nhận để trở thành tu sĩ không, hay nếu đi tu mà đồng tính thì có phạm tội gì không, hay là một tu sĩ mà đồng tính thì có ảnh hưởng nguy hại gì đến đời tu không?… Chúng ta không thấy có một ngăn trở nào quy định trong cuốn Giáo Luật 1983 nói rằng người đồng tính thì phải bị loại trừ khỏi đời sống dâng hiến (hay thậm chí là trở thành linh mục). Vì thế, nếu có tu sĩ (hay linh mục) nào phát hiện ra mình có xu hướng đồng tính, người đó không hề lỗi luật, cũng không phạm tội luân lý gì. Vấn đề đặt ra ở đây mà chúng ta cần suy xét là “khi biết một ứng viên muốn sống đời tu mà có xu hướng đồng tính, người hữu trách có nên nhận họ không?” Luật thì không cấm nhưng thường người hữu trách sẽ rất e dè với những trường hợp này. Vì sao?
Đời tu và người đồng tính
Như đã nói ở trên, đời tu có liên quan đến việc sống các lời khuyên phúc âm và đời sống cộng đoàn. Cụ thể hơn, nó đòi buộc người ta phải sống tốt đời sống khiết tịnh, triển nở bản thân trong tình trạng “độc thân vì Nước Trời”. Sống khiết tịnh vốn dĩ không phải là điều dễ dàng. Bởi thế, nếu người ta chọn sống nó chính là vì họ có một mục đích cao cả. Ta vẫn hay nghe đến những câu chuyện một anh chàng hay cô nàng nào đó nguyện suốt đời không lấy ai khác để chứng tỏ lòng chung thuỷ dành cho người mình yêu. Một tình yêu cao cả đã thôi thúc người ta đến chỗ dành trọn cuộc sống và mọi sự của mình cho một người duy nhất mà thôi, chứ nhất quyết không chia sẻ nó với ai khác, dù biết rằng mình sẽ gặp nhiều khó khăn và thử thách với chọn lựa này.
Với người sống đời dâng hiến, động cơ thúc đẩy họ đến chọn lựa sống độc thân, chính là vì tình yêu dành cho Đức Giêsu, hay cụ thể hơn, họ “sống độc thân vì Nước Trời.” Như thế, tình trạng độc thân của người tu sĩ hay lời khấn khiết tịnh của họ đồng thời cũng mang tính sứ mạng. Và để có thể sống được điều này, đòi hỏi người tu sĩ phải có một sự trưởng thành tâm cảm. Đó là một khả năng hiểu biết về chính mình, biết làm chủ cảm xúc, giới tính của mình, biết cách giao tiếp lành mạnh trong các mối tương quan, có một sự quân bình trong chính con người mình.
Thật ra, để có thể trở thành một con người thành công, có ích cho xã hội, con người nào cũng phải có được sự trưởng thành tâm cảm này. Đây chính là mục tiêu của giáo dục và huấn luyện con người. Nhưng nó trở nên cấp thiết hơn trong môi trường đời tu. Bởi lẽ, một tu sĩ nào đó dù đã lớn tuổi, nhưng lại không có một tâm cảm trưởng thành thì cũng hệt như một đứa bé mới lớn. Người đó chẳng hiểu về lý tưởng của mình, không thể làm chủ những xung động nơi bản thân mình, luôn bị cảm xúc chi phối trong các quyết định, lại không có một tương quan đúng đắn và lành mạnh với người khác. Một người như thế, rất khó có thể trở thành “người thợ” trong vườn nho của Chúa, và sống sót “giữa bầy sói dữ”.
Đòi hỏi một người tu sĩ phải ngay lập tức hoàn hảo trong tất cả mọi mặt là điều không thể, nhưng một mức độ trưởng thành về mặt tâm lý sẽ là dấu chỉ cho thấy người đó hiểu về chọn lựa của mình, dám đảm nhận quyết định của mình và sống nó một cách thích đáng để đời mình được sinh hoa kết trái và người khác cũng được hưởng lây thành quả này.
Chúng ta cùng quay trở lại vấn đề: liệu người đồng tính luyến ái có được nhận vào dòng tu hay chủng viện không? Trong phạm vi nhỏ bé của bài viết này, chúng tôi không có tham vọng triển khai một nghiên cứu đầy đủ và chi tiết về nó, nhưng chỉ xin trình bày một cách ngắn gọn những hướng dẫn của Toà Thánh liên quan đến tính hợp pháp trong việc thu nhận những người có xu hướng này.
Toà Thánh đã ban hành rất nhiều tài liệu hay những chỉ dẫn nói về vấn đề này. Trong đó có một Hướng Dẫn được Bộ Giáo Dục Công giáo ban hành vào ngày 31.8.2005, nói rõ rằng sẽ không nhận những ứng viên vào chủng viện hay vào một dòng tu, nếu người đó có khuynh hướng đồng tính, được thể hiện qua ba tiêu chí sau:
– (2) người có khuynh hướng đồng tính cách sâu sắc;
– (3) người cổ võ cho một kiểu “văn hoá đồng tính”.
Một tài liệu khác được ban hành vào 4.11.2005 cũng nhắc đến 3 ngăn trở này trong việc thu nhận một người vào một chủng viện hay dòng tu. Tài liệu nói rõ rằng mặc dù không phân biệt kỳ thị và vẫn tôn trọng những người có xu hướng đồng tính, Giáo hội không thể nhận những anh chị em này vào bậc sống tu trì và chức thánh bởi vì xu hướng ấy là một ngăn cản nghiêm trọng, khiến người đó không thể có một sự quân bình trong tâm lý và không thể có một tương quan đúng đắn và cân bằng với những người nam, cũng như người nữ khác. Một người đồng tính nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi sống trong một cộng đoàn chỉ toàn nam giới; cũng tương tự như vậy đối với người nữ. Do có sự lệch lạc trong xu hướng tính dục, môi trường dòng tu bao gồm những người cùng giới tính với mình có thể sẽ không còn là nơi giúp họ từ bỏ mọi sự và toàn tâm toàn ý phục vụ Chúa cũng như tha nhân, mà chỉ là nơi “trú thân” (vì họ không thể lập gia đình). Tệ hơn, môi trường này có thể trở thành nơi đầy những cám dỗ đối với họ.
Tài liệu không giải thích rõ “người có khuynh hướng đồng tính cách sâu sắc” nghĩa là gì, nhưng trên tinh thần của tài liệu, ta có thể suy đoán rằng đó có thể là:
(2) người đó tham gia vào những diễn đàn, tổ chức dành cho người đồng tính để tìm thoả mãn cho nhu cầu tính dục của mình;
(3) người đó có những biểu diện bên ngoài thái quá như cách ăn mặc hay sử dụng nữ trang, trang điểm…
(4) người đó có nhu cầu thường xuyên đến những tụ điểm đồng tính…
Những người trên không thể là hiện thân cách thích đáng hình ảnh Đức Kitô, vị mục tử nhân lành và là hiền phu của Giáo hội, không thể trở thành một người cha/mẹ thiêng liêng và như thế, họ không có được sự trưởng thành cần có để đảm nhận các thừa tác vụ thánh. Liên quan đến đời sống khiết tịnh, họ không thể sống sự độc thân như một của lễ, không thể ra khỏi chính mình để thiết lập những tương quan đúng đắn với người khác, cả nam lẫn nữ.
Vì vấn đề đồng tính luyến ái là một vấn đề phức tạp, Giáo hội cũng nói đến việc các nhà huấn luyện, các vị linh hướng để thận trọng, khôn ngoan trong việc lắng nghe các ứng viên, đồng thời giúp đỡ họ nhận ra ơn gọi của mình, đặc biệt đối với trường hợp thứ ba (chưa xác định rõ về giới tính của mình do có vấn đề về tâm lý). Phải suy xét cho kỹ để không vội vàng quy chụp hay loại trừ một người có thể có ơn gọi, chỉ là đang có chút rắc rối liên quan đến tính dục của mình. Để tiến tới chức thánh, Giáo hội đòi hỏi ứng viên phải vượt qua được “sự không rõ ràng này” ít là 3 năm trước khi nhận chức phó tế.
Như thế, một sự trưởng thành tâm cảm là rất cần thiết để có thể sống đời tu một cách triển nở. Không chỉ người đồng tính mà cả người dị tính nếu không có được điều này thì cũng khó sống sự dâng hiến trong đời tu, đặc biệt là trong thiên chức linh mục. Để tránh những hiểu lầm hay chỉ trích dành cho Giáo hội, chúng ta cần phải hiểu rõ vì sao Giáo hội lại có những quy định như vậy.
Thật ra, sống đời dâng hiến, cách riêng là chức thánh, là một ân huệ mà Thiên Chúa dành cho Giáo hội, trước khi trở thành tiếng gọi cá nhân. Mỗi cá nhân được mời gọi để sống đời dâng hiến hay để trở thành linh mục là để cộng tác với Giáo hội, hoạt động trong lòng Giáo hội, phục vụ cho Giáo hội. Việc Giáo hội từ chối hay nhận ai đó vào bậc sống tu trì hay giáo sĩ tuỳ thuộc vào việc Giáo hội nhận thấy người đó có thích hợp với lối sống này không và có giúp ích cho người đó cũng như cho các linh hồn không. Sự thích hợp này chính là cái mà ta vẫn đặt tên “ơn gọi”, và được thể hiện ngang qua những dấu chỉ nơi bản thân người đó. Giáo hội xác nhận rằng “không trưởng thành về tâm cảm” là một dấu chỉ cho thấy sự không phù hợp của đương sự với đời tu.
Chúa kêu gọi một người dâng hiến cho Ngài ngang qua Giáo hội. Người ta có thể khăng khăng rằng mình có ơn gọi dâng hiến, nhưng nếu không được Giáo hội xác chuẩn và công nhận thì đó cũng chỉ là suy nghĩ đơn phương của người đó mà thôi. Sự từ chối chấp nhận ai đó vào đời tu của Giáo hội dành cho ai đó cũng muốn nói lên một điều rằng: đời tu không phải là cùng đích của con người, đó cũng chỉ là một trong số các phương tiện khác. Bất cứ con người nào, dù dị tính hay đồng tính, đều có thể trở thành thánh trong một môi trường ngoài đời tu, nếu họ sống tinh thần đức ái theo Tin Mừng và hằng luôn kết hiệp với Chúa.
Việc suy xét có nhận một người vào chủng viện hay vào dòng tu hay không hệ ở người hữu trách tại nơi đương sự xin vào. Đương sự có đủ sự trưởng thành tâm cảm để hiểu và đảm nhận đời tu hay không cũng do các vị có thẩm quyền nơi đó quyết định. Đối với cả người đồng tính hay dị tính, các nhà huấn luyện có trách nhiệm giúp họ khám phá ra ơn gọi mà Chúa dành cho họ, và giúp họ bình an với ơn gọi đó, làm sao để đời tu có được nét đẹp tinh tuyền của nó là một cuộc đời dâng hiến tự nguyện cho Thiên Chúa để sống cho Thiên Chúa và phục vụ con người, chứ không phải là nơi “tìm bạn tình”, hay “trốn đời”, “che đậy bản thân”. Nếu không, nó sẽ dẫn đến những tình trạng không hay vốn đang đục khoét lý tưởng đời dâng hiến – một sáng kiến tuyệt vời mà Thánh Thần đã thổi vào trong Giáo hội.
Tham khảo:
Clark, Keith, Being Sexual and Celibate, Notre Dame: Ave Maria Press, 1986
Sperry, Len, Sexo, Sacerdocio e Iglesia, Santander, Sal Terrae, 2004
2023
Bệnh Phung trong Kinh Thánh
Bệnh Phung trong Kinh Thánh
Bệnh cùi (leprosy) được Kinh Thánh nhắc tới rất nhiều lần. Bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn (1922-1975) gọi nó là bịnh phong (Lêvi 13:2). Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ gọi nó là phong hủi (Dân Số 5:2).
Ngày xưa, theo Paulus Huỳnh Tịnh Của (1834-1907), người Việt gọi bệnh này là cùi, hủi, phung, phung cùi, phung hủi (xem: Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, 1895, tome I: tr. 202, 451; và 1896, tome 2: tr. 210).
Cũng ngày xưa, Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương (1838-1914) là một nhân vật tai mắt ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Tương truyền, nhân một Tết Nguyên Ðán nọ, đại gia họ Ðỗ ra câu đối, có treo giải thưởng cho ai khéo đối. Họ Đỗ thách đối như sau:
Ðất Chợ Lớn có nhà họ Ðỗ, đỗ một nhà, ngũ phước tam đa.
Vế thách đối dùng hai từ đồng âm: Đỗ (họ) và đỗ (thi đậu).
Ghét họ Đỗ quá tận tụy phục vụ thực dân Pháp cướp nước, có người gởi đến câu đối lại như sau:
Cù lao Rồng có lũ thằng phung, phun một lũ cửu trùng bát nhã.
Vế đối lại dùng hai từ đồng âm theo giọng miền Nam: phung (hủi, cùi) và phun (như trong miệng phun ra). Vì sao địa danh cù lao Rồng được nhắc tới? Cù lao này (cũng gọi cồn Tân Long) nằm trên sông Tiền thuộc Mỹ Tho; năm 1903 Toàn Quyền Đông Dương Paul Beau ra nghị định thành lập trên cù lao Rồng một trại phung cho Nam Kỳ. Năm 1940 trại phung này dời về Tuy Hòa.
Như thế, căn cứ vào những điều dẫn trên, gọi cùi, hủi, phung là theo tiếng Việt (hay Nôm); gọi phong là dựa theo chữ Hán, vì người Hoa gọi bệnh này là ma phong bệnh. Vậy, gọi phong hủi là ghép Hán (phong) với Việt (hủi).
*
Kinh Thánh nói nhiều tới bệnh phung vì bệnh này là hình ảnh minh họa cho sức hủy diệt của tội lỗi.
Cựu Ước (Lêvi chương 13) chép lời Đức Chúa Trời (Yavê) dạy cho Môsê và Aharôn cách phân biệt giữa bệnh phung với các loại bệnh khác như: mụt, lác, đốm; ung nhọt; phỏng; chốc; mày đay; sói đầu. Bất kỳ ai bị nghi ngờ mắc bệnh phung đều phải đến gặp tư tế để xem xét (Lêvi 13:2-3). Nếu bị tư tế kết luận là đã mắc bệnh phung, người bệnh buộc phải theo quy chế là: áo xống phải xé tả tơi, đầu để tóc rối che mình đến râu mép và kêu lên: ‘Nhơ, nhơ!’ Chừng nào còn mang bệnh phung thì người ấy còn nhơ uế, và phải sống riêng biệt một mình. Chỗ ở phải để bên ngoài trại của những người không mắc bệnh (Lêvi 13:45-46).
Cựu Ước (Lêvi chương 14) chép lời Đức Chúa Trời (Yavê) dạy cho Môsê và Aharôn cách tẩy uế người đã hết bệnh phung và nhà cửa bị nhơ uế vì phung hủi.
Năm 1873 bác sĩ Hansen (1841-1912, người Na Uy) có công tìm ra trực khuẩn leprae (cũng gọi vi khuẩn Hansen) là nguyên nhân gây bệnh phung, nhờ đó sau này y học có phương pháp chữa trị. Nhưng thời xưa, trước khi có được cách trị bệnh phung, người ta tin rằng Trời gieo bệnh này để trừng phạt kẻ phạm tội. Bị mọi người ghê tởm, khinh miệt, và ruồng bỏ, bệnh nhân không được quyền sống gần gũi cộng đồng. Cựu Ước (Dân Số 5:2-4) chép lời Đức Chúa Trời (Yavê) dạy cho Môsê:
“ ‘Hãy truyền cho con cái Itxraen đưa ra khỏi trại mọi kẻ phung hủi (…). Dù là đàn ông hay đàn bà, các ngươi sẽ đưa chúng ra; tận bên ngoài trại, các ngươi sẽ đưa chúng ra, để chúng đừng làm nhơ uế trại, là nơi Ta ở giữa chúng.’ Và con cái Itxraen đã làm như thế: Họ đã đưa chúng ra ngoài trại. Yavê đã phán với Môsê làm sao, thì con cái Itxraen đã làm như thế.”
Theo cổ luật Do Thái, người mắc bệnh phung phải ở cách xa người không mắc bệnh (kể cả thân thích ruột thịt) khoảng 1,8 mét; nếu có gió thổi, thì khoảng cách phải là 45 mét (x. http://www.gotquestions.org/Bible-leprosy.html). Vì vậy, người bệnh phung phải sống chung với người đồng cảnh ngộ cho tới khi chết, nếu bệnh không thuyên giảm. Đây là biện pháp thi hành ở Do Thái thời xưa để ngăn ngừa bệnh phung lây lan.
Tân Ước (Matthêu 8:2-4) chép rõ một phép mầu của Chúa như sau:
“Khi Ðức Giêsu ở trên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Ngài. Và kìa, một người bị phung hủi tới gần, bái lạy Ngài và nói: ‘Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.’ Ngài giơ tay chạm vào anh ta và bảo: ‘Tôi muốn, anh sạch đi.’ Lập tức, anh ta được sạch bệnh phung hủi. Rồi Ðức Giêsu bảo anh ta: ‘Coi chừng, chớ nói với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế và dâng của lễ, như Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.’”
Đó là người bệnh phung đầu tiên được Đức Giêsu chữa lành. Anh ta lành bệnh nhờ có đức tin vào Chúa. Phép mầu Chúa ban cho anh ta cũng làm chứng cho lời Thánh tông đồ Phaolô trong Thư Gửi Tín Hữu Êphêxô (8:2):
“Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ. Đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa…”
Người bệnh phung ấy đã dám cãi luật Do Thái, đã không chịu giữ khoảng cách tối thiểu 1,8 mét, và chỉ có đức tin mãnh liệt vào Chúa mới khiến anh ta chủ động tới gần Chúa, quỳ xuống lạy, cầu xin ơn Chúa: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.”
Cùng với lời cầu xin ấy đầy xác tín ấy, hành động can đảm cãi luật Do Thái của anh ta cũng làm chứng cho lời dạy này ghi trong Thư Gửi Tín Hữu Do-Thái (4:16):
“Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.”
*
Một phép mầu thứ hai Chúa ban cho người phung được Thánh tông đồ Luca (17:11-19) chép như sau:
“Trên đường lên Giêrusalem, Ðức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samaria và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: ‘Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!’ Thấy vậy, Ðức Giêsu bảo họ: ‘Hãy đi trình diện với các tư tế.’ Ðang khi đi thì họ đã được sạch. Một người trong bọn, thấy mặt được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Ðức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samari. Ðức Giêsu mới nói: ‘Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?’ Rồi Người nói với anh ta: ‘Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.’ (Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ)
Chúa bảo họ “Hãy đi trình diện với các tư tế” là để họ được các tư tế xem xét tình trạng sạch bệnh, không còn nhơ uế nữa, như Lêvi chương 13 quy định. Mười người có đức tin ấy đã vâng theo lời Chúa mà đi gặp các tư tế, và chính lúc đang đi như vậy thì họ sạch bệnh. Có lẽ khi ấy họ đi chưa mấy xa, nên một trong nhóm mười người đó bèn quay lại gặp Chúa, quỳ xuống tạ ơn.
Thánh Luca chép sự kiện Chúa làm phép mầu ngắn gọn như thế, nhưng chúng ta hiểu rằng chín người thọ ơn Chúa mà cứ vô tâm bỏ đi, không một lời cảm ơn vắn vỏi, thì họ vẫn cứ sạch bệnh. Phép mầu không mất đi trên da thịt họ, bởi vì Chúa đã cho thì không lấy lại. Nhưng, họ chỉ mới được cứu cho phần xác. Còn người Samari, người duy nhất biết vội vàng chạy ngược lại tìm Chúa để thành tâm cúi lạy tạ ơn thì sao? Anh được Chúa bảo gì?
Câu Luca 17:19 được linh mục Nguyễn Thế Thuấn dịch: “Hãy chỗi dậy mà đi về; lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi.”
Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch không mấy khác: “Ðứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
Nhưng tôi lại thích câu Luca 17:19 trong bản King James hơn: “Arise, go thy way: thy faith hath made thee whole.”
Có lẽ đã noi theo bản King James nên trong truyện ngắn A Leper’s Thanksgiving, mục sư Ralph F. Wilson (Tiến Sĩ Thần Học Mỹ) viết rằng Chúa đã bảo anh chàng Samari là: “Rise and go. Your faith has made you whole.”
Khi chuyển ngữ truyện ngắn của mục sư Wilson (xem “Một Trong Mười”, nguyệt san CGvDT tháng 5-2016), tôi dịch: “Dậy mà đi đi. Đức tin của anh đã biến anh thành toàn vẹn.”
Tôi hiểu toàn vẹn (whole) là cả xác lẫn hồn. Chín người kia không toàn vẹn, vì chỉ mới được cứu chữa phần xác.
Trong bản tiếng Anh của Wilson, mục sư viết: “They [chín người bệnh khác] had received physical healing, indeed, but at Jesus’ feet, Bart had received a healing of his whole person.”
Wilson chỉ nói whole (toàn vẹn), không nói gì tới phần hồn, nhưng tôi hiểu mục sư hàm ngụ có phần hồn trong đó, bởi lẽ vế trước đã nói physical healing (chữa trị phần xác). Hiểu như vậy nên tôi dịch câu tiếng Anh dẫn trên là: “… họ [chín người bệnh khác] đã được chữa lành phần xác, nhưng quỳ dưới chân Đức Giêsu, Batôlômêô đã nhận được ơn chữa lành trọn cả thân tâm.” Nói trọn cả thân tâm thì cũng đồng nghĩa trọn cả xác lẫn hồn.
Mục sư Wilson rất thâm thúy khi kết thúc truyện ngắn lại viết câu này: “The gift of healing had sent him the message of God’s love, but thanks had brought him home.”
Tôi dịch: “Món quà cứu chữa đã gởi cho ông sứ điệp về tình yêu của Thiên Chúa, nhưng lòng biết ơn đã mang ông về lại quê nhà.”
Mặc dù home thường được hiểu là nhà, nhưng tôi chủ ý dịch là quê nhà. Bởi lẽ tôi tin rằng mục sư Wilson không hề ám chỉ ngôi nhà nào đó của Batôlômêô được dựng lên trên đất đai Samari. Tôi tin Wilson, cũng giống như những người tín hữu Cao Đài, hiểu rằng thế gian này chỉ là đất khách, là quê người, là chỗ tạm ghé để tạm trú trong vài mươi năm của một kiếp người mỏng manh dòn vỡ. Quê nhà đích thực của mỗi người chúng ta không phải ở thế gian, mà ở một nơi được các tôn giáo xưa nay gọi bằng nhiều danh từ khác nhau: Thiên Đàng, Nước Trời, Thượng Giới, Cực Lạc, Niết Bàn, Tịnh Thổ, v.v… Quê nhà đó còn được các tôn giáo hình tượng hóa là Thiên Chúa, Chúa, Trời, Thượng Đế, Ngọc Hoàng, Phật, v.v…
Những cảm nghĩ nói trên tôi không tiện diễn bày trong bản dịch Một Trong Mười. Do đó, tôi viết bài này như một tản mạn, cũng là để chia sẻ với nhau chỗ hòa điệu liên tôn. HK
2023
Nghĩ về sự tham dự phụng vụ của cộng đồng Dân Chúa
Nghĩ về sự tham dự phụng vụ của cộng đồng Dân Chúa
Việc cử hành và tham dự các lễ nghi phụng vụ vốn được Hội Thánh thường xuyên đặc biệt quan tâm, bởi công việc này xảy ra hằng giờ, hằng phút, hằng giây khắp nơi trên thế giới. Đối với Hội Thánh, “Phụng Vụ là tột đỉnh quy hướng mọi hoạt động của Hội Thánh, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Hội Thánh. Thực vậy, các công lao khó nhọc trong việc tông đồ đều nhằm làm cho mọi người, nhờ đức tin và Phép Rửa, trở nên con cái Thiên Chúa, cùng nhau quy tụ ngợi khen Chúa giữa lòng Hội Thánh, thông phần Hiến Tế và ăn tiệc của Chúa”.
“… Chính Phụng Vụ, nhất là lễ Tạ Ơn, như là nguồn mạch chảy tràn ân sủng vào trong chúng ta và làm cho con người được thánh hóa trong Chúa Kitô một cách hữu hiệu, đồng thời Thiên Chúa được vô cùng tôn vinh, đó là điều mà mọi công việc khác của Hội Thánh đều quy hướng về như là cứu cánh” (Xem Hiến chế Phụng Vụ Thánh, số 10). Vì thế, Hội Thánh thường xuyên chăm lo để việc cử hành và tham dự cho chu đáo, và chỉnh sửa hoặc cải tiến khi cần.
Mới đây Ủy ban Phụng Tự thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã cho phổ biến bản “Hướng dẫn cử hành Thánh lễ” với nội dung bao gồm nguyên tắc tổng quát, nghi thức nhập lễ, phụng vụ Lời Chúa, phụng vụ Thánh Thể và nghi thức Kết lễ. Bản hướng dẫn tuy có nhắc đến sự tham dự của dân chúng, của mọi người, nhưng chưa nhiều.
THÁNH CÔNG ĐỒNG VATICAN II QUAN TÂM ĐẾN VIỆC CÁC TÍN HỮU THAM DỰ PHỤNG VỤ
Hiến chế Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium) của Thánh Công đồng đã nêu rõ sự cần thiết liên quan đến việc hướng dẫn các tín hữu tham dự các nghi lễ Phụng Vụ. Hiến Chế viết:
“Mẹ Hội Thánh tha thiết ước mong các tín hữu được hướng dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn ý thức và linh động”.
“Việc tham dự ấy do chính bản tính Phụng Vụ đòi hỏi; lại nữa, nhờ phép Rửa Tội, việc tham dự Phụng Vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân Kitô giáo, là dòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là dân thánh, là con dân được tuyển chọn” (1Pr 2,9 và 4-5). (số 14).
SỰ QUAN TÂM ĐẾN CÁC CÁCH THAM DỰ
Thánh Công đồng có nêu ba cách tham dự các nghi lễ Phụng Vụ, đó là trọn vẹn, ý thức và linh động.
Tham dự trọn vẹn (plenam illam) có nghĩa là tham dự đầy đủ từ đầu đến cuối. Thông thường, các nghi lễ Phụng Vụ đều có quy định thời gian và phổ biến công khai để ai muốn tham dự cũng có thể biết được để tham dự cho đúng thời gian và địa điểm. Cụ thể như việc tham dự thánh lễ Chúa nhật chẳng hạn, nhà thờ nào cũng có thông báo về thời giờ cử hành. Các tín hữu liệu thu xếp công việc riêng tư để dành thời giờ tham dự, tránh tình trạng dự lễ đi trễ về sớm khiến việc tham dự không trọn vẹn, mất một phần ơn ích.
Tham dự có ý thức (conscidam) là tham dự với sự chăm chú tập trung tâm trí vào nghi lễ đang cử hành, bởi mỗi lời đọc, mỗi cử chỉ trong nghi lễ đều có ý nghĩa và có giá trị, dù chỉ là một việc cúi đầu, khoanh tay, chắp tay, đứng, quỳ, ngồi… đều thể hiện sự tôn vinh, cung kính hoặc hòa đồng với cộng đoàn tham dự. Các việc chào Chúa, chúc chủ tế, chúc nhau đều mang ý nghĩa liên đới, chưa nói đến ý thức việc lắng nghe và suy tôn Lời Chúa, suy tôn và rước Thánh Thể Chúa vào lòng, tất cả cần có sự ý thức cao và sốt sắng.
Tham dự cách linh động (actuosam). Hội Thánh đã có quy trình tổ chức các nghi thức Phụng Vụ và bố trí để có sự tôn nghiêm nhưng linh hoạt, không thụ động nhàm chán, nên các tín hữu tham dự Phụng Vụ cũng trang bị tinh thần tham dự phấn khởi nhiệt tình. Mỗi một cử chỉ dành cho cộng đoàn cần được đón nhận và thực hiện một cách sốt sắng, tránh thụ động, chia trí hoặc cử hành bất đắc dĩ. Nhưng cũng cần tránh sự linh động thái quá không phù hợp với sự tôn nghiêm của nghi lễ đang cử hành.
NGHĨ VỀ TRANG PHỤC CỦA CÁC TÍN HỮU KHI THAM DỰ PHỤNG VỤ
Đối với Hội Thánh, phần lễ phục dùng trong các nghi lễ Phụng Vụ đã được quy định rõ ràng từ kiểu mẫu, màu sắc đến cách sử dụng, nhưng đối với các tín hữu tham dự Phụng Vụ thì vẫn để cho các nơi theo văn hóa, tập quán. Dù vậy, việc sử dụng cũng cần quan tâm đến sự trang nghiêm, xứng đáng. Cứ sự thường, tín hữu nào cũng biết lo cho mình có được trang phục chỉnh tề khi tham dự Phụng Vụ. Nhưng cũng vẫn có xảy ra các trường hợp trái chiều, như đến tham dự thánh lễ với bộ đồ thể thao hoặc trang phục “nhà nghèo”, trang phục “thiếu vải”… Tại một số nhà thờ ở Rome và các nơi có Ban Lễ tân phục vụ cho số người này bằng việc cho mượn áo khoác mặc khi tham dự thánh lễ và hoàn lại cho nhà thờ khi lễ tất.
Việc tham dự các nghi lễ Phụng Vụ cũng không phải là dịp để cá nhân hoặc nhóm nào phô trương sắc phục, xảy ra tình trạng trình diễn loạn màu sắc, làm mất vẻ trang nghiêm của việc thờ phượng đồng thời cũng gây mặc cảm đối với các tín hữu không có đồng phục!
Việc chọn kiểu mẫu, màu sắc trang phục cho các tập thể nên có sự cân nhắc để liệu sao cho xứng hợp với Phụng Vụ thánh, không làm theo sở thích hoặc bắt chước mẫu mã festival của đời thường.
DỰ LỄ VÀ LIÊN HOAN
Hằng năm, người tín hữu tham dự nhiều thánh lễ. Ngoài 11 lễ trọng, lễ dành cho giáo dân (còn gọi là lễ họ) còn có các lễ trọng khác, lễ kính, lễ nhớ theo lịch phụng vụ. Các tín hữu còn dự các thánh lễ ngoài lịch, như lễ bổn mạng, lễ kỷ niệm (nhiều ý), lễ phong chức, tựu chức; lễ khai mạc các công trình, lễ tạ ơn, lễ cầu bằng an… Đối với các lễ trọng cầu cho giáo dân thì có thể có liên hoan hoặc không, nhưng nhiều lễ ngoài lịch khác thường có liên hoan kèm theo, theo cách nói của bà con ta: “Có lễ là phải có lạc!”.
Việc tổ chức liên hoan sau lễ cũng hữu ích để tăng thêm niềm vui và có dịp tỏ tình đoàn kết. Nhưng chỉ nên tổ chức vừa phải, không nên lạm dụng gây mất thời gian và tốn kém cho cả bên tổ chức lẫn bên tham dự. Lại nữa, việc vui quá trớn, rồi “bia rượu vào lời ra”, dễ bị phát ngôn không chuẩn mực gây mất trật tự và phật lòng bà con, làm mất ý nghĩa của việc mừng lễ.
Mt Từ Linh