2022
Mừng Chúa Giáng Sinh đọc “Như Tây ký” của Bồi sứ Ngụy Khắc Đản
Mừng Chúa Giáng Sinh đọc “Như Tây ký” của Bồi sứ Ngụy Khắc Đản
Cụ Ngụy Khắc Đản( 1817- 1873) người xã Xuân Viên, huyện Nghi Xuân, tĩnh Hà Tĩnh. Thi đỗ cử nhân khoa Tân Sửu (1841) và đỗ Thám hoa khoa Bính Dần (1856). Sau đó được bổ làm Tri phủ phủ Thăng Bình (Quảng Nam), rồi thăng Án sát tỉnh Quảng Nam. Trong thời gian làm Án sát Quảng Nam, cụ nhận thấy việc dùng uy vũ bắt ép những giáo dân theo đạo Da tô bỏ đạo không có kết quả.
Đối với những giáo dân trung kiên cho dù dùng hình phạt gì đi nữa họ vẫn không sờn lòng: “Liều mình trấn nước cớ chi/Gông cùm lòi tói đeo trì cũng mang”. Nên cụ Ngụy Khắc Đản đã làm bài “Hoán mê khúc” kêu những người theo đạo Da tô: “Tin chi Tây giáo truyền qua/Can vào quốc pháp, can ra tội người”. Trong bài Hoán mê khúc, cụ Ngụy Khắc Đản dẫn chứng một số chuyện mà theo cụ cho là hoang đường trong đạo Da tô: “Ai nấy thử nghe lời giải thích/Đạo Tây kia đích đáng vào đâu?/Phép truyền ba sự nhiệm mầu/Nghĩ ra nào có thông đầu suốt đuôi?/Một rằng: Thiên Chúa Ba Ngôi/Trời sao mà lại một Trời chia ba?/Hai rằng: sự tích Đức Bà/Đồng trinh mà đẻ ấy là có mô?/Ba rằng: sự Chúa Da tô/Tội mình chưa khỏi mà mua tội người!/Điều chi điều chẳng nực cười/Thế mà thiên hạ dưới đời cũng tin”.
Xem ra cụ Ngụy Khắc Đản có tư tưởng tiến bộ hơn các quan lại cùng thời. Những quan lại bất tài chỉ biết khuyên giáo dân theo đạo Da tô bỏ đạo bằng cái thứ lý luận của bọn vũ phu thất học: “Đứa nào cứng cổ cượng co/Dây roi có đó, nọc vồ có đây”. Cụ Ngụy Khắc Đản đã dùng lý luận đạo đức, văn hóa để khuyên nhủ giáo dân theo đạo Da tô mau tỉnh ngộ lại. Bởi cụ Ngụy Khắc Đản hiểu rõ: uy vũ không thắng nỗi đạo giáo bao giờ! Đó là lý do thúc đẩy cụ Ngụy Khắc Đản sáng tác bài “Hoán mê khúc”[1].
Tháng 5 năm Quý Hợi (1863) “Sai Hiệp biện Đại học sĩ là Phan Thanh Giản, Lại bộ Tả Tham tri Phạm Phú Thứ, Án sát Quảng Nam là Ngụy Khắc Đản đi sang sứ Tây dương (Thanh Giản sung làm Chánh sứ,Phú Thứ sung làm Phó sứ, Khắc Đản sung làm Bồi sứ)”[2] để thương lượng chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường). Phái đoàn đi sứ sang Pháp và Y pha nho đến tháng 2 năm Giáp Tý (1864) thì về đến Huế: “Sứ bộ sang Tây về tới Kinh, vua cho Phan Thanh Giản lãnh Thượng thư bộ Lại, Phạm Phú Thứ làm Tả Tham tri bộ Lại, Ngụy Khắc Đản lấy hàm Quang lộc tự khanh Biện lý bộ Binh”[3]. Trong chuyến hành trình đi sứ sang Tây, cụ Phạm Phú Thứ thuật lại trong “Tây hành nhật ký”. Riêng cụ Bồi sứ Ngụy Khắc Đản cũng viết về chuyến đi trong tập “Như Tây ký”[4]. Như Tây ký của cụ tường thuật những điều mắt thấy tai nghe về tôn giáo, văn hóa, chính trị, quân sự, thương nghiệp, y tế, âm nhạc…của nước Pháp và các vùng lân cận.
Riêng lãnh vực tôn giáo, cụ Bồi sứ Ngụy Khắc Đản viết về Do Thái giáo, Da tô giáo (Công giáo), Tin lành, Hồi giáo. Cụ Bồi sứ Ngụy Khắc Đản sau khi nghe kể về cuộc đời của Chúa Giêsu, cụ thuật lại trong Như Tây ký (trong sách xuất bản chỉ có nguyên văn chữ Hán và bản dịch không có bản phiên âm): “Da tô[5] tắc Xu diêu quốc[6] nhân dã. Xu diêu nguyên tại hải trung đông ngạn, kim thuộc Tu du ki quốc[7], nhi kỳ di tán xứ Tây phương chư quốc” (Da tô [Jésus] là người nước Xu [Judea]. Xu diêu [Judea] nằm ở bờ đông của biển, nay thuộc nước Tu du ky [Turquie/ Thổ Nhĩ Kỳ]. Dân xứ này sống tản mác trong các nước phương Tây”[8]
Viết về Đức Maria: “Da tô chi mẫu Ma di a giả, Biết lê hem hương nhân[9]. Sơ dĩ xử nữ thỉ nguyện vi đồng trinh, mộng thần nhân cáo chi viết: Cứu Thế Chúa đang thác kỳ hoài dĩ sinh, nãi hữu thần (thử ngữ Anh cát lợi nhân bất chi tín). Hương trung hữu mộc tượng nhân, danh Du de lão nhi bần, diệc mộng thần nhân cáo chi viết: Cứu Thế Chúa đang thác Ma di a dĩ sinh, nghi hộ dưỡng chi. Ký nhi Da tô sinh ư kỳ hương chi lư cứu trung. Cái vị giai Da tô tự trạch kỳ tân khổ xứ dã” (Mẹ của Da tô[Jésus] là Ma di a [Maria] người làng Biết lê hem [Bethlehem]. Thuở ban đầu giữ phận xử nữ phát nguyện làm đồng trinh, trong mộng được thần nhân cho hay rằng: vị Chúa Cứu Thế đang thác trong bào thai để chào đời, thế là bà có thai (câu chuyện này người Anh cát lợi nay không cho là đáng tin[10]). Trong làng có người thợ mộc tên là Du de [Giuse/Joseph], già lại nghèo, cũng được thần báo mộng rằng: Chúa Cứu Thế đương thác sinh bởi Ma di a[ Maria], hãy nên che chở nuôi dưỡng đứa bé ấy. Đến khi Da tô [Jésus] được sinh ra trong chuồng lừa ở trong làng, thiên hạ đều bảo Da tô [Jésus] tự chọn nơi gian khó).
Đặt tên cho hài nhi: “Thời Du de tựu dĩ mộng cáo Ma di a, huề Da tô giai quy, nhi danh chi viết: Du nhi Cơ di si tô (Du nhi vị Cứu Thế dã, Cơ di si tô vị tằng thụ pháp du dã danh chi viết: Da tô viết Cơ đốc giai kỳ cận âm dã” (Thuở ấy Du de[Giuse] đem lời mộng triệu ấy kể cho Ma di a[Maria] biết, rồi mang Da tô[ Jésus] về cùng chăm nuôi, đặt tên là Du nhi Cơ di si tô [Jésus Christus/ Giêsu Kitô] (Du nhi [Jésus] là vị Cứu Thế; Cơ di si tô[Christus/Kitô] đã từng chịu phép xức dầu. Các tên gọi Da tô, Cơ Đốc đều gần âm này[11]).
Ba vị đạo sĩ đến chiêm bái hài nhi Giêsu: “ Ư thị dạ hữu dị tinh, hiện Xu diêu chi đông, hữu Phê dơ xe quốc giả, kỳ nhân tinh ư chiêm hậu chi thuật, nhi bất năng đoán. Thời hữu tù trưởng tam nhân phương kỳ nghị chi, hữu thần nhân ngữ chi viết: Cứu Thế Chúa ư sanh hỹ? Thị dĩ thử tinh báo ứng, nghi cầu nhi sự chi, ư thị tam nhân, cụ hương hoa thứ phẩm, hướng tinh dĩ hành, tinh diệc tùy chi. Nhược đạo dẫn nhiên, cập chí Da tô xứ, nhi dị tinh hốt ẩn. tam nhân giả kiến Da tô dĩ quy. Quá Xu diêu tù ngôn kỳ dị. Xu diêu tù nghi chi. Nhiên bất tri kỳ nhân. Lệnh Xu diêu dân, phàm ư thị thời sơ sanh trưởng nam vô đắc cử giả”(Đêm hôm ấy có sao lạ hiện ở phía đông xứ Xu diêu [Judea]. Có người nước Phê dơ xe [Perse, Ba Tư, tức Iran] tinh thông thuật chiêm tinh nhưng cũng không đoán được. Khi ấy ba vị tộc trưởng[12] đang cùng nghị luận thì có thần nhân nói rằng: Chúa Cứu Thế đã chào đời, vậy vì sao này là báo ứng, hãy nên cầu [kiến] mà phụng sự Chúa. Thế là ba vị tộc trưởng soạn đầy đủ lễ nghi vật phẩm, theo hướng vì sao mà đi theo. Vì sao cũng thuận theo tựa như dẫn lối, cho đến nơi ở của Da tô [Jésus] thì sao lạ bỗng nhiên ẩn đi. Ba vị tộc trưởng gặp được Da tô [Jésus] rồi mới trở về, qua xứ Xu diêu[Judea] gặp tộc trưởng thuật lại sự kỳ lạ[13]. Tộc trưởng Xu diêu [Judea] ngờ vực nhưng không biết người, bèn lệnh cho dân Xu diêu [Judea], hết thảy trẻ sơ sinh nào vào thời điểm ấy khi trưởng thành đều không được tiến cử[14])
Gia đình Thánh gia trốn sang nước Ai Cập: “Thần hựu dĩ cáo Du de noa chi dĩ đào, vãng cư ư Ê dịch quốc[15] (kim Kê thành ngoại đích sổ lý hứa sở hữu cổ thụ vân Da tô mẫu tử hành gian sở khế dã. Kim Tây phương giáo nhân đa nhân chi quảng vi ba viên lai quan giả, đa chí kỳ danh dĩ vi vận sự). Thập dư niên phục hồi Xu diêu” (Thần lại báo cho Du de [Giuse] biết mà bế Da tô [Jésus], chạy tới cư ngụ ở nước Ê dịch [Egypte/Ai Cập]( nay ngoài thành Kê [Caire, tức Cairo] khoảng vài dặm có gốc cổ thụ là nơi mẹ con Da tô [Jésus] nghỉ chân. Ngày nay giáo dân phương Tây tới tham quan vườn chuối, ghi lại tên tuổi để làm kỷ niệm đẹp[16]). Mười mấy năm sau trở lại Xu diêu [Judea]).
Trước khi đi sứ sang Tây, cụ Ngụy Khắc Đản đã mang nặng thành kiến không tốt về đạo Da tô: “Âu hẳn bởi mê man Tả đạo/Nghe Tây dương dạy bảo lẽ sai”. Khi sang Tây, cụ đã tiếp cận với lịch sử của đạo Da tô, nên cụ cố gắng thuật lại một cách rõ ràng về đạo Da tô. Do hành trình đi sứ cả đi lẫn về chỉ có 7 tháng và bận rộn với nhiều công việc của sứ bộ và chỉ nghe qua một đôi lần cho nên việc ghi chép của cụ không thể tránh nhầm lẫn, sai sót. Tuy vậy Như Tây ký là văn bản để vua Tự Đức và các quan trong triều đình Huế tiếp cận về đạo Da tô một cách thấu đáo bởi một vị quan trong triều ghi chép lại..
Nguyễn Văn Nghệ
Giáo xứ Cây Vông- Nha Trang
Chú thích:
[1]-Lam Giang& Võ Ngọc Nhã, Đặng Đức Tuấn tinh hoa Công giáo ái quốc Việt Nam, In lần thứ nhất. Tác giả tự xuất bản, 1970, tr.271- 272, 274-275, 278, 280.
[2]-Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 7, Nxb Giáo dục, tr. 812
[3]-Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục tập 7, Nxb Giáo dục, tr. 839
[4]-Như Tây ký là văn bản viết tay, dày 180 trang, khổ sách 29x30cm. Có tất cả 2239 từ (chủ yếu là chữ Hán có xen lẫn đôi chữ Nôm) mang ký hiệu A.764, hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm
[5]-Da tô là âm Hán Việt tên Jésus được phiên âm sang chữ Hán. Lâu nay nhầm lẫn được viết là “Gia tô”.
[6]-Xu diêu quốc: Nước Xu diêu tức là xứ Judea. Sách Kinh Mục lục của Địa phận Qui Nhơn ghi là “nước Giu dêu”. Cụ Ngụy Khắc Đản khi phiên âm các địa danh, nhân danh của phương Tây, không tuân theo một quy tắc nào cả, Chỉ nghe âm đọc lên rồi phiên âm sang chữ Hán Nôm theo ý riêng của cụ.
[7]- Thời điểm cụ Ngụy Khắc Đản đi sứ Tây dương năm 1863-1864, thì vùng Palestine (bao gồm xứ Judea) bị Đế quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ) xâm chiếm
[8]-Ngụy Khắc Đản, Như Tây ký (1863-1864) (Phiên dịch và khảo cứu: Cao Việt Anh), Nxb Đại học Sư phạm (bài viết sử dụng bản dịch của Cao Việt Anh).
[9]- Maria và Giuse không phải người làng Bethlehem, mà là Nazareth. Bethlehem là tổ quán (quê quán của tổ tiên) của Giuse. Giuse đã đem Maria về thành Bethlehem để khai dân số và sinh hạ Đức Giêsu tại Bethlehem.
[10]-Chi tiết này, cụ Ngụy Khắc Đản chú thích sai. Tín điều Đức Maria sinh con mà vẫn còn đồng trinh chỉ có tín hữu Tin lành không công nhận mà thôi. Dân Anh cát lợi theo Anh giáo vẫn tin Đức Maria đồng trinh.
[11]-Du nhi Cơ di si tô: phiên âm tên Jesus Christus. Trước đây người Công giáo Việt Nam đọc “Giêsu Ki ri xi tô”, nay đọc là Giêsu Kitô. Chỗ này cụ Ngụy Khắc Đản không phiên âm Jesus thành Da tô mà lại phiên âm thành “Du nhi”. Thế kỷ XIX người Việt Nam phiên âm tên Jesus bằng nhiều cách. Trong bài Sát Tả bình Tây hịch bằng chữ Hán phiên âm là “Chi thu”: “Chúa Trời, Chi thu chi thuyết, phục uế thính văn” (Tin nhảm, tin xằng, bịa đặt Chúa Trời, Giêsu). Trong bài “Vè đánh đạo” cụ Tú Quỳ(1828- 1926) lại phiên âm là “Du di”: “Bắt Chúa Du di/Nhà phước đá đi/Nhà chung quét sạch”.
[12]-Bản chữ Hán ghi: “Tù trưởng tam nhân”, dịch giả Cao Việt Anh dịch là “ba vị tộc trưởng”. Trước đây người Công giáo Việt Nam gọi là “Ba ông vua” và gọi tắt là Ba Vua. Nay gọi là Ba nhà Đạo sĩ.
[13]- Chi tiết này cụ Ngụy Khắc Đản thuật lại sai. Ba vị “tộc trưởng” ấy gặp vua Herode trước rồi mới đến chiêm bái hài nhi Giêsu(x.Mt 2,1-12).
[14]-Chi tiết này cùng thuật lại sai. Sau khi ba vị “tộc trưởng” đi đường khác mà về, thì vua Herode tức giận giết tất cả trẻ em nam thành Bê lem và vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống “tính theo thời gian ông đã hỏi kỹ nơi các đạo sĩ” (x. Mt 2, 16-18)
[15]-Ê dịch quốc nay gọi là Ai Cập. Người Công Giáo Việt Nam xưa gọi là nước Ê giếp tô.
[16]-Đoạn nói đến vườn chuối không thấy ghi trong Kinh Thánh.
2022
Năm điều Kitô hữu không nên làm vào Giáng sinh
Năm điều Kitô hữu không nên làm vào Giáng sinh
Dĩ nhiên đây là ‘thời gian tuyệt vời nhất trong năm’, nhưng đừng quên ý nghĩa thật sự của nó
Ôi, Giáng sinh! “Thời gian tuyệt vời nhất trong năm”.
Thời gian để xum họp với gia đình và gặp gỡ bạn bè, và với nụ cười trên mặt chúng ta giả vờ không quan tâm ai nhận được món quà tốt nhất và người thân nào của chúng ta thực sự cần nghỉ uống.
Thời gian để treo kim tuyến và đồ trang trí lên cây Noel, và là thời gian để từ bỏ hy vọng đánh mất 10 bảng cuối cùng trong năm nay.
Thật là một mùa tràn ngập niềm vui!
Vấn đề quan trọng ở đây đó là chúng ta hiểu như thế nào về Giáng sinh.
Tuy nhiên, đối với Kitô hữu có một số điều cụ thể chúng ta không thể làm nếu muốn thật sự tôn vinh và đi theo người mà chúng ta nói chúng mừng kỷ niệm trong mùa này.
Do đó tôi xin nêu lên 5 điều mà Kitô hữu không nên làm vào dịp Giáng sinh.
5) Quên những người thiếu ăn
Chúa Giêsu từng nói khi chúng ta cho người đói ăn là chúng ta đang cho ngài ăn.
Có người nào trong chúng ta muốn đoán biết nó có ý nghĩa gì khi chúng ta làm ngơ người đói không?
Thế còn quên những trẻ em đói khổ và gia đình của các em khi chúng ta vứt thịt ăn còn thừa trong đĩa vào ngày Giáng sinh vào thùng rác thì sao?
Có lẽ chúng ta cần thay đổi tên gọi của mùa này thành Gluttonousmas chăng? Rất nhiều quà, rất nhiều thức ăn, nhưng lại thiếu quan tâm đến những người cần giúp đỡ.
4) Quên người vô gia cư
Một trong những sự kiện chính trong lịch sử Kitô hữu kỷ niệm là sự kiện Chúa Giêsu gần như sinh ra trên đường phố Bethlehem.
Khi trình bày câu chuyện Giáng sinh chúng ta nói người chủ quán trọ bảo các ngài dùng máng cỏ nhưng Kinh Thánh không nói như thế. Quán trọ không có phòng, khiến cho Mẹ Maria phải đặt đứa con mới sinh của mình trong một cái máng ăn hôi thối.
Vào đêm đó các ngài không có chỗ nương thân.
Trong suốt đời mình, Chúa Giêsu không có nơi để gối đầu khi đi rao giảng.
Thời gian này trong năm chúng ta kỷ niệm một người vô gia cư.
Hành động của chúng ta, những nơi chúng ta tiêu tiền có thể hiện điều đó không?
3) Làm ngơ thông điệp kêu gọi chống lại thế lực bạo ngược
Đức Maria và Thánh Giuse cùng gia đình đã phải rời khỏi quê hương vì Vua Hêrôđê đã thẳng tay dùng quyền hành loại bỏ những gì ông cho là mối đe dọa đối với quyền lực của mình.
Tôi có thể đảm bảo với các bạn hai điều: Một là trong nhà nơi Chúa Giêsu lớn lên, chuyện kể lý do các ngài phải trốn sang Ai Cập và những cái chết vô nghĩa do nhà cầm quyền gây ra cho các gia đình khác được kể lại không biết bao nhiêu lần. Hai là trong lời giáo huấn Đức Giêsu nhấn mạnh sự lạm quyền và ngài luôn sẵn sàng đương đầu với việc này không phải là ngẫu nhiên.
Giáng sinh là thời gian kêu gọi Kitô hữu tái cam kết chống lại những kẻ lạm quyền.
2) Quên những người không có quà
Nếu anh có hai áo choàng, hãy cho người khác một cái.
Khi loan báo Chúa Giêsu đến, Gioan Tẩy Giả nói cho chúng ta biết Chúa yêu cầu chúng ta điều gì. Áo choàng chỉ là một ví dụ.
Nếu anh có hai món quà Giáng sinh, hãy cho người khác một cái.
1) Nhầm ngày lễ tôn giáo với ngày lễ thế tục
Có thể ngày 25-12 được chọn làm ngày kỷ niệm sinh nhật Chúa Giêsu nhằm tranh đua hay thậm chí kế tục các tín đồ ngoại giáo tổ chức lễ hội mừng thần Saturn, họ trang trí lễ hội bằng cây thường xanh, tặng quà và tổ chức tiệc tùng linh đình.
Tại sao việc làm đó có vẻ quen thuộc như thế?
Tôi đưa ra điều này để nói lên một vấn đề đơn giản.
Nhiều vấn đề về “Cuộc chiến Giáng sinh” của chúng ta sẽ được giải quyết thỏa đáng nếu chúng ta thừa nhận có hai lễ mừng Giáng sinh mỗi năm.
Một lễ mang tính tôn giáo còn một lễ thì không.
Phần lớn bài viết này thực sự chỉ ra những vấn đề xảy ra khi chúng ta kết hợp chúng lại.
Vì thế xin đừng làm như thế nữa.
(UCAN 19.12.2014/ Patheos)
2022
Hoàn thiện nhân cách – Nhận lỗi giúp xây dựng hạnh phúc gia
Hoàn thiện nhân cách – Nhận lỗi giúp xây dựng hạnh phúc gia
HỌC LÀM NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH NHÂN CÁCH – BÀI 74
- LỜI CHÚA :“Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ : “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người : “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”.Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để (Lc 15,17-20).
- CÂU CHUYỆN : KHIÊM TỐN NHẬN LỖI VÀ TRÁNH ĐỔ LỖI THA NHÂN
Có hai anh bạn thân là Long và Tâm ở gần nhà nhau. Một hôm, Long qua thăm nhà Tâm, thấy bầu khí gia đình thật an vui, vợ chồng con cái sống vui tươi chan hoà hạnh phúc liền hỏi bạn : “Sao tôi thấy mọi người nhà anh ai cũng nói chuyện vui vẻ và sống thỏai mái. Còn trong nhà tôi thì bầu khí lúc nào cũng căng thẳng, vợ chồng cứ năm ba bữa lại có chuyện cãi lộn to tiếng với nhau. Anh có phép thuật gì hay xin chỉ cho tôi với”. Anh Tâm trả lời : “Chẳng có phép thuật gì đâu ! Đó là do vợ chồng nhà tôi ai cũng nghĩ mình không hòan hảo, đang khi vợ chồng anh ai cũng cho mình là phải là đúng, nên hay tranh cãi đổ lỗi cho nhau, làm cho bầu khi gia đình luôn căng thẳng như vậy”. Rồi anh giải thích : “Này nhé : Giả dụ một hôm vợ anh khi dọn bữa điểm tâm đã để tách cà phê sát mép bàn, khiến anh vô ý chạm phải rơi xuống đất bể tan. Trước sự cố này anh liền trách vợ : “Tại em để tách cà phê gần mép bàn khiến anh đụng phải ? Sao em lại không để vào giữa bàn ăn ?”. Vợ anh cãi lại : “Từ trước đến nay em vẫn để như vậy mà đâu có sao. Tại hôm nay anh hậu đậu đụng vào nên mới làm nó bị rơi bể chứ. Sao anh lại trách em ?”.
Vì hai vợ chồng anh ai cũng nghĩ mình phải nên không nhận lỗi và luôn đổ lỗi cho ngừơi khác. Nếu là gia đình tôi, khi chẳng may gặp sự cố như vậy, tôi sẽ nói thế này : “Sao hôm nay anh thật tệ vì sáng sớm đã đụng làm bể tách cà phê. Thôi cho anh xin lỗi nghe em”. Khi ấy vợ tôi cũng trả lời : “Thực ra không thể trách anh được. Cũng tại em đã vô ý để tách cà phê gần bên mép bàn nên anh mới chạm phải làm nó bị rơi bể. Lần sau em sẽ rút kinh nghiệm để tách cà phê gần vào phía trong. Cho em xin lỗi”. Vì hai người đều tự nhận lỗi về mình và không đổ lỗi cho nhau, nên bầu khí gia đình lúc nào cũng bình an vui vẻ.
- SUY NIỆM :
1) Hãy khiêm tốn nhận lỗi :
Khi xảy ra đụng chạm tranh cãi, nếu biết khiêm tốn nhận lỗi sẽ giải quyết được nhiều rắc rối. Chỉ cần một lời nhận lỗi là có thể chuyển họa thành phúc. Thế thì tại sao chúng ta lại không nhận lỗi để sớm giải quyết tranh chấp, thay vì để sự căng thẳng ngày một leo thang ? Rào cản khiến chúng ta khó nhận lỗi chính là tự ái cao thể hiện qua thái độ không nhận lỗi mà luôn đổ lỗi cho người khác.
2) Cần tập thói quen nói lời xin lỗi :
a- Tại sao phải tập ? : Bởi vì có nhiều điều nghe thì dễ nhưng lại khó thực hiện, nên phải tập cho thành thói quen tốt. Phải tập “nói lời xin lỗi” để tạo sự thông cảm với nhau, để dẹp bớt tính tự phụ. Khi lỡ làm cho ai buồn phiền thì chúng ta hãy can đảm nói lời xin lỗi : “Xin lỗi anh, tôi đã làm cho anh buồn”. Như vậy, sự nặng nề căng thẳng sẽ biến mất và thay thế bằng bầu khí nhẹ nhàng hòa hợp.
b- Cần nói lời xin lỗi càng sớm càng tốt : Thông thường, bạn nên xin lỗi trực diện “mặt đối mặt”. Tuy nhiên khi cần cũng có thể dùng cách gọi điện thoại, nhắn tin, gởi hoa… Khi nhận được lời xin lỗi chân thành của bạn, người bị tổn thương sẽ cảm thấy cơn buồn giận giảm đi rất nhiều.
c- Chân thành lắng nghe : Bạn đã làm điều lỗi với “đối phương”, nay bạn chịu nhận lỗi và chân thành lắng nghe lời trách móc của họ cũng là phải lẽ. Hãy cứ để “đối phương” nói ra hết những suy nghĩ, bực bội oán hờn và hy vọng sau đó quan hệ hai bên sẽ sớm trở lại như cũ.
d- Dục tốc bất đạt : Thật là khó để bắt “đối phương” tha lỗi cho bạn ngay, vì nó còn tùy thuộc vào việc họ cảm thấy bị thiệt nhiều hay ít. Cần có thời gian để cơn giận nguôi đi thì họ mới dễ dàng bỏ qua lỗi lầm cho bạn. Không nên đòi họ phải tha ngay khi lòng họ chưa sẵn sàng làm điều này.
e- Cần khắc phục hậu quả : Nhận lỗi mà thôi chưa đủ : quan trọng nhất là bạn phải quyết tâm khắc phục hậu quảkhông tốt do mình gây ra. Đây là điều kiện để “đối phương” dễ dàng bỏ qua lỗi lầm cho bạn
- SINH HOẠT :
Bạn sẽ làm gì để tập thành thói quen nói lời “xin lỗi”, nếu chẳng may bạn xúc phạm bằng lời nói hay việc làm khiến tha nhân buồn lòng ?
- LỜI CẦU :
Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp chúng con biết khiêm nhường tự hạ để sẵn sàng mở miệng xin lỗi nhau mỗi khi xảy ra sự cố không hay trong gia đình. Nhờ đó chúng con sẽ có thể luôn sống an vui hoà hợp và chan hoà hạnh phúc.- AMEN.
LM ĐAN VINH – HHTM
2022
Metanoia và lời kêu gọi đổi mới tâm thần
METANOIA VÀ LỜI KÊU GỌI ĐỔI MỚI TÂM THẦN
Đức Hữu
Khi Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời, điều kiện căn bản và duy nhất để đón nhận đó là sám hối. “Sám hối vì nước trời đã gần đến”. Chữ Sám hối trong Kinh Thánh có nghĩa rất là sâu và trọn vẹn. Sám hối không phải chỉ là xưng tội như một sự tẩy rửa định kỳ, cũng không phải là gồng lên để thay đổi nếp sống sai trái của mình. Sâu xa hơn hết đó là thay đổi não trạng, thay đổi tinh thần. Sám hối trong Kinh Thánh là Metanoia. Meta – Lật ngược lại; noia – Tinh thần của mình. Khi để cho Chúa Thánh Thần thay đổi tinh thần, não trạng, cách suy nghĩ quen thuộc của mình, lúc ấy ta mới có thể nhận ra nước trời.
Trong Tin Mừng, chúng ta dễ một sự đảo ngược với lại cách suy nghĩ, đảo ngược lại với giá trị, đảo ngược lại với cách mà chúng ta vẫn hay phán đoán và nhận định. Nếu không tinh ý, chúng ta không thể nhận ra. Con người nhiều khi tưởng điều Chúa dạy cũng giống với cách suy nghĩ bình thường của mình. Chỉ khi nào biết suy nghĩ, cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta mới khám phá ra những điều hay điều phải.
Sứ điệp của Nước Trời trong bầu không khí Mùa Vọng tuần thứ III tiếp tục là lời kêu mời sám hối tỉnh thức vì Chúa đến bất ngờ, không giống với suy nghĩ của chúng ta. Con người thời công nghệ có thể đo đạc, tính toán những biến cố thiên văn một cách tương đối chính xác, nhưng giờ Chúa đến, hẳn là không một phàm nhân nào có thể tiên đoán được. Lời Chúa hôm nay cho thấy Chúa đến không chỉ bất ngờ về phương diện thời gian mà không gian Chúa đến cũng bất ngờ luôn. Chúa đến không phải ở nơi đền đài, không phải ở nơi xa hoa, không phải ở nơi cao trọng, cũng không phải là đền thờ mà là sa mạc đồng khô cỏ cháy, là vùng đất hoang.
Nơi Chúa đến là vậy đó. Việc của những người nghênh đón là làm cho nơi ấy tưng bừng nở hoa và hãy hân hoan nhảy múa reo hò. Vùng đất hoang là nơi mà có lẽ không ai ngờ tới. Nào ai ngờ ơn Cứu độ của Chúa lại được thực thi một cách trọn vẹn tạ nơi mà con người lãng quên. Gioan Tẩy giả là một người mà Đức Giêsu nói “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả”. (Mt 11,11). Đàng khác, Kinh Thánh cũng nói về Gioan: Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta (Ml 3,1). Ấy thế mà con người cao cả và trọng vọng như vậy, con người được Chúa sai đến cũng vẫn phải metanoia, vẫn phải thay đổi não trạng, thay đổi tinh thần, thay đổi cách nghĩ để có thể nhận ra Nước Trời đã đến.
Gioan Tẩy giả rao giảng Đức Giêsu là Đấng Mêsia được sai đến; nhưng cuối cùng ông cũng phải bị nhốt trong tù, và phải chết vì sự nhu nhược của Hêrôđê[1]. Cuộc đời của Gioan là một cuộc đời trái ngang. Ông hết lời rao giảng về một Đấng quyền năng, nhưng rồi cuối cùng, quyền năng chưa thấy mà chính mình đang bị tù tội. Đúng là một sự phi lý với lý trí phàm nhân. Chính vì không thấy được sự oai hùng như mong đợi về một Đấng Mêsia, Gioan phải sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”(Mt 11,3). Gioan vẫn nghĩ Chúa Giêsu phải làm điều gì đó oai hùng, kinh thiên động địa. Tuy nhiên, Đức Giêsu có một câu trả lời hoàn toàn không như họ mong đợi: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta” (Mt 11,4). Kẻ cùi, kẻ mù, kẻ què, kẻ câm điếc đó là sa mạc, là đồng khô cỏ cháy và điều Đức Giêsu muốn đó là hãy làm cho sa mạc nở hoa. Không ai khác, chính Gioan Tẩy Giả cũng phải lật lại cái suy nghĩ của mình để có thể sám hối và đón nhận Nước Trời.
Chúng ta, những người Kitô hữu cũng nhìn lại lối và cách mà chúng ta chờ đợi chúa đến. Tuy nhiên, một cách thẳng thắn để đánh giá vấn đề, có một thói quen xấu ăn sâu vào trong tâm trạng khảm của mỗi người: Đó là thói quen “nhìn ngang”. Điều này nghĩa là chúng ta chỉ biết nhìn anh chị em của mình trong một sự so sánh. Thấy ai hơn mình ta vẫn dễ sinh lòng ghen tương. Thấy ai thua mình, một cách nào đó sâu xa, ta vẫn có một chút thương, nhưng là thương với một tấm lòng thương hại. Chữ thương hại bao hàm trong đó một chút tự hào và quy về bản thân. Câu hỏi mà Gioan kêu môn đệ hỏi Chúa Giêsu hàm chứa một tư tưởng kiểu: “Tôi đã rao giảng rồi, tôi đã chuẩn bị rồi mà không thấy Chúa quyền năng chi hết. Tôi rao giảng về vậy tại sao tôi lại phải ở tù thế này? Tại sao những điều tôi rao giảng lại cảm thấy như không đúng nữa?” Đó là lối quy vào mình để rồi nhìn ngang để so sánh, để hơn thua. Đó là một cám dỗ trong hành trình làm Kitô hữu của chúng ta. Một khi cái tôi vẫn là trung tâm của thế giới, cái tôi là cái rốn của vũ trụ thì “chưa ăn thua”. Là Kitô hữu, ta phải để Metanoia lật lại suy nghĩ của mình, lật lại não trạng của mình để thấy Chúa; thấy cách làm việc của Chúa, thấy tình thương của Chúa. Sống đời nhân chứng không được phép quy về cái tôi mà là quy về Chúa. Nếu ta nhìn những người đau khổ, những người nghèo ta phải nghiệm ra sa mạc đồng khô cỏ cháy, và từ đó Chúa sẽ tưới gội để sa mạc nở hoa qua ước mong sao Chúa thương họ, Chúa cứu họ. Thương người khác không phải một qua một chút thương hạt nhưng thực chất đó là sự tự hào về bản thân. Nhìn ra những điều những người cao cả tốt đẹp để ta biết tạ ơn Chúa về những kỳ công người đã làm nơi tha nhân. Khi ấy, có lẽ chúng ta sẽ nhận ra những gì ta làm đó là của Chúa chứ không phải quy vào ta để rồi có một chữ so sánh điều gì đó đây.
Thái độ nhìn ngang một cách nào đó chính là tính ích kỷ của bản thân. Chính vì thế, con người cần phải metanoia, phải thay đổi não trạng, nhờ thánh thần của Chúa để nhận ra Nước Trời. Nước Trời hôm nay ta khám phá ra chính là nhìn vào những người điếc, người mù, người què, người phong… để nhận ra dấu hiệu Chúa đang ở đó, để nhận ra quyền năng và Tình yêu của Chúa nơi đó. Tình yêu và quyền năng của Chúa không phải là nơi hay cách thức mà chúng ta thường hay nghĩ.
Xin Chúa cho chúng con khám phá ra Chúa đang đến và biết mở lòng biết chờ đợi Chúa đến nơi chúng con.
Nguồn: gpbuichu.org
[1] Để dọn đường cho Chúa Giêsu đến cứu chuộc loài người, Thiên Chúa đã cho bà Ysave son sẻ được sinh con. Người con đó là Gioan Tẩy giả. Lớn lên, ngài vào sống khổ hạnh trong sa mạc: Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn (Mt 3,4).
Năm 29 tuổi, thánh nhân đến sông Giođan, rao giảng kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và lãnh phép rửa sám hối của Ngài, để dọn lòng xứng đáng đón rước Chúa Cứu thế. Nhiều người đã đến lãnh nhận phép rửa thống hối, và xin ngài chỉ dạy cách thế để hoán cải đời sống. Chính Chúa Giêsu khi bắt đầu đi rao giảng Nước Trời, cũng đến nhờ Ngài làm phép rửa, để được Chúa Thánh Thần tấn phong làm Đấng Cứu Thế, và Chúa Cha công khai nhìn nhận là Con Yêu Dấu.
Thời điểm Gioan Tẩy Giả làm phép rửa sám hối bên bờ sông Giođan trùng hợp với lúc Hêrôđê Antipa làm quận vương cai trị xứ Galilêa. Cuộc sống của ông có nhiều lầm lỗi và lầm lỗi lớn nhất mà ai cũng biết đó là ông ngang nhiên lấy vợ của anh làm vợ của mình. Người đàn bà xấu nết đó là bà Hêrôđia. Thấy vậy, Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng công khai cảnh cáo và ngăn cản. Việc đó đã đến tai Hêrôđia làm cho bà hết sức tức giận. Bà đã yêu cầu Hêrôđê bắt giam Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả đã bị bắt giam nhưng bà ta vẫn chưa vừa lòng. Biết Gioan Tẩy Giả là một con người không thể mua chuộc cho nên bà luôn tìm dịp để giết ngài. Và đây là dịp. Chúng ta hãy nghe thánh sử Márcô thuật lại việc làm này của Hêrôđia:
Một ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hêrođê mở tiệc thết đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Galilêa. Con gái bà Hêrôđia vào biểu diễn một điệu vũ làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui thích. Nhà vua nói với cô gái:
– Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con.
Vua lại còn thề:
– Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước, cũng được.
Cô gái đi ra hỏi mẹ
– Con nên xin gì đây?
Mẹ cô nói:
– Đầu Gioan Tẩy giả.
Lập tức cô vội trở vào, đến bên nhà vua và xin rằng:
– Con muôn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gioan Tẩy giả, đặt trên mâm.
Nhà vua buồn lắm, nhưng vì lời thề, và khách dự tiệc, nên chẳng muốn thất hứa với cô. Lập tức vua sai thị vệ đi và truyền mang đầu ông Gioan tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, bưng đầu ông trên một cái mâm, trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ “. (Mc. 6,2128).
Thánh Hiêrônimô còn cho chúng ta biết thêm một chi tiết thú vị này: Sau khi nhận được đầu của Gioan Tẩy Giả, Hêrôđia đã lấy giao cạy miệng thánh nhân ra và đâm một nhát thấu qua cái lưỡi đã dám nói lên những lời xúc phạm đến bà.
Thánh Linh mục Bêđa khả kính đã giải thích ý nghĩa cái chết của ngài như sau:
“Đấng thánh loan báo Chúa sinh ra, rao giảng và chịu chết, đã tỏ cho chúng ta thấy một sức mạnh xứng đáng được Chúa nhìn. Như lời Kinh Thánh chép: “Theo nhãn giới người phàm, thì người đã gặp nhiều đau khổ, nhưng hy vọng của người đã tràn đầy bất tử.”