2023
HÌNH ẢNH NGƯỜI LINH MỤC TRONG THỜI ĐẠI HÔM NAY
HÌNH ẢNH NGƯỜI LINH MỤC TRONG THỜI ĐẠI HÔM NAY
“Lạy Chúa, Chúa là vẻ đẹp từ ngàn xưa, một vẻ đẹp mỗi ngày mỗi mới. Ôi Cái Đẹp, con yêu Ngài quá đỗi muộn màng!” – Lời tự thú của Thánh Augustinô đã nói lên tiếng lòng thổn thức từ con tim sâu thẳm của người sau những bước chân lầm lạc và cô đơn giữa dòng đời đến bước chân trở về ăn năn sám hối và hăng say phục vụ Chúa nơi tha nhân. Bước chân ấy vẫn luôn vang vọng, cháy bỏng nỗi khát khao tìm kiếm và gặp Chúa trong thời đại hôm nay đối với mỗi Ki-tô hữu. Cách riêng là bước chân của người linh mục, hiện thân của Chúa Ki-tô, họ sống và làm chứng giữa một thế giới đầy thách đố và cam go.
Linh mục là người được Chúa gọi và chọn giữa muôn người để thánh hiến và trung kiên bước theo Chúa suốt một đời. Linh mục là hình ảnh Chúa đầy lòng thương xót, vị tha, dâng hiến trọn vẹn mạng sống vì Chúa và tha nhân. Linh mục là cánh tay nối dài chuyển phát mọi ơn thiêng cho dân Chúa. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-su “Không một ai trong họ phải hư mất” (x. Ga 17, 1-24) phải là sự thao thức in hằn trong sứ vụ của mỗi linh mục để noi gương Thầy Chí thánh và trở nên như cây chổi của Người quét sạch mọi ngóc ngách, mọi tâm hồn để giúp đoàn chiên Chúa tiến về với Cha trên trời.
Tuy nhiên, trong một xã hội mang trên mình nhiều vết thương tích do chiến tranh gây ra, mụn nhọt của lối sống thờ ơ vô cảm, và nhem nhuốc bởi sự phát triển choáng ngợp của một nền kinh tế thực dụng. Những vấn nạn trên, đang phần nào ăn sâu và bào mòn căn tính của con người và để lại bao hậu quả đau thương. Có những người giết cha, giết mẹ chỉ vì mâu thuẫn đất đai. Các thai nhi vô tội bị tước đoạt mạng sống một cách vô nhân tính. Nhân phẩm những người nghèo khổ bị chà đạp và xúc phạm cách nghiêm trọng.
Đáng buồn hơn, không ít linh mục đang dần lãng quên bổn phận và trách nhiệm của mình mà làm ngơ trước những tiếng kêu than của đoàn chiên đang chờ chủ chiên đến để chia sẻ, đồng cảm và ban bình an trước những rạn nứt đang âm thầm rỉ máu trong đời sống thường ngày cũng như đời sống tâm linh. Hơn lúc nào hết, hình ảnh linh mục phải được khơi dậy và sống lại trong thời đại hôm nay, để luôn là hiện thân của Chúa Kitô đến an ủi, băng bó và chữa lành những vết thương đó bằng sự “hiện diện” của mình.
Quả vậy! Cách đây 2000 năm, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương khi nhìn dân chúng lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt, và chính Chúa đã nói với các môn đệ “anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (x. Mt 9, 35-38). Người đã thương khóc khi nhìn thấy sự vất vưởng của dân Israel xưa, khi họ phải bơ vơ, cô độc và tuyệt vọng vì họ mất niềm tin nơi Chúa, mất đi nhu cầu tâm linh chẳng biết kêu cầu ai khi rơi vào hố sâu của lối sống trần tục hóa làm bào mòn đi căn tính của con người.
Lời mời gọi ấy vẫn luôn là hồi chuông mà Chúa muốn gửi đến mỗi Kitô hữu để cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Bởi con người ngày nay cần một con đường, một lối đi và một niềm hy vọng tâm linh nào đó có thể giúp họ vượt qua mọi thử thách, cám dỗ nơi cuộc sống đời thường. Và đó chính là con đường Giêsu khi Người nói “Ta là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6). Nhờ đời sống cầu nguyện liên lỉ, mỗi chúng ta được đi sâu vào mối tương quan với Chúa Cha, để nhờ Người thánh hóa, biến đổi và sai đi trở thành thợ gặt lúa về cho Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha Fanxico cũng đã nói về sứ vụ của linh mục: “Hãy trở nên những linh mục chứ đừng trở thành những viên chức!” Thật vậy! Linh mục là người của Chúa, thuộc trọn về Chúa và sống hết mình vì Chúa qua sự phục vụ tha nhân. Nhưng hình ảnh linh mục ngày nay đang bị biến dạng khi giáo dân không cảm nhận được Chúa Kitô đang hiện diện và hoạt động nơi các linh mục. Họ chỉ thấy hình ảnh linh mục là những ông vua, vị quan tòa hay những viên chức đang tự thiết lập cho mình một hệ thống điều hành mới.
Trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô đã quả quyết rằng: “Đừng lấy quyền mà thống trị những người mà Thiên Chúa giao phó cho anh em” (1Pr 5, 3). Phải chăng đó là những lời khuyên đầy thao thức và hy vọng của thánh nhân khi người chứng kiến các linh mục có lối sống như vậy, và qua mối tương giao với Chúa được Chúa Thánh Thần linh hướng, đánh động, người đã viết ra như lời nhắc nhở cho mỗi Kitô hữu trong Giáo hội lữ hành.
Là linh mục thì làm ơn đừng như những ông vua chỉ thích phán xét, lên án và chỉ trích, thay vì lắng nghe, thấu hiểu và đồng cảm với giáo dân. Chúa Giê-su đã chạnh lòng thương khi lắng nghe tiếng khóc than của bà Góa thành Naim trước cái chết của cậu con trai (x. Lc 7, 11-17). Cũng vậy, người linh mục cũng phải nhạy bén và chạnh lòng thương đối với khó khăn và vất vả của đoàn chiên, để đi đến và hiện diện với con chiên bằng tình mục tử. Đừng như ông vua chỉ biết ngồi trong ngôi dinh thự của mình được bao phủ bằng những rào thép chắc chắn, tách biệt giáo dân ra bên lề mục vụ của mình, bởi “đã quá giờ làm việc”, hay “trời mưa lớn quá… tôi không thể đến được bây giờ!”
Làm ơn hãy cầu nguyện với Chúa mời Người vào tâm hồn của mình để canh tân lại bản thân, xây dựng một đời sống nội tâm lấy Đức Kitô là khuôn mẫu lý tưởng để noi theo, và “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (Ga15, 9). Là linh mục chúng ta phải đặt Đức Kitô vào tâm điểm của đời sống để là hiện thân của Người chứ không phải để tự đưa ra một quy tắc riêng.
Tuy nhiên linh mục cũng là con người mang trên mình những yếu đuối bởi “Nhân vô thập toàn”. Mỗi giáo dân hãy năng cầu nguyện cho linh mục, bởi vì công tác mục vụ đôi khi quá áp lực làm các đấng nóng nảy, hoặc công việc xây dựng giáo xứ, xây dựng đời sống đạo của giáo dân làm các đấng mệt mỏi. Do đó, hãy nhớ tới các đấng trong lời kinh nguyện, động viên và cộng tác với các đấng trong công việc cũng như đời sống thường ngày. Kitô hữu làm ơn đừng làm hư linh mục bằng những lời tâng bốc thái quá, đừng bái phục và thờ lạy các đấng như một vị thánh, bởi vì linh mục chỉ là đại diện cho Chúa nơi trần gian để chuyển xuống các ơn lành, chứ tự họ thì không có quyền phép gì cả.
Ước mong rằng lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9, 38) luôn chiếu rọi vào tâm hồn mỗi người để chúng ta ý thức được sứ vụ Chúa trao phó cho các mục tử nơi cuộc sống dương gian, và hãy năng cầu nguyện cho các đấng để trở nên thợ gặt lành nghề đem hoa trái đầu mùa dâng lên cho Chúa.
2023
5 Lời khuyên cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc
Victor và Stella Domínguez, đại biểu của Paraguay tham dự Đại hội Gia đình Thế giới lần thứ X tại Rome (23-26 tháng 6 năm 2022) |
Tác giả: Ary Waldir Ramos Diaz – Nguồn: Aleteia (28/7/2022)
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2023
Ánh sáng Chúa Kitô soi chiếu mọi dân tộc
Ánh sáng Chúa Kitô soi chiếu mọi dân tộc
Theo Thánh Mátthêu, trong khi rao giảng Nước trời, Chúa Giêsu khẳng định khuôn phép cũ của Cựu ước luôn có hiệu lực: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5, 17), hay chính xác hơn, giao ước xưa kia của Thiên Chúa chủ yếu hướng về Israel, dân riêng của Ngài.
Một điểm nhấn mạnh chính trong Tin mừng Mátthêu là Chúa Giêsu, là Đấng Mêsia mà Cựu ước tiên báo. Theo quan điểm Kitô giáo của Mátthêu, lời dạy của Chúa Giêsu mang đến cho Sách Ngũ Kinh Torah của Do thái giáo sự trọn vẹn, ý nghĩa và tầm quan trọng đầy đủ của nó, đến từng chấm từng phẩy: “Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (Mt 5, 18-19). Trong suốt sách Tin mừng của mình, Mátthêu thường hay viết “ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ” (1: 22), “vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng” (2: 5), “để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ” (2: 15), “Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ” (2: 17), “để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng” (2: 23), “chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới” (3:3), “Vì đã có lời chép rằng” (4: 10),v.v… Nơi Mátthêu 2:1-12 mà chúng ta đang đọc, nhà tiên tri được trích dẫn là Mikha: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (Mikha 5: 1). Cách viết này là để chứng minh những điều được tiên báo trong Sách thánh Do Thái (Cựu Ước) đang được thực hiện nơi Chúa Giêsu.
Nhưng khi Chúa Giêsu đã chịu chết và phục sinh, ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban phát cho mọi người, chính vì thế Tin Mừng Mátthêu kết luận với lệnh truyền vang dội cho cộng đoàn sau Phục Sinh là hãy đi giảng dạy muôn dân: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28, 19). Vì vậy, theo thánh Mátthêu, việc rao truyền Tin mừng của Hội Thánh cho Dân Ngoại không phải là chuyện tình cờ của lịch sử mà là một hành vi thực hiện ý định của Thiên Chúa thích hợp cho thời đại Cánh chung, khi mà Ơn Cứu Độ được coi là tất yếu mở ra cho mọi dân tộc. Thực ra, ngay khi còn tại thế, Chúa Giêsu đã nhiều lần nói đến và thực hiện điều này, như trong Mátthêu chương 15 câu 21-28: “Ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn, thì này có một người đàn bà Canaan,ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm! ” Nhưng Ngài không đáp lại một lời. Ngài đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.” Bà ấy đến bái lạy mà thưa Ngài rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi! ” Ngài đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Chúa Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.” Mặc dù, Chúa Giêsu thực hiện sứ mạng của mình chủ yếu nơi dân Do Thái, theo như lời Kinh thánh. Tuy nhiên, Ngài không từ chối thực thi tình yêu của Ngài đối với dân ngoại, nhất là khi họ tin tưởng vào Ngài. Chúa Giêsu đã đến với nhiều người dân ngoại như ông đại đội trưởng ngoại giáo trong Mátthêu chương 8 cậu 5-13: “Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời.” Trong chương 24 câu 14 thánh Mátthêu cho thấy Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng: “Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng.”
Do đó, Tin mừng Mátthêu đặc biệt ý thức về bản chất phổ quát, “công giáo” của Kitô giáo. Cuộc đời, lời rao giảng cùng các việc làm của Chúa Giêsu đã thực hiện không còn bị giới hạn trong các cộng đồng người Do Thái. Trong đoạn 2: 1-12 này, được chọn cho ngày lễ Hiển linh hôm nay, thánh Mátthêu nhấn mạnh rằng sự ra đời của Chúa Giêsu, Đấng Mêsia, có ý nghĩa vượt ra ngoài vị trí địa lý của “Bêlem, miền Giuđê”, của văn hóa “dân Do thái”, của tôn giáo tại “Giêrusalem”, và bối cảnh chính trị “Vua Hêrôđê trị vì” (Mt 2:1-3).
Ngay sau gia phả của Chúa Giêsu (Mt 1:1-17), nhằm nhấn mạnh nguồn gốc Do Thái và bằng chứng Chúa Giêsu thuộc dòng dõi vua Đavít, là Đấng Mêsia, thánh Mátthêu lại kể về chuyến viếng thăm của các nhà chiêm tinh, có thể đến từ Ả Rập hoặc Mesopotamia – phía đông Giuđêa – hoặc thậm chí xa hơn. Được coi là “những nhà thông thái dân ngoại”, vì họ biết những bí ẩn của tự nhiên, nhưng việc Mátthêu kể về họ: “Chúng tôi đã thấy vì sao của Ngài xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Ngài” (Mt 2:1-12) đối trọng với ý hướng tập trung vào dân Israel. Thánh Mátthêu cho thấy sự ra đời và sứ mạng của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa phổ quát, vượt ra khỏi phạm vi Do thái giáo.
Tâm điểm của ngày Lễ Hiển Linh trong Giáo hội Công giáo, vốn được cử hành vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau ngày đầu năm, theo lịch phụng vụ Công giáo Rôma và một số Giáo hội Kitô giáo khác, là thuật ngữ “epiphany – hiển linh” dùng để chỉ sự tỏ hiện của thần linh, được sử dụng trong cả bối cảnh Kitô giáo và các tôn giáo khác.
Để tạo nên trình thuật hấp dẫn này về các vị Hiền sĩ đến từ Phương đông, nơi mặt trời tỏ rạng báo hiệu một ngày mới, thánh Mátthêu đã sử dụng cách diễn tả đầy chất thơ: “Chúng tôi đã thấy vì sao của Ngài xuất hiện bên phương Đông” (Mt 2: 2) như chất thơ của ngôn sứ Isaia mà chúng ta đọc trong Bài Đọc Thứ Nhất:
“Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.
Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi Chúa như bình minh chiếu toả,
vinh quang Ngài xuất hiện trên ngươi”
(Isaia 60: 1-3)
và trong Thánh Vịnh 72, dùng làm Đáp Ca:
“Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn…
Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tácsít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả rập, Xơ va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự”
(Tv 72: 1-2; 9-1).
Các vị Hiền sĩ từ phương Đông, đại diện cho các dân nước trên thế giới, đã nhận thấy nơi Chúa Giêsu câu trả lời cho việc tìm kiếm và thực hiện ước mong của họ. Các vị Hiền sĩ – vốn là những người khôn ngoan thuộc dân ngoại phương xa – nhận ra dấu hiệu trên trời cao báo hiệu một điều quan trọng, một cơ hội chỉ có một lần trong đời đáng để đầu tư thời gian và sức lực để nắm bắt. Đây không phải là lần duy nhất Mátthêu nói với chúng ta một điều như thế này, ngài nói ở một chỗ khác: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13:44-46). Các vị Hiền sĩ thừa nhận Đấng Mêsia là vua, đáng để họ tôn kính và tự hiến, và họ vui mừng khôn xiết khi tìm thấy Ngài: “Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Ngài. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2: 10-11).
Chúng ta thời nay, những người tin theo Chúa Giêsu Kitô, cũng cần trở nên những người khôn ngoan lên đường tìm kiếm Đấng có thể đem lại câu trả lời cho khát vọng sâu xa của mỗi chúng ta: ý nghĩa của cuộc sống đời này và niềm hy vọng đạt được sự sống hạnh phúc đích thật đời sau. Chỉ sau khi như các nhà chiêm tinh: “Trông thấy … mừng rỡ vô cùng….sấp mình thờ lạy… dâng tiến” (Mt 2: 10-11), đến lượt mình, chúng ta mới có thể trở nên ánh sao “dẫn đường đến tận nơi Hài Nhi ở” (Mt 2: 9) cho tất cả những ai khác, bất kể sắc tộc, mầu da, ngôn ngữ. Những gặp gỡ như thế phải là mẫu mực làm phong phú thêm sự đại diện của nhiều dân tộc từ nhiều nền văn hóa đa dạng trong Thành đô của Thiên Chúa: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi” (Isaia 60: 3-4).
Vào ngày Lễ Hiển Linh này, Giáo hội muốn nói với con cái mình và mọi người rằng Ánh Sao Sáng Cứu độ, là Chúa Giêsu Kitô, chiếu soi tất cả mọi con người, mọi dân nước, là sự mặc khải của chính Thiên Chúa dưới hình dạng con người – một sự mặc khải dành cho toàn thế giới.
Các nhà thông thái đến với Chúa Giêsu Hài đồng và dâng cho Ngài những món quà của họ, chúng ta cũng đến với Ngài. Có lẽ không khó để dâng cho Ngài “vàng bạc” của chúng ta – những gì chúng ta biết là có giá trị trong chính chúng ta. Nhưng chúng ta cũng đừng quên dâng lên Ngài “một dược” của chúng ta – là những bóng tối tội lỗi trong thân phận sa ngã của con người chúng ta để: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Chúa Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6: 8) và đừng để chúng ngăn cản chúng ta đến với Ánh Sáng. Chúa Kitô đón nhận thói hư tật xấu của chúng ta cũng như đón nhận những tính tốt của chúng ta. Cuối cùng chúng ta dâng lên Ngài “nhũ hương” là những lời cầu nguyện với tất cả con người của chúng ta. Chúa Hài đồng chào đón các vị Hiền sĩ và chấp nhận những món quà của họ, Ngài cũng chào đón và ôm lấy chúng ta với tất cả những gì chúng ta yêu mến và tất cả những gì tốt đẹp trong thuần phong mỹ tục của cộng đồng xã hội chúng ta.
Việc các nhà thông thái: “đã đi lối khác mà về xứ mình” (Mt 2: 12) cũng là điều đáng suy nghĩ. Ngoài việc họ muốn tránh khỏi Hêrôđê, “đi lối khác mà về” còn có nghĩa thay đổi hướng đi, thay đổi những suy nghĩ và cung cách sống, định hướng lại lẽ sống. Cuộc gặp gỡ với Chúa Hài đồng, Đấng Mêsia, có tạo ra điều gì khác biệt trong cuộc sống của tôi không?
Phêrô Phạm Văn Trung
2023
Linh mục, những tôi tớ loan báo Tin Mừng của Chúa
Linh mục, những tôi tớ loan báo Tin Mừng của Chúa
BÀI GIẢNG CỦA ĐỨC CHA PHÊRÔ TRẦN ĐÌNH TỨ TẠI NHÀ NGUYỆN RIÊNG DỊP CÁC LINH MỤC: PHAOLÔ TRẦN THANH DANH; MICAE NGUYỄN VĂN GIANG; GB NGUYỄN MINH HÙNG; ĐAMINH-TRẠCH CAO XUÂN KHẢI; GB TRẦN ĐÌNH PHÙNG THUỘC GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG KỶ NIỆM 20 NĂM HỒNG ÂN LINH MỤC NGÀY 22.12.2020 (cách đây hai năm).
Nhân dịp Đức Cha Phêrô tròn 24 năm Giám mục (1999 – 6.1 – 2022), người viết xin ghi lại bài giảng của Đức Cha, trước là xin kính dâng Đức Cha như món quà tinh thần, sau là muốn tỏ lòng biết ơn Đức Cha và muốn tự nhắc nhở mình về lời dạy quý báu mà Đức Cha dành cho.
Ân huệ mà chúng ta nhận được là do lòng quảng đại của Thiên Chúa. Chúng ta cảm thấy cần phải bày tỏ lòng biết ơn Ngài và vui mừng, hết lòng tạ ơn Chúa đã ban cho tất cả những ân huệ ấy.
Tạ ơn Chúa, vì đó là bản lĩnh của đời sống tôn giáo, là nền tảng của lòng biết ơn nơi con người.
Chúng ta cảm thấy được đánh động và vui thỏa khi khám phá ra những nền tảng mầu nhiệm từ nơi Thiên Chúa, đặc biệt là sự tốt lành của Thiên Chúa luôn luôn dành cho chúng ta. Nên chúng ta cảm tạ Người.
Nhưng tất cả những điều cao quý ấy, Chúa không chỉ cho chúng ta mà thôi, mà còn cho cả nhân loại.
Và trong những hồng ân Chúa ban cho nhân loại, thiên chức linh mục là đặc ân cao quý nhất.
Để tỏ lòng yêu thương nhân loại, Chúa chuộc tội, Chúa yêu cho tới cùng, yêu mãi mãi. Trong bữa tiệc Ly, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền chức Thánh. Hai bí tích này gắn liền với nhau, gắn liền với con người linh mục để phục vụ ơn phần rỗi của toàn nhân loại.
Để có Thánh Thể, phải có người làm ra Thánh Thể. Chỉ có linh mục mới có thể làm ra Thánh Thể. Chúa Giêsu, linh mục duy nhất và đời đời của Thiên Chúa Cha. Chỉ mình Người mới có thể dâng lên của lễ đẹp lòng Chúa Cha và có giá trị đền tội nhân loại.
Chính Người có sáng kiến làm ra bí tích Thánh Thể biểu thị và báo trước hy lễ Người sẽ hiến tế trên đồi Canvê. Đồng thời, truyền cho các tông đồ làm lại để tưởng niệm công cuộc cứu chuộc Người đã thực hiện qua cái chết trên thập giá và sẽ phục sinh vinh hiển
Chính khi ra lệnh cho các tông đồ làm lại các nghi thức Người đã làm trước khi thiết lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu ban cho các tông đồ quyền hành động nhân danh Người và với tư cách của Người.
Với quyền này, các linh mục có thể làm ra Thánh Thể, có thể tái diễn hy lễ thánh giá, có thể tha tội, có thể chuyển tải công phúc Người đã lập cho muôn người qua mọi thời đại và cho cả thế giới.
Chúng ta không biết lấy gì mà tạ ơn Thiên Chúa. Chắc chắn đây là những tư tưởng nổi bật của các cha trong ngày kỷ niệm thụ phong.
Tuy nhiên, đây không chỉ là tâm tình riêng của các cha mà thôi, nhưng là tâm tình của tất cả mọi người. Vì ơn linh mục là ơn mà Chúa ban không chỉ cho linh mục mà là để phục vụ và mang ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người.
Vì Thế, linh mục là người đã được tuyển chọn giữa muôn người, làm những công việc liên hệ tới Thiên Chúa, hầu mưu cầu lợi ích thiêng liêng không phải chỉ cho riêng linh mục nhưng là cho tất cả mọi người.
Vì thế, không ai làm linh mục cho chính mình, nhưng làm linh mục cho mọi người và vì mọi người. Hiểu được điều này nên mọi linh mục phải thuộc nằm lòng điều mà thánh Phaolô đã nêu lên với giáo dân Côrintô: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi”.
Người muốn nói rằng, Chúa Kitô đã chết thay cho chúng ta, chết để đền tội thay cho loài người. Vì thế, từ nay không ai có quyền sống cho riêng mình nữa mà phải sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình.
Đó chính là điều cốt lõi của tình yêu. Tình yêu đáp trả bằng tình yêu. Chúa yêu chúng ta, Chúa đòi chúng ta phải đáp lại tình yêu của Chúa. Tình yêu đơn phương là tình yêu đi vào ngỏ cụt. Đối với mọi người đã vậy. Đối với các linh mục, nghĩ vụ này còn cần thiết hơn nữa. Vì các ngài đã hứa nhận Chúa Kitô làm gia nghiệp đời mình để tiếp tục sứ vụ của Người, xả thân mang ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người.
Chắc chắn mọi linh mục phải luôn luôn nhớ đoạn Tin Mừng thánh Gioan thuật lại biến cố tại biển hồ Tibêria với mẻ cá lạ lùng sau khi vất vả thả lưới mà không bắt được con cá nào. Hình như Chúa muốn nhắc lại cho các tông đồ hiến lễ Người đã thiết lập chiều thứ năm, trước khi Người dâng mình chịu chết trên thánh giá.
Sau mẻ cá lạ lùng ấy, Chúa đã dọn sẵn bánh, cá và rượu, rồi nói với các ông: “Các con hãy đến mà ăn”. Rồi người cầm lấy bánh và cá trao cho các tông đồ. Khi các ông dùng xong, Người hỏi thánh Phêrô ba lần: “Phêrô con có yêu mến Thầy không?”. Người buộc Phêrô phải trả lời ba lần: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy”. Sau mỗi lần nói lên lòng yêu mến của mình, thánh Phêrô được Chúa trao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người.
Sự kiện này muốn nói các linh mục là môn đệ Chúa Kitô. Không những các ngài phải sống cho Chúa mà còn phải sống cho đoàn chiên mà Chúa trao phó cho các ngài.
Vì yêu thương chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Chúa Giêsu đã tự dâng hiến bản thân chịu chết cho chúng ta. Trước tình yêu cao cả ấy, chúng ta cảm thấy được thúc bách phải đáp lại, từ nay chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Mà sống cho Thiên Chúa cũng là sống cho mọi người như thánh Gioan đã quả quyết: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà không thương yêu anh em, đó là kẻ nói dối”.
Bởi vậy, các linh mục phải dâng hiến đời mình để sống cho Chúa và cho mọi người. Các ngài phải hiến dâng những gì thuộc về mình, hiến dâng cả tài năng, sức khỏe, thời giờ, của cải… để tỏ lòng yêu mến Chúa, đưa mọi người về với Chúa Kitô, để tất cả được nhận lãnh ơn cứu chuộc mà Chúa đã dành cho chúng ta.
Vì thế, quy tụ lại đây, chúng ta cầu xin Chúa cho chúng ta, khi mừng lễ kỷ niệm thụ phong linh mục, biết trung thành giữ vững và thực hành điều đã hứa với Chúa là quyết tâm theo Chúa trong ngày gia nhập hàng giáo sĩ, để mãi mãi trung thành với tình yêu của Chúa nhằm xả thân phục vụ mọi người.
Với tất cả hồng ân Chúa trao cho chúng ta, từ khả năng, thân xác, linh hồn, các tài năng, vật chất và tinh thần…, chúng ta phải làm lợi cho danh Chúa, cho phần rỗi của mình và anh chị em mà mình được mời gọi phục vụ.
Nên nhớ rằng, Chúa ban cho ai phương diện nào, thì Ngài cũng muốn người đó phải chia sẻ phương diện đó. Nói khác đi, chúng ta không sở hữu những gì chúng ta có, nhưng chỉ là những quản lý. Chỉ có Chúa mới thực sự là sở hữu, mọi thứ đều quy về Người.
Và nếu là quản lý, chúng ta có nhiệm vụ làm theo ý chủ. Mà ý của Chúa là ta phải biết sử dụng những gì Chúa ban cho, trước hết phụng sự Chúa, sau đó là phục vụ anh chị em đồng loại.
Vì thế, hôm nay kỷ niệm thụ phong linh mục, chúng ta hãy nhớ đến những ơn Chúa ban, như làn gió mà chúng ta lãnh nhận, không phải cho riêng cá nhân chúng ta, nhưng để phục vụ mọi người. Bởi vì chúng ta là những người được Chúa sai đi.
Mà sai đi là để rao giảng Tin Mừng, hay nói bằng khiểu nói khác, đó là loan báo Tin Mừng, loan báo tình thương của Chúa. Việc rao giảng là việc rất cấp bách. Vì Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người.
Trên thế giới hiện nay, số người Công giáo mới chỉ khoảng một phần của nhân loại. Mà chương trình của Chúa là chúng ta phải loan báo Tin Mừng để tất cả mọi người được cứu độ. Vậy mà chúng ta vẫn chưa làm được, chưa loan báo cho đầy đủ. Vì thế, còn phải cố gắng hơn, nỗ lực hơn.
Bởi tất cả những người chưa biết Tin Mừng là chưa biết được một tin rất vui. Đó là tin được tham dự vào sự sống đời đời, được Thiên Chúa tuyển chọn, được Thiên Chúa chia sẻ chính sự sống của Người.
Vì thế, xin cho chúng ta luôn luôn sẵn sàng xả thân phục vụ ra đi rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi người, nhằm mang ơn cứu độ đến cho nhân loại. Từ đó, chúng ta xứng đáng là những tôi tớ linh mục của Chúa, xứng đáng đạt được điều mà Chúa hứa: “Hỡi những tôi tớ trung tín và khôn ngoan, hãy đến mà hưởng niềm vui của Chủ ngươi”.
Bài giảng của ĐỨC GIÁM MỤC PHÊRÔ TRẦN ĐÌNH TỨ
Nguyên Giám mục giáo phận Phú Cường
(Lm JB Nguyễn Minh Hùng ghi chép chép và đề tựa)