2023
Đức tin của một nhà vật lý
Tôi nghĩ rằng câu trả lời là có.
Trước hết, một nhà khoa học, hơn các học giả khác, dành thời gian của mình để quan sát tự nhiên. Nhiệm vụ của anh ấy là giúp làm sáng tỏ những mầu nhiệm của tự nhiên. Anh ấy đi đến chỗ ngạc nhiên trước những mầu nhiệm này. Do đó, không khó để một nhà khoa học cảm phục trước sự vĩ đại của Đấng Tạo Hóa. Từ đây chỉ còn một bước nữa là thờ phượng Thiên Chúa.
Đối với tôi, việc quan sát các hiện tượng của tự nhiên luôn luôn hấp dẫn. Nghiên cứu được thực hiện ngoài trời, tiếp xúc trực tiếp với biển cả và đất liền, không khí và bầu trời, đã có một sức hấp dẫn đặc biệt – trên hết là quan sát trên núi cao, hoặc cao hơn nữa là trên khinh khí cầu.
Kể từ khi giáo viên cũ của tôi, Franz Exner ở Vienna, lần đầu tiên khơi dậy mối quan tâm của tôi đối với các hiện tượng về điện của bầu khí quyển, tôi đã dấn thân vào lĩnh vực năng lực phóng xạ. Chính trong quá trình bay lên của khinh khí cầu vào năm 1912, trong khi đo độ dẫn điện của bầu khí quyển, tôi đã phát hiện ra các tia vũ trụ.
Phần lớn nghiên cứu ban đầu của tôi được thực hiện trong một đài quan sát do tôi thiết lập trên đỉnh một ngọn núi thuộc dãy núi Alps của Áo, ở độ cao hơn 2.100m (7.000ft) so với mực nước biển. Thật tuyệt vời khi làm công việc hữu ích này ở một nơi như vậy. Thật dễ dàng để cảm thấy mình thật gần gũi với Thiên Chúa.
Về điểm thứ hai, một nhà khoa học dễ dàng tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Hơn những người khác, anh ta buộc phải nhận ra rằng nhân loại đang trải qua một cuộc khủng hoảng khủng khiếp, một giai đoạn chuyển tiếp nghiêm trọng. Nhà khoa học phải đối mặt với sự lựa chọn giữa tuyệt vọng và đức tin.
Ngày nay, tất cả chúng ta đều kinh hoàng – và đúng như vậy – trước sự hủy diệt hàng loạt có thể xảy ra do việc khám phá ra bom nguyên tử. Không giống như việc sử dụng trong thời chiến, việc sử dụng “sự phân hạch hạt nhân của uranium” trong thời bình vẫn còn rất xa vời. Nỗi kinh hoàng của những vụ giết người hàng loạt dường như là kết quả trực tiếp từ các thành tựu khoa học. Tất cả những gì còn lại phải làm để hủy diệt hoàn toàn nền văn minh dường như là việc phát minh ra những chiếc máy bay không gây tiếng ồn và thực tế là vô hình. Sau đó, chúng ta có thể tiêu diệt – hoặc bị tiêu diệt – mà không có khả năng phòng thủ.
Nếu chúng ta không tuyệt vọng, chúng ta phải tin rằng những khám phá trong lĩnh vực khoa học nguyên tử không thể chỉ mang lại cho chúng ta phương tiện để tự hủy diệt. Chắc chắn phải có một Đấng Quan Phòng đằng sau tất cả những điều này.
Về điểm thứ ba. Tôi phải thú nhận rằng trong tất cả những năm nghiên cứu về vật lý và địa vật lý, tôi chưa bao giờ tìm thấy một trường hợp nào mà khám phá khoa học lại mâu thuẫn với đức tin tôn giáo. Đôi khi người ta nói rằng “điều tất yếu” của “định luật” tự nhiên không tương thích với ý chí tự do của con người và hơn thế nữa với các phép lạ. Vấn đề không phải là như vậy. Ví dụ, khi các nhà khoa học xây dựng cái gọi là “các định luật” vật lý, thì họ hoàn toàn nhận thức được rằng mình không thể đưa ra dự đoán mang tính lịch sử về cách thức hoạt động thực tế của một nguyên tử radium[1], cũng như không thể dự đoán hành vi đạo đức của người này hay người kia.
Nhiều định luật vật lý của chúng ta trên thực tế chỉ là những phát biểu mang tính thống kê. Chúng chiếm trung bình phần lớn trong các trường hợp. Chúng chẳng có ý nghĩa cho một trường hợp riêng lẻ. Các nhà khoa học hiện đại hoàn toàn nhận thức được những hạn chế này trong các mô tả của họ về những bước tiến trong ngành vật lý.
Một nhà khoa học có phải nghi ngờ về tính thực tế của các phép lạ? Là một nhà khoa học. Tôi trả lời dứt khoát rằng: Không. Tôi thấy rằng chẳng có lý do gì để Thiên Chúa toàn năng, Đấng đã tạo dựng nên chúng ta và vạn vật xung quanh chúng ta, không được trì hoãn hoặc thay đổi diễn biến tự nhiên và vừa phải của các sự kiện, nếu Người nhận thấy làm như vậy là khôn ngoan.
Các nhà khoa học chúng ta là những người quan sát đơn thuần về diễn biến tự nhiên và vừa phải này của các sự kiện. Chúng ta góp phần cố gắng tìm ra những “định luật” chi phối thế giới này của chúng ta. Trong cuộc đời của tôi, những khám phá trong lĩnh vực vật lý nối tiếp nhau nhanh đến mức người bình thường khó có thể theo kịp chúng: tia X, năng lực phóng xạ, tia vũ trụ, năng lực phóng xạ nhân tạo, máy gia tốc hạt nguyên tử. Sự phân hạch của uranium đã dẫn đến loại vũ khí khủng khiếp và có sức tàn phá hủy diệt nhất – bom nguyên tử.
Chúng ta có phải thất vọng khi thấy rằng kết quả cuối cùng của rất nhiều nỗ lực không mệt mỏi của các nhà khoa học vĩ đại như vậy chỉ dẫn đến sự hủy diệt hàng loạt?
Không phải vậy. Đúng là trong lịch sử tiến bộ lâu dài của khoa học, nhiều phát minh đã được sử dụng trong chiến tranh. Chẳng hạn, hãy nghĩ đến những cỗ máy chiến tranh do thiên tài Leonardo da Vinci thiết kế. Tuy nhiên, tất cả những tiến bộ này cũng đã phục vụ mục đích hòa bình của nhân loại. Cơ cấu định giờ hoàn thiện thời hiện đại đã được sử dụng trong bom hẹn giờ. Nó cũng có những công dụng khác. Đối với động cơ xăng cũng vậy. Chúng có thể được sử dụng không chỉ trong xe tăng và máy bay ném bom. Tôi chắc chắn rằng sự thôi thúc để tự sinh tồn cuối cùng sẽ thuyết phục tất cả các quốc gia rằng chẳng thể thu lợi được gì bằng cách hủy diệt hàng loạt các quốc gia khác.
Điều này không có nghĩa là các nhà khoa học nên chuyển từ khám phá khoa học sang các vấn đề chính trị của hòa bình thế giới. Nhiều người tin rằng các nhà khoa học có thể trở thành những nhà lãnh đạo quốc gia tốt hơn các chính khách và nhà ngoại giao. Tôi không dự phần vào quan điểm này. Ngày nay, nghiên cứu khoa học chỉ có thể đạt được bởi những người lao động có chuyên môn cao. Những người như vậy có rất ít thời gian để làm quen với các vấn đề kinh tế và chính trị, cũng như họ có rất ít thời gian để làm quen với các vấn đề triết học và thần học. Họ có thể được trang bị tốt hơn về mặt đạo đức so với một chính trị gia bình thường, nhưng rất ít người trong số họ đủ đa năng để không chỉ trở thành nhà khoa học mà còn là chính khách hay triết gia. Theo tôi, một nhà khoa học giỏi không nên can thiệp vào chính trị.
Đối với những vấn đề sâu xa nhất của nhân loại, các nhà khoa học cũng như bao nhiêu người khác vẫn đang mò mẫm trong bóng tối. Tuy nhiên, một nền giáo dục tôn giáo tốt, kết hợp với đào tạo về khoa học, có xu hướng giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn cả về tự nhiên và đời sống con người.
Đối với một nhà khoa học, cũng như đối với bất kỳ ai khác, đức tin chân chính thường là vấn đề phải đấu tranh gay gắt. Chiến thắng phải được giành lấy – hoặc tài năng phải được khai phá – bởi mỗi người trong tâm hồn của chính mình. Thường thì phải cần đến kinh nghiệm cá nhân về mối nguy hiểm chết người trầm trọng để mang lại niềm xác tín và để dọn đường cho đức tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Điều chắc chắn là, khi đức tin đến, thì theo sau đó là sự thanh thản tuyệt vời của tâm hồn và sự bình an sâu xa trong trái tim con người.
Tác giả: Victor F. Hess[2]
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
Nguồn: Society of Catholic Scientists
—————————–
[1] Ở đây và trong đoạn tiếp theo, Hess đang đề cập đến “sự bất định lượng tử”. Theo các nguyên tắc của cơ học lượng tử, các định luật vật lý mang tính xác suất. Ví dụ, các định luật vật lý không xác định khi nào thì một hạt nhân phóng xạ, chẳng hạn như khi nào hạt nhân của nguyên tử radium sẽ phân rã, mà chỉ đưa ra các xác suất để điều đó trở thành hiện thực.
[2] Victor F. Hess (1883-1964) đoạt giải Nobel Vật lý năm 1936 nhờ khám phá ra tia vũ trụ. Bài báo trên đây được Victor F. Hess viết vào năm 1946 như một đóng góp cho loạt bài về “Đức tin của tôi”, xuất hiện trên tờ The American Weekly.
2023
Hãy vui lòng dạy con tình yêu
Hãy vui lòng dạy con tình yêu
(Tình yêu trinh khiết và đời tu)
Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì máu cùng nước chảy ra. (Ga 19,33-34)
“Sự khiết tịnh của những người độc thân trinh khiết, biểu lộ một con tim không chia sẻ dâng hiến cho Thiên Chúa (x.1 Cr 7,32-34), là phản ảnh tình yêu vo biên đang nối kết Ba Ngôi Vị Thần Linh trong chiều sâu mầu nhiệm của đời sống Ba Ngôi; tình yêu mà Ngôi Lời Nhập Thể làm chứng cho đến hy sinh mạng sống mình; …” (ĐSTH 21)
Dẫn nhập: Thánh Tâm: “tình yêu” mang chiều kích “nhân bản”:
Khi nói đến tình yêu, cho dẫu đó là loại tình yêu nào: cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn hữu…, thì cảm nhận đầu tiên vẫn là sự ấm áp, ngọt ngào, dịu vợi…, mà hình như chỉ qua hình ảnh của thiên nhiên mới diễn tả đủ đầy: “Tình cha ấm áp như vầng thái dương. Ngọt ngào như giòng nước tuôn đầu nguồn…” (Bài hát “Tình Cha” của Ngọc Sơn); “Tình Mẹ tha thiết như giòng suối hiền ngọt ngào… Tình Mẹ yêu mến như làn gió đùa mặt hồ… (Bài hát |Lòng mẹ” của Y Vân); “Anh anh đi bao núi, Tình em như khe suối; Lưu luyến và nhớ thương chảy theo anh khắp rừng. Anh anh đi xa càng xa; Tình em như cỏ hoa; Âu yếm và thiết tha theo anh dài nương rẫy…” (Bài hát “Tình em” của Huy Du)…
Riêng các ngôn sứ trong đạo Do Thái, đặc biệt ngôn sứ Hôsê, thì lại diễn tả “tình yêu Thiên Chúa” dành cho dân của Ngài thật thân thương, gần gũi qua những cử chỉ hoàn toàn “nhân bản”: “Ta đã dưỡng nuôi Ephraim, Ta đã bồng chúng trên cánh tay Ta mà chúng không biết Ta chăm sóc chúng. Ta đã dùng dây êm ái và mối yêu thương mà tập (cho) chúng đi; Ta đối xử với chúng như người dưỡng nuôi trẻ thơ, Ta đã ấp yêu chúng vào má. Ta nghiêng mình trên chúng và đút cho chúng ăn. Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi…” (BĐ 1 Lễ Thánh Tâm, Năm B). Cho dù vị ngôn sứ nầy hoàn toàn xác tín rằng: Thiên Chúa là Đấng Thánh và không phải phàm nhân: “Ta là Thiên Chúa chứ không phải người phàm; Ta là Đấng Thánh ở giữa ngươi…”.
Phải chăng, Phụng vụ của Hội Thánh muốn đặt Lễ Thánh Tâm, hay, “Lễ Tình yêu Thiên Chúa qua Đức Kitô” trong “chiều kích nhân bản” đó nên đã đón nhận hình ảnh “Thánh Tâm” trong thị kiến của thánh nữ Magarita làm trọng tâm để quy chiếu. Cũng chính từ ý nghĩa nầy, phụng vụ Thánh Tâm muốn nhắc lại chân lý nền tảng sau đây: “tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta và của chúng ta đáp lại” không phải là tình yêu “huyễn tưởng”, lý thuyết, mơ hồ… hay “đầu môi chót lưỡi”…; mà là một “tình yêu đích thực”, sống động, cụ thể…; bằng tất cả con tim và lẽ sống; bằng cái giá được đánh đổi với cả đau thương và cái chết…
Sau đây, chúng ta có thể lần bước theo những gợi ý của các trích đoạn Lời Chúa trong đại lễ Thánh Tâm, đặc biệt, trích đoạn Tin Mừng Gioan, để phần nào hiểu và cảm nhận những “giá trị của tình yêu đích thực” mà Thiên Chúa dành cho chúng ta; cũng như để chúng ta đáp trả lại tình yêu của Ngài.
I. TỪ “VẾT SẸO” CỦA TÌNH YÊU CỨU CHUỘC
1. Thiên Chúa đã yêu như thế:
Trong Phụng vụ lễ Thánh Tâm chu kỳ Năm B, khi Hội Thánh chọn đọc trích đoạn Tin Mừng Thánh Gioan: kể lại sự kiện đau buồn của buổi chiều thứ sáu khổ nạn trên đồi Sọ: “một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người Tức thì máu cùng nước chảy ra”. Chắc chắn, dụng ý của Phụng vụ khi chọn đọc trích đoạn Tin Mừng nầy đó chính là muốn rút ra từ đó một trọng tâm ý nghĩa được qui chiếu vào mầu nhiệm Thánh Tâm: Máu và nước chảy ra theo vết thương bị đâm ở cạnh sườn Chúa Giêsu, nhưng chắc chắn, bắt nguồn từ trong Trái Tim Chúa.
Tại sao nói đến Thánh Tâm, đến tình yêu, Lời Chúa lại quy chiếu vào vết thương, vào cuộc khổ nạn ? Điều nầy muốn nói lên điều gì ?
Câu chuyện nhỏ sau đây có thể là một “minh hoạ” khá rõ nét cho ý nghĩa trên: VẾT SẸO CỦA TÌNH YÊU[1] (Người mẹ vì tha thiết muốn cứu con khỏi nanh vuốt cá sấu đã nắm chặt tay con…; và đã để lại những vết sẹo trên tay con…; và đây mới chính là “vết sẹo” cậu bé không bao giờ quên).
Quả thật, vết sẹo trên cánh tay của người con là dấu chứng nói lên tình yêu muốn cứu đứa con của người mẹ yêu con hết lòng cho dù vẫn biết vết thương đó có làm đau buốt cánh tay con. Tình yêu của những người cha – người mẹ luôn như thế đấy ! Họ yêu đứa con của mình bằng cả trái tim và chấp nhận hy sinh, chấp nhận đau đớn và níu giữ lấy ngay cả những hy vọng nhỏ nhoi, mong manh nhất; chỉ cần đứa con mình được sống, được no đủ và êm ấm…
Và tiêu đích của Lịch sử Cứu độ chẳng phải như thế sao ! Để cứu thoát “con cái là chúng ta” khỏi nanh vuốt của ma quỷ và tội lỗi, Chúa Cha đã hy sinh Con Một của mình và đã chấp nhận để lại những vết thương tích là cuộc khổ nạn trên thân thể của Chúa Con, mà sự kiện “máu và nước tuôn ra từ trái tim” là dấu chỉ rõ nét. Ý nghĩa nầy cũng hoàn toàn thích hợp với thái độ “chấp nhận uống cạn chén đắng” của Chúa Con trước thánh ý Cha (Lc 22,42); thái độ “vâng phục qua nếm trải khổ đau” để “trở nên căn nguyên ơn cứu độ” (Dt 5,8-9); thái độ “chấp nhận bị treo lên” trên cây khổ giá để “kéo mọi người lên” (Ga 12,32), thái độ sẵn sàng “đổ máu để thiết lập giao ước vĩnh cửu” (Dt 13,20).
2. Con người học yêu theo cách của Thiên Chúa:
Điều nầy còn muốn nói rằng: tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu luôn đòi hỏi phải chấp nhận thương đau. Ngài thương yêu chúng ta, muốn cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài cũng đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận những “vết đau” để bàn tay Ngài nắm chặt mà kéo lên khỏi nanh vuốt của ma quỷ.
Mừng lễ Thánh Tâm hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng cùng nhớ lại vết thương là cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Giêsu và máu chảy ra từ Trái Tim yêu thương của Ngài, (như cậu bé nhớ lại vết thương trên cánh tay của mình để ghi nhớ mãi tình yêu của mẹ) để chúng ta luôn cảm nhận được tình Chúa yêu ta vô ngần và dành cả cuộc đời để đáp trả tình yêu vô biên đó của Thiên Chúa. Đây lại là điều tối cần thiết nơi đời sống các linh mục. Chính vì thế, hôm nay Hội Thánh gọi mời toàn Dân Chúa cầu nguyện xin ơn thánh hoá các linh mục.
Từ sau biến cố “Trái Tim bị đâm thâu” trên Đồi Sọ cho đến mãi hôm nay, có biết bao nhiêu con người đã chấp nhận mang “vết sẹo tình yêu của Thiên Chúa” in đậm trên cuộc đời mình, để không phải chỉ mỗi riêng mình được cứu thoát mà con để cho hàng muôn ức triệu anh chị em cũng được “kéo lên”.
Từ cuộc tử đạo “đóng đinh ngược đầu trên thập giá” của Tông Đồ Phêrô, rồi Phaolô bị chém trên đồi Vatican, đến Giám Mục Ignatio bị răng thú dữ nghiền nát giữa hý trường Coloseum, hay những vết thương đau tử đạo trên những người thiếu nữ liễu yêu đào tơ như Anê, Agata, Cecilia… hay 14 nhát dao trên người của cô bé Maria Goretti; những nỗi đau của linh mục Maxilien Kolbe khi chấp nhận chết thay cho người anh em tù; những vết đạn trên thân xác của thánh Giám Mục Oscar Romero khi chấp nhận liên đới với người nghèo cô thân cô thế… Vâng, tất cả những “vết sẹo của tình yêu” đó đều có chung một ý nghĩa, một mục tiêu mà có lẽ chính vị Á Thánh trẻ của Việt Nam chúng ta, Anrê Phú Yên, đã “đại diện” để hát to lên trên đường ra pháp trường thành Chiêm khi lãnh trọn 3 nhát dáo đâm và 2 nhát chém trên thân xác mỏng manh của mình: “Hỡi anh em, đối với Chúa Giêsu yêu dấu của chúng ta, chúng ta hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu. Chúa đã chịu chết đau khổ vì chúng ta, nên chúng ta hãy lấy mạng sống đáp đền mạng sống… “Hỡi anh chị em, chúng ta hãy giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời”.
3. Không là “chuyện dễ”:
Thế nhưng, đâu phải nhân loại và trong Giáo Hội đều gồm toàn những thánh nhân như thế. Vâng. có rất nhiều người trong chúng ta cho dẫu biết mình đang bị ma quỷ lôi kéo, đang bị tội lỗi mua chuộc, nhưng vì sợ những vết thương của “cái nắm tay” của Thiên Chúa; sợ “con đường hẹp” của Phúc Âm; sợ những đòi hỏi “về bán hết của cải, bố thí cho người nghèo” của Đức Kitô (Mt 19,16-22); sợ “những khổ đau đang hẹn chờ ở Giêrusalem” (Mt 16,21-23)…. Và chính vì những “nỗi sợ” đó nên cứ mãi quay lưng chối từ Thiên Chúa; chấp nhận “bị buông tay” để rơi vào nanh vuốt của tội lỗi và ma quỷ, thay vì “được kéo lên trong thương đau nhức nhối” để được cứu thoát. “Viên ngọc quý”, “kho tàng quý”, đâu phải chỉ cứ “thò tay vào túi” là “bắt được”; mà phải cất công trèo non lặn suối đi tìm (Mt 13,44-46)…
Cho dù chúng ta có quyền mơ ước và vững tin rằng: Thiên Chúa sẵn sàng dành cho ta một tình yêu “nâng niu dịu dàng” cách diễn tả của sứ ngôn Hô-sê “Ta đã ấp yêu chúng vào má. Ta nghiêng mình trên chúng và đút cho chúng ăn …”; nhưng, như Thánh Phaolô nhắc nhở trong thư gởi giáo đoàn Ê-phê-sô, “để được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái”, hay để “hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu” của tình yêu nơi Đức Ki-tô (Bđ 2), thì chúng ta phải cất bước trở về Đồi Sọ, để chiêm ngưỡng “máu và nước tuôn chảy từ Thánh Tâm Chúa Giê-su”. Chính ngang qua “Vết sẹo tình yêu sâu thẳm nầy” mà thế giới sẽ được cứu độ và loài người mới khỏi rơi vào vực thẳm của chiến tranh, hận thù, tội lỗi và nanh vuốt của quỷ ma.
II. ĐẾN ĐỨC KHIẾT TỊNH CỦA NGƯỜI NỮ TU HÔM NAY
Chúng ta vừa vừa “bắt đầu câu chuyện về tình yêu” với “VẾT SẸO CỦA TÌNH YÊU CỨU CHUỘC”. Bây giờ là lúc bàn chuyện “tình yêu đáp trả của cuộc đời thánh hiến” mà từ chuyên môn của khoa linh đạo gọi là “Đức Khiết Tịnh”.
Trước hết, để mở lối đi vào chuyên đề “khiết tịnh”, nhất là “đức khiết tịnh của người nữ tu”, Thánh Phaolô cách đây gần 2000 năm đã nhận định: “Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác” (1 Cr 7, 34).
“Thuộc trọn về Chúa cả hồn và xác” là cách diễn tả tình yêu sâu đậm của một con người dành cho Thiên Chúa và nhờ đó dành cho mọi người. Đức khiết tịnh Kitô giáo chỉ được hiểu ngang qua ý nghĩa tình yêu cao đẹp và thánh thiện ấy.
Tuy nhiên, nói đến tình yêu, đó là “chạm” đến một khía cạnh, một huyền nhiệm sâu xa nhất, tế vi nhất và cũng phức tạp nhất trong kiếp sống con người. Thi sĩ Xuân Diệu đã không lầm khi tự hỏi: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu !”[2] Hay có khi nói “yêu” mà chưa chắc “yêu thật sự”, như bài thơ của Bob Marley:
Em nói em yêu mưa,
Nhưng mỗi lần mưa đến em lại che dù.
Em nói em yêu nắng,
Nhưng mỗi khi nắng lên em lại tìm chỗ trú.
Em nói em yêu gió,
Nhưng mỗi lần gió đến, em lại đóng cửa sổ lại.
Chính vì những điều đó,
Mà anh cảm thấy sợ khi em nói yêu anh[3].
Trong cuộc đời Ki-tô hữu, sống huyền nhiệm tình yêu phải chăng là một thách đố lớn lao nhất, gai góc nhất; nhưng cũng cao cả và giá trị nhất. Bởi vì, “Yêu Thương là điều răn mới” được Đức Ki-tô nhấn mạnh cách đặc biệt (Ga 13, 34-35; 15, 12-13), “Đức Mến” là nhân đức cao trọng trên tất cả (1 Cr 13, 1-13). Cách riêng, trong cuộc đời Thánh Hiến, sống tình yêu, sống đức mến, lại được cụ thể hoá, “pháp chế hoá” qua một sự cam kết công khai, một lời Khấn: Lời Khấn Khiết Tịnh.
Ý nghĩa đặc biệt nầy đã được Đức Thánh Giáo Hoàng G.P. II nêu bật trong Tông huấn Đời sống Thánh Hiến: “Sự khiết tịnh của những người độc thân trinh khiết, biểu lộ một con tim không chia sẻ dâng hiến cho Thiên Chúa (x.1 Cr 7,32-34), là phản ảnh tình yêu vo biên đang nối kết Ba Ngôi Vị Thần Linh trong chiều sâu mầu nhiệm của đời sống Ba Ngôi; tình yêu mà Ngôi Lời Nhập Thể làm chứng cho đến hy sinh mạng sống; tình yêu “đã được đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần” (Rm 5,5), tình yêu thúc bách chúng ta đáp trả với trọn tình thương dành cho Thiên Chúa và anh em” (ĐSTH 21).
Như vậy để giúp mỗi người chúng ta sống phong phú nhân đức “Khiết tịnh”, hay tích cực hơn, để chúng ta thanh thản và quảng đại dâng hiến một tình yêu trọn vẹn cho Thiên Chúa và anh em, chúng ta phải “cắp sách đi vào mái trường tình yêu” để cùng “học yêu” với Vị Thầy vĩ đại của Tình yêu là Đức Ki-tô.
1. Đức Kitô “yêu và dạy yêu”.
Trong “nghệ thuật yêu thương” của Đức Ki-tô, chúng ta cảm nhận được điều nầy: Đó là một tình yêu “trọn vẹn cho Thiên Chúa” và “hết tình cho con người”. Phải chăng đó là sự thể hiện trọn vẹn và cụ thể hai điều răn căn bản: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Đnl 6,5; Mt 22,37); và “ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Lv 19,18; Mt 22,38).
1.1. Đức Ki-tô yêu mến Thiên Chúa:
– Tất cả vì Cha, cho Cha, tìm vinh quang Cha, lo cho Cha được vinh hiển: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4, 34). “Điều gì Chúa Cha làm thì Người Con cũng làm như vậy” (Ga 5, 19). “Vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5, 30; 6, 38). “Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi nhưng là của Đấng đã sai tôi” (Ga 7, 16). “Lạy Cha, Con đã tôn vinh Cha ở dưới đất khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho Con làm” (Ga 17, 4). “Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một vâng ý Cha” (Lc 22, 42).
– Dành cho Thiên Chúa tất cả mà không đòi một điều kiện nào: Thân xác, linh hồn, đắng cay, đau khổ, cuộc đời…
“Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha” (Lc 23, 46). “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa đã chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt.10, 5-7).
1.2. Đức Ki-tô yêu thương con người:
Đức Hồng Y F.X Nguyễn Văn Thuận đã cho thấy “nghệ thuật yêu thương con người” của Chúa Giê-su mang các chiều kích sau:
– Yêu thương trước: “Người đã yêu chúng ta trước” (1Ga 4,19; Rm 5,8).
– Yêu thương tất cả mọi người: “Các con hãy là con của Thiên Chúa Cha trên trời, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên cho người lành và kẻ dữ…” (Mt 5, 45).
– Yêu thương kẻ thù: “Nếu các con yêu những người yêu các con…nếu các con chỉ chào hỏi anh em mình thôi…ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?…Nhưng Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ bách hại các con” (Mt 5, 46-47.44).
– Yêu thương bằng cách hiến chính mạng sống mình: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu nầy la: hiến chính mạng sống cho các bạn hữu mình” (Ga 15, 13).
– Yêu thương bằng cách phục vụ: “Các con cũng làm như Thầy đã làm” (Ga 13, 15)[4].
2. Từ “tình yêu của Đức Kitô” đến Đức Khiết Tịnh”:
Xuất phát từ “trường dạy yêu thương” của Đức Ki-tô, nhân đức Khiết Tịnh mà những người được thánh hiến cam kết đón nhận và sống, có thể nói được, đồng nghĩa với “Đức Yêu thương”, như Cha Marcello de Cavalho Azevedo đã cắt nghĩa cách dí dỏm nhưng cũng đầy tính thuyết phục: “Không có đức ái, sự trong trắng không có ý nghĩa. Tại sao con giữ mình trong trắng ? – Vì con ích kỷ, không chịu được ai ? – Vì không ai yêu con nổi ? – Hay vì con muốn giữ lòng con để yêu Chúa và yêu tha nhân trọn vẹn hơn ? – Chỉ lý do cuối cùng nầy mới chính đáng”[5]. Và ngài cũng nhận xét thêm: “Yếu tính của Đức Khiết tịnh là: dọc theo dòng lịch sử, Thiên Chúa đã mời gọi một số người hiến thân trọn vẹn cho Tình Yêu. Họ được Chúa ban ơn có thể yêu Ngài hết lòng, mà không cần phải qua trung gian của tình yêu nhân loại. Họ toả chiếu tình yêu ‘miễn phí’ của Ngài ra chung quanh, và khám phá trong những người khác tình Chúa yêu thương họ”[6].
Điều đó có phải là một ảo tưởng không ? Nhất là trong bối cảnh xã hội hôm nay, một xã hội đề cao “tình yêu xác thịt”, “tình yêu chiếm hữu”, tự do luyến ái, kế hoạch hoá vì mục đích thoả mãn tính dục, ly dị, phá thai…; nhất là phong trào “phò LGBT”[7].
Lịch sử của Hội Thánh suốt hai ngàn năm nay đã minh chứng hùng hồn rằng: đó không phải là một ảo tưởng nhưng là một khẳng định, một hiện thực, một chứng tá đầy thuyết phục và rõ nét. Đức Thánh Cha G.P. II đã nói trong Tông huấn Đời sống Thánh Hiến: “Người tận hiến chứng nhận rằng điều mà đa số xem như không thể được, lại trở nên có thể được và thật sự mang lại tự do, nhờ ơn thánh của Chúa Giê-su. Đúng vậy, trong Đức Ki-tô, có thể yêu mến Thiên Chúa với hết cả con tim, đặt Người lên trên mọi mối tình, và yêu thương mọi thụ tạo với sự tự do của Thiên Chúa. Đây là một trong những chứng tá cần thiết cho hôm nay hơn bao giờ hết, chính vì thế giới rất ít hiểu được điều này. Chứng tá nầy dành cho mọi người – cho giới trẻ, cho những người đính hôn, cho những đôi vợ chồng, cho các gia đình Ki-tô giáo – để minh chứng rằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa có thể thực hiện những điều phi thường ngay giữa những thăng trầm của tình thương loài người” (ĐSTH số 88).
Chính trên nền tảng nhân bản đích thực đó (yêu Chúa, yêu người), mà trái tim của những người sống đời thánh hiến đích thực luôn nhân từ, rộng mở, cuộc đời luôn tỏa rạng niềm thanh thản tươi vui, cách ứng xử luôn quân bình, tự chủ: “Đời thánh hiến cần phải nêu lên cho thế giới ngày nay những gương sáng của những người nam và người nữ sống đức khiết tịnh mà vẫn quân bình, làm chủ được chính mình, có sáng kiến, trưởng thành tâm linh và tình cảm (…). Chính vì được nhận chìm trong mầu nhiệm (Ba Ngôi) đó, con người tận hiến có khả năng yêu mến triệt để và phổ quát, có sức mạnh để tự chủ và kỷ luật cần thiết để khỏi bị nô lệ giác quan và bản năng. Đức khiết tịnh tận hiến trở thành một kinh nghiệm về niềm vui và tự do. Được soi sáng bởi niềm tin vào Chúa Phục sinh và niềm chờ mong trời mới đất mới (x. Kh 21,1), đức khiết tịnh tận hiến là một kích thích tố quý báu cho việc giáo dục khiết tịnh, cần cho các bậc sống khác nữa” (ĐSTH, số 88).
3. Khiết tịnh: Công trình của Chúa Thánh Thần:
Qua những chỉ dẫn trên, chúng ta hiểu và tin rằng: Người sống đời thánh hiến là những người thuộc về Thiên Chúa và thuộc về anh em trọn vẹn, hết mình trong tình yêu như Chúa Giê-su. Tuy nhiên, chắc chắn không ít lần chúng ta lại phân vân: Làm sao với trái tim nhân loại, với con người mỏng dòn, yếu đuối luôn nghiêng chiều về xác thịt, ích kỷ, đam mê… lại có thể yêu trọn vẹn, yêu cao cả, yêu thánh thiện như thế được ? Xin hãy an tâm. Vì, quả thật, tự sức chúng ta, chúng ta không thể có khả năng để sống khiết tịnh, không có khả năng để yêu thương với kích thước và đòi hỏi của Đức Ki-tô. Nhưng đây là công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng được mệnh danh là “Tình yêu của Thiên Chúa”, như lời khẳng định của Thánh Phao-lô Tông đồ: “Thiên Chúa đã đổ tràn tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5, 5).
Đức Thánh Giáo hoàng G.P. II đã minh giải điều đó như sau: “Cũng như trọn cuộc sống Ki-tô hữu, tiếng gọi sống đời tận hiến có quan hệ mật thiết với hoạt động của Chúa Thánh Thần. Qua các thời đại, chính Thánh Thần luôn luôn thúc đẩy những con người mới nhận ra sức thu hút của một chọn lựa cam go. Dưới tác động của Người, những con người ấy lại trải qua kinh nghiệm của ngôn sứ Giê-rê-mi-a: ‘Lạy Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ” (Gr 20,7). Chính Thánh Thần gợi lên nguyện ước đáp trả trọn vẹn; Chính Người tháp tùng cuộc tăng trưởng của nguyện ước nầy, giúp người ta thuận theo đến cùng và nâng đỡ người ta trung thành thực hiện lời đáp trả; chính Người đào tạo và củng cố tinh thần của những kẻ được gọi, bằng cách làm cho họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, và bằng cách thúc đẩy họ nhận lấy sứ mạng của Người làm của mình. Khi để cho Thánh Thần hướng dẫn hầu tiến đi không ngừng trên hành trình thanh luyện, ngày qua ngày, họ trở thành những con người mang danh Đức Ki-tô, nối dài trong lịch sử sự hiện diện đặc biệt của Chúa phục sinh” (ĐSTH số 19).
Mà nếu Đức Chúa Thánh Thần đã ra tay tác tạo, thì hoa trái của Ngài sẽ là: “Bác ái, hoan lạc, bình an nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23)[8].
4. Đức Khiết tịnh và đời sống cộng đoàn:
Vâng, cộng đoàn Hội Thánh và các cộng đoàn nhỏ trong Giáo Hội là một “cộng đoàn tình yêu” do chính Đức Kitô thiết lập trên “nền tảng tình yêu” chính là cuộc hiến tế Thập Giá của Ngài ; là cộng đoàn phát sinh do “Máu và Nước chảy ra từ Trái Tim bị đâm thâu”, nên phải phản ảnh đúng tình yêu của chính Đấng “Phu Quân”. Một cộng đoàn không có tình yêu cũng có nghĩa là một cộng đoàn đã đánh mất “căn tính Kitô giáo”, như cách cảm nhận:
Nếu không có tình yêu, bổn phận khiến người ta dễ nóng giận.
Nếu không có tình yêu, trách nhiệm đẩy con người ta tới chỗ bất nhã.
Nếu không có tình yêu, công bằng làm cho con người ta đâm ra tàn nhẫn.
Nếu không có tình yêu, sự thật biến người ta thành kẻ ưa soi mói.
Nếu không có tình yêu, sự khôn ngoan dẫn dắt bạn tới chỗ láu cá.
Nếu không có tình yêu, sự đon đả biến con người thành kẻ giả dối.
Nếu không có tình yêu, sự am hiểu đẩy bạn trở thành kẻ cố chấp.
Nếu không có tình yêu, quyền lực khiến người ta trở thành kẻ áp bức.
Nếu không có tình yêu, danh tiếng làm bạn trở thành kẻ kiêu ngạo.
Nếu không có tình yêu, của cải làm con người ta trở nên tham lam.
Nếu không có tình yêu, lòng tin biến bạn thành kẻ cuồng tín.
Nếu không có tình yêu, trên đời này bạn không là gì cả.
Quả thật nếu không có tình yêu thì cộng đoàn chỉ là “sói ở với nhau” !
Dĩ nhiên, để có được một cộng đoàn “đầy ắp yêu thương” như thế không phải một sớm một chiều; phải là sự “chắp nhặt từng phút giây”, từng những “chi tiết nhỏ”, từng những lời cầu nguyện đan xen những hy sinh mỗi ngày… như chính Chúa Giêsu đã căn dặn: “nếu hai người trong các con, ở dưới đất, mà hiệp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho họ điều đó. Vì ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy…”
Vì thế, cho dù mang theo bao nhiêu tính hư tật xấu và yếu đuổi nhỏ nhen, chúng ta không nản lòng. Vì Đức Kitô vẫn còn hiện diện ở giữa lòng Giáo Hội, ở trong Nhiệm tích Thánh Thể như Ngài đã tuyên bố: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài đang hiện diện ở đây, ngay giây phút nầy để dành cho ta lòng khoan dung tha thứ, và để động viên mọi người chúng ta cất bước lên đường tiếp tục ra đi rao giảng và làm chứng tình thương khoan dung của Thiên Chúa và đáp lại bằng chính việc thực thi giới luật yêu thương: “Anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn lề luật” (Rm 13,8).
5. Bảo vệ và phát triển Đức Khiết tịnh:
Có lẽ chúng ta nên dõi theo những chỉ dẫn của cố Hồng Y F.X Nguyễn Văn Thuận trong những kinh nghiệm và kiến thức cao quý của ngài, được ghi lại trong tác phẩm Những người lữ hành trên Đường Hy Vọng: (Xin trích):
TRONG TRẮNG[9]
1. Đóa hoa trinh khiết:
– “Phúc cho ai trong trắng vì sẽ được thấy mặt Thiên Chúa. “Không phải chỉ có tu sĩ, mà cả người đời cũng phải trong trắng theo đấng bậc mình. Sống trong trắng không phải bị ràng buộc, nhưng cần được tự do hơn” (ĐHV 425).
– Bao nhiêu tâm hồn giáo dân trong trắng gương mẫu giữa trần gian. Tâm hồn tận hiến của con phải cảm phục, phấn khởi và vươn cao hơn nữa.” (ĐHV 433).
Thánh Nữ Maria Goretti sinh năm 1890 tại miền Pontins, gần bờ biển, cách thành Roma khoảng 25 cây số. Thuở còn nhi nữ, thánh nhân đã là cô gái nhan sắc mặn mà khiến Alexandre, một thanh niên cùng làm việc trong nông trại với ngài, đã dùng lời đường mật dụ dỗ. Thánh nữ cương quyết chống lại và bảo: “Anh Alexandre, đừng, đừng làm thế, Chúa không muốn anh xuống hỏa ngục đâu”. Và lần khác, thánh nữ đã nói cách dịu dàng với anh ta: “Không, anh Alexandre, Chúa không muốn chúng ta làm điều đó !”. Nhưng chàng trai ấy quá say mê nhan sắc của ngài; vì thế, lúc Goretti mới 13 tuổi đầu, vào ngày 5.7.1902, lợi dụng lúc cả nhà đi làm xa, Alexandre đã dùng võ lực cưỡng bách Goretti. Ngài chống cự mãnh liệt, nhưng vì sức yếu nên cuối cùng phải khuất phục. Và sau đó, vì sợ bị tố cáo, Alexandre đã đâm chết Thánh Nữ. Sáng hôm sau, ngày 6.7.1902, trước khi trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Nettunô, Thánh nữ Goretti đã thều thào: “Vì tình yêu Chúa Kitô, tôi sẵn sàng tha thứ cho anh Alexandre, và muốn anh cũng được vào Thiên đàng với tôi”.
Năm Thánh 1950, Đức Piô XII đã phong Thánh cho Maria Goretti trước sự hiện diện của bà mẹ già yêu dấu và bên cạnh bà, có cả… anh Alexandre, lúc ấy đã vào dòng tu !
2. Đôi mắt xanh của chị nữ tu:
– Có nhiều thiên thần trong trắng mà lại là ma quỷ của ghen ghét. Vô phúc cho cộng đoàn nào gặp loại thiên thần ấy (ĐHV 426).
– Cha đã gặp nhiều người, thuộc nhiều giới, ở nhiều nước khác nhau, sống độc thân hạnh phúc giữa đời. Bí quyết của họ: “Sống cầu nguyện.” (ĐHV 435).
– Giá trị của thân xác con: – Mua chuộc bằng Máu Thánh Chúa, – Làm đền thờ Chúa Ba Ngôi, – Sẽ vinh hiển muôn đời. Đừng đem bán “xôn”! (ĐHV 450).
– Xem thường không giữ ngũ quan là mở cửa cho địch vào thành. David thắng Goliath khổng lồ nhưng không thắng được mắt mình (ĐHV 455).
Trên khắp các nước, thế chiến đã bùng nổ. Quân Phátxít chiếm cứ khắp nơi. Một viên tướng Phátxít đến một nhà dòng kia, yêu cầu kêu Mẹ Bề trên cho ông ta gặp. Khi vừa dốc cạn ly nước từ tay Mẹ Bề trên, viên tướng Phátxít lập tức vào đề:
– Xin bà cho tôi gặp chị Maria. Bà Bề trên bấm chuông gọi chị ấy ra. Ông tướng vui vẻ hẳn lên và nói cách sổ sàng: “Tôi yêu cầu bà trao ngay cho tôi chị này, tôi say mê chị”. Hai mẹ con nhìn nhau lúng túng; chị Maria vội đỡ lời: “Tôi là một nữ tu tầm thường, nào có gì để ông say mê. Xin ông tìm ở ngoài thế gian, lắm người nhan sắc lộng lẫy…”.
– Không! không ! Tôi yêu chị vì chị có con mắt xanh tuyệt đẹp. Tôi say mê quá !
– Không ! Xin lỗi ông, không bao giờ tôi chấp nhận điều ấy.
– Nếu chị không chấp nhận, nội ngày mai, tôi sẽ ra lệnh tiêu diệt cả nhà dòng này !
Một bầu khí thinh lặng ghê rợn ập xuống phòng khách. Ông tướng đứng lên và bảo: “Tôi cho một đêm suy nghĩ, sáng mai tôi sẽ trở lại. Phải trả lời dứt khoát: nếu không, tôi sẽ…”.
Ngày hôm ấy, cả Nhà Dòng thiết tha cầu nguyện sốt sắng hơn. Thâu đêm chị không thể nào chợp mắt: “Chẳng lẽ vì mình mà cả nhà phải bị tiêu diệt? Không, không thể được! Hay tôi phải bỏ Nhà Dòng, bỏ Tình yêu Chúa Kitô, bỏ đức trinh khiết? Không, không bao giờ như thế !”
Sáng hôm sau, khi chị em còn nguyện kinh, ông tướng Phátxít đã có mặt ở phòng khách, đôi mắt hau háu, nôn nóng, sốt ruột.
Từ đầu hành lang, Chị Maria đang tiến lại, nhưng... bên cạnh lại có một người khác dẫn đi, tay chị cầm một cái dĩa. Viên tướng há hốc mồm, trố mắt kinh ngạc. Chị đã bước vào phòng khách, nhưng ông vẫn không ngớt ngẩn ngơ. Chị Maria khuôn mặt đầy máu me, đang sờ soạng đặt cái dĩa trên mặt bàn và nhỏ nhẹ trình bày: “Thưa ông, vì ông say mê cặp mắt của tôi... nên tôi xin sẵn sàng biếu ông cặp mắt ấy… trên dĩa này. Còn thân xác tôi, đời tôi, tôi đã hiến dâng cho Thiên Chúa”.
Viên tướng Phátxít vừa bàng hoàng kinh ngạc vừa cảm phục. Ông xấu hổ đứng dậy bỏ ra về và không đá động gì đến nhà dòng nữa.
3. Tội lỗi xông mùi:
– Chúa chỉ ban sự trong trắng cho linh hồn khiêm nhượng. Con hãy cầu xin hàng ngày với tâm hồn đơn sơ chân thành, thực sự nhìn nhận sự yếu đuối của con (ĐHV 427).
– Muốn trong trắng, con phải hy sinh; cành huệ trắng tinh, cành mai thơm tho, cành đào xinh đẹp, vì nó đâm rễ sâu vào lòng đất, vì nó cầm cự với mưa bão, vì nó chịu những bàn tay cắt tỉa (ĐHV 431).
– Nhiều thanh niên cười ngạo nghễ mỉa mai, cho là chuyện hoang đường của thời thượng cổ, nếu ai đề cập đến vấn đề sống trong trắng. Nhưng đến phiên họ, họ chọn người bạn trong trắng, họ đánh ghen, họ tự vẫn khi gặp người bạn đồi trụy (ĐHV 434).
– Bại một trận không phải là thua cả cuộc chiến. Chúa muốn dùng mọi sự để làm nên sự lành, kể cả tội lỗi (ĐHV 457). Gioan Boscô và Philipphê Nêri là hai vị Thánh sống đời trinh khiết lạ thường. Hai ngài còn có lòng yêu mến giới trẻ cách đặc biệt. Các vị hoà mình với các thanh thiếu niên, vui vẻ nô đùa với họ, ăn uống với họ, cầu nguyện với họ và yêu mến họ.
Với sự hiện diện đầy thương yêu ấy các ngài muốn phải làm sao cho họ không thể phạm tội được. Nhưng tuổi thanh niên nhiều yếu đuối làm sao khỏi vấp ngã. Nên Thiên Chúa đã ban cho các ngài một đặc ân là hễ gặp linh hồn nào còn mắc tội trọng, các ngài liền cảm thấy một mùi thối tha ghê tởm xông lên, khiến các cậu thanh niên không thể giấu giếm với các ngài một tội nào!
Sau kỳ nghỉ hè, thanh thiếu niên lại tựu trường và đang nô đùa vui vẻ giữa sân. Thánh Gioan Boscô đi đến với chúng, tươi cười thăm hỏi… Nhưng hễ đứa nào mắc tội trọng chưa xưng thì phải chạy trốn ngay vì sợ ngài ngửi được mùi hôi thối. Hơn thế nữa, chúng còn phải lấy khăn che mặt lại vì không thể chịu được cặp mắt của thánh nhân. Ngài nhìn ai như thấu suốt cả tâm hồn.
4. Thánh Giêrônimô chống với ma quỉ:
– Người kiêu ngạo trước sau cũng sa ngã nặng. Họ cậy vào sức riêng mình, không dựa vào Chúa (ĐHV 428).
– Ma quỷ có thể đuổi được, thế gian có thể tránh xa được. Xác thịt con mang theo mãi đến chết (ĐHV 430).
– Con đừng bảo: “Nước không dập tắt được lửa!” – Chỉ vì nước ít lửa nhiều thôi (ĐHV 438).
– Xác thịt là đặc công nằm sẵn trong con, sách báo, phim ảnh, bè bạn xấu là những khí giới ngày càng tối tân hơn. Nếu con không hiện đại hóa khí giới của con: cầu nguyện, bí tích, hy sinh…, nếu con không tỉnh thức canh phòng, nếu con không dẹp ngay mọi mầm mống nổi loạn, nếu con nuôi dưỡng đặc công, nếu bỏ các đồng minh là các thánh, là bạn tốt, con sẽ bị tấn công vũ bão và thảm bại (ĐHV 439).
– Không trong trắng, việc tông đồ không bảo đảm: “Kho tàng con ở đâu, lòng con ở đó.” (ĐHV 442).
– Thần ô uế chỉ sợ ăn chay và cầu nguyện. Con đã làm chưa? (ĐHV 452).
Thánh Giêrônimô sinh năm 340 tại Stridon miền Dalmitie, nước Nam Tư. Ngài là một Đấng thông minh đạo đức, đã được Đức Thánh Cha Đamasô trao cho sứ mệnh dịch toàn bộ Kinh Thánh sang La ngữ. Bản dịch này vẫn còn dùng trong Phụng vụ Giáo Hội: Đó là bản dịch Phổ thông (Vulgata). Ngài đã sang Thánh Địa, vào trong hang Bêlem để ẩn thân cầu nguyện và phiên dịch Kinh Thánh. Thế mà theo lời ngài thuật lại, có những lúc ma quỷ, xác thịt cám dỗ ngài hết sức nặng nề! Chúng làm ngài nhớ lại những quang cảnh xa hoa trụy lạc, những bạn bè xấu nết dâm đảng ngày trước ở thủ đô Roma. Để chống lại ma quỉ cám dỗ, ngài đã chay kiêng hãm mình và cầm đá đấm vào ngực. Với ơn Chúa và ý chí mình, ngài đã chiến thắng. Đức Bonifaciô VII suy tôn ngài lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh. Ngài mất năm 420.
5. Thánh không ai ngờ:
– Mađalêna đã chỗi dậy và nên thánh, chừng nào con mới quyết định? (ĐHV 437)
– Ăn uống nhậu nhẹt vô độ là mở cửa cho quỷ dâm dục (ĐHV 440).
– Các thánh cũng yếu đuối như con, có vị yếu đuối hơn con nữa, có thế mới có công nghiệp, mới làm thánh. Họ chỉ khác con là họ quyết tâm (ĐHV 448).
-Đừng bao giờ khinh anh em con, nếu đứng vững đến hôm nay là ơn Chúa, xem chừng kẻo ngày mai con ngã nặng hơn! (ĐHV 454).
Với quyết tâm theo Chúa Giêsu, sống cuộc đời như Chúa Giêsu, cha Charles de Foucauld đã sang bên Thánh địa, vào Dòng Khổ tu Xitô, chịu chức linh mục và làm những việc rất hèn hạ trong nhà, để nên giống Chúa. Tuy thế, ngài vẫn chưa thỏa mãn. Sau đó ít lâu, ngài lại xin phép sang Sa mạc Sahara, cư ngụ trong vùng Touareg, để sống cùng thổ dân Berbères, suốt ngày chầu Thánh Thể, viết sách, làm việc bác ái và rao giảng Tin Mừng cho họ. Cuộc sống của ngài là một cuộc sống khó nghèo, trơ trụi và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể cách kỳ diệu.
Nhưng nếu ngược dòng lịch sử cuộc đời của ngài, ta thấy tuổi thanh niên của ngài thực xa hoa. Vào trường võ bị Saint-Cyr, Charles de Foucauld là một sinh viên rất thông minh nhưng vô kỷ luật. Mê tán gái và thích ăn nhậu. Có hôm anh rủ bạn bè trốn học cùng nhau đi dạo phố. Để cải trang anh mang bộ râu mép giả. Giữa bữa ăn vui vẻ trong tiệm, bỗng bộ râu của Charles rơi xuống ! Thật là rủi ro! Ông chủ tiệm sinh nghi bèn gọi báo cảnh sát. Cảnh sát ập tới, kiểm soát giấy tờ thì ố hô…, toàn là những anh sinh viên sĩ quan phạm kỷ luật ! Họ chở về trường và cho nghỉ vài hôm trong khám ! Tình nhân của Charles thì hàng tá. Vài cô lại có con với anh. Đến lúc ra trường sĩ quan để nhập đoàn thám hiểm sa mạc Sahara, Charles de Foucauld vẫn tỏ ra vô kỷ luật vì thế việc thăng quan tiến chức của anh thật chậm chạp.
Một hôm được ơn Chúa đánh động mạnh mẽ, anh rời bỏ binh nghiệp và dâng mình cho Chúa. Nghe nói thế, cả gia đình chẳng một ai tin, còn phì cười nữa. Thế nhưng, với sự quyết tâm dũng cảm và ơn Chúa dạt dào, Charles Foucauld đã nên một vị thánh thời danh, được nhiều người thời đại ta tôn sùng, yêu mến.
Cũng như Augustinô, Charles de Foucauld thật là một vị thánh không ai ngờ. …
………
8. Một phương pháp hay:
– Ban thông tin của quỷ dâm ô hấp dẫn lắm, luật sư của xác thịt biện hộ ráo riết lắm. Đừng đối thoại với nó, hãy biết sau chốc lát hưởng lạc, con sẽ cảm thấy chán ngấy, cắn rứt và cô đơn: Con đổi thiên đàng lấy hỏa ngục sao? (ĐHV 451).
– Càng sống trong trắng, chí khí càng vững, vì đã được rèn luyện qua nhiều trận anh dũng (ĐHV 459).
Lạy Chúa, con muốn sửa mình lắm, nhưng sửa hoài chẳng được. Cơn cám dỗ mạnh quá. Mạnh hơn con nhiều cha ạ!
Thánh Philipphê Nêri nhìn chàng thanh niên thiện chí và dịu dàng khuyên bảo: “Hãy can đảm lên, cha đề nghi với con hai điều thôi: mỗi ngày con hãy đọc một kinh “Lạy Nữ Vương và suy niệm đến cái chết; con hãy cố tưởng tượng xác con nằm dưới lòng đất, đôi mắt thối rữa ra, thân mình thì hôi hám, miệng đầy giòi bọ… Rồi con hãy tự nhủ: vì những thú vui xác thịt mà tôi ra như thế và mất nước Thiên đàng !”
Chàng thanh niên nghe lời khuyên của vị Thánh, ngày nào cũng cầu nguyện với Mẹ các kẻ đồng trinh và suy niệm về cái chết. Với sức phấn đấu và ơn Chúa, chàng giữ được lòng trong trắng cho đến hơi thở cuối cùng. (Hết trích).
(Xem thêm câu chuyện “Đức Cha Xerghi” của văn hào Lep Ton-stoi)[10].
Cha Marcello de Cavalho Azevedo đã nêu bật những nét đẹp tuyệt vời trong nhân cách của Đức Trinh Nữ Maria, như là mô hình mẫu trọn hảo của một con người khiết tịnh thật sự:
Chọn lựa sáng suốt
Ý thức rất phong phú về đức nghèo,
Tâm hồn rộng mở đối với Chúa
Luôn sẵn sàng phục vụ người khác
Suy gẫm sâu sắc về thánh ý Chúa
Yêu thương nồng thắm Thánh Giu-se
Can đảm vô cùng khi đứng dưới chân thập giá
Và hiệp thông với Giáo Hội non trẻ mới sinh[11].
Kết: Hãy vui lòng dạy con tình yêu
Giá cao luôn được dành cho của quí. Tình yêu lớn đòi phải hy sinh nhiều. Như câu chuyện ngụ ngôn của Oscar Wide “Con chim hoạ mi và cây hoa hồng”: “Để làm nên quà tặng tình yêu, chim hoạ mi chấp nhận ép tim vào gai nhọn của hoa hồng để cây hoa hút máu tạo nên một cánh hoa hồng đẹp, làm quà tặng tình yêu”. Muốn sống tình yêu đó, muốn có trái tim đó, chúng ta phải khiêm hạ cầu xin và không ngừng “học yêu” trong mái trường của Chúa Giê-su, mái trường “Tin Mừng”, như lời nguyện thâm thuý sau đây của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta:
Chúa Giê-su rất yêu mến của con
Chúa đã sinh ra với tình yêu
Chúa đã phục vụ bằng tình yêu
Và bước đi, với tình yêu
Chúa đã được tôn kính, với tình yêu
Chúa đã đau khổ và chết trong tình yêu
Và đã ra khỏi mồ với tình yêu
Con cảm tạ Chúa vì tình yêu Chúa đã cho con
Và tình yêu mà Chúa đem đến cho thế giới
Con xin Chúa hôm nay cũng như mỗi ngày,
Hãy vui lòng dạy con Tình yêu
Để con cũng vậy, con biết yêu.
Amen[12].
[1] Bài viết: VẾT SẸO CỦA TÌNH YÊU; trang web https://dantri.com.vn/tinh-yeu-gioi-tinh/vet-seo-tinh-yeu-1179648561.htm; Hải Ninh đăng ngày 12.7.2017.
[2] XUÂN DIỆU; Trích đoạn bài thơ “Vì Sao”: Làm sao cắt nghĩa được tình yêu! Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều. Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt, Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu… .
[3] BOB MARLEY: Nguyên tác: “You said you love rain, but you use umbrella to walk under it. You said you love sun, but you seek shade when it is shining. You said you love wind, but when it comes you close your window. That’s why I’m scared when you say you love me”
[4] ĐHY F.X. NGUYỄN VĂN THUẬN; Chứng nhân hy vọng; tr. 116-121
[5] MARCELLO DE CAVALHO AZEVEDO; Tu sĩ, ơn gọi và sứ mạng; tr. 32
[6] SĐD; tr. 31
[7] LGBT là các chữ cái viết tắt của Lesbian (đồng tính luyến ái nữ), Gay (đồng tính luyến ái nam), Bisexual (song tính luyến ái), Transgender (chuyển giới). Biểu tượng của phong trào LGBT là “Cờ sau sắc cầu vồng”; và họ treo cờ nầy trong tháng 6 !
[8] MARCELLO DE CAVALHO AZEVEDO; Tu sĩ, ơn gọi và sứ mạng; tr. 25
[9] ĐHY F.X. NGUYỄN VĂN THUẬN; Những người lữ hành trên đường hy vọng; mục số 18, TRONG TRẮNG, nguồn: dunglac.org.
[10] LEP TON-STOI, Truyện chọn lọc, người dịch: Nguyễn Hải Hà, Thuý Toàn, nxb Văn Hoá – Thông Tin, Hà Nội, 2000. Tóm lược câu chuyện: “Cha Xerghi nguyên là một sĩ quan trẻ trong quân đội Nga hoàng, anh có tiền đồ rất tươi sáng lại được hoàng thượng sủng ái, anh chuẩn bị kết hôn với một thiếu nữ qúy tộc xinh đẹp. Nhưng rồi anh thất vọng não nề khi nhìn thấy mặt trái của giai cấp mình: cô vị hôn thê ngỡ là trong trắng mà anh tôn thờ kia đã thú nhận cô là tình nhân của ngay vị hoàng đế mà anh cũng rất sùng bái. Xerghi vỡ mộng, phẫn chí và quyết định đi tu. Anh trở thành một tu sĩ nổi tiếng trong sạch, đức độ. Rồi một ngày kia cha Xerghi bị một nữ khách tới tận tu phòng quyến rũ. Cha Xerghi cố gắng chống chỏi với dục vọng của mình, cuối cùng ông phải dùng lưỡi rìu chặt phăng một ngón tay để tập trung ý chí!! Chứng kiến cảnh tượng ghê rợn đó, nữ khách hoảng sợ rút lui. Hối hận vì đã xúc phạm một vị thánh, bà này sau đó cũng quyết định đi tu. Cha Xerghi tiếp tục tu hành và ngày càng nổi tiếng nhờ những lời đồn thổi lan truyền trong dân chúng về phép lạ chữa bệnh của ông. Rồi một nông dân đưa cô con gái bị bệnh ngẩn ngơ đến nhờ ông chữa trị. Lần này một mình đối diện với cô gái trẻ ngây ngô trong phòng riêng, ông không thắng được dục vọng và đã sa ngã. Thất vọng ê chề về chính mình, ông bỏ trốn khỏi tu viện, xóa dấu vết và trở thành một người hành hương nghèo đói đi lang thang khất thực suốt khoảng đời còn lại…”. Nguồn: http://khotailieu.com/luan-van-do-an-bao-cao/van-hoa-nghe-thuat/duc-cha-xerghi.html
[11] MARCELLO DE CAVALHO AZEVEDO; Tu sĩ, ơn gọi và sứ mạng; tr. 28.
[12] SÁCH LƯU HÀNH NỘI BỘ; Cầu nguyện với Mẹ Têrêxa; trang 23.
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
2023
Lời khuyên dành cho các linh mục trẻ từ một ‘người anh’
Lời khuyên dành cho các linh mục trẻ từ một ‘người anh’
|
Khi tua nhanh đến năm 2021, tôi nhận thấy có một Giáo Hội cùng với thiên chức linh mục đang phải đối mặt với những thách thức to lớn. Mặc dù mọi so sánh đều khập khiễng, nhưng tôi dám chắc rằng các linh mục ngày nay đang đứng trước nhiều thách thức chưa từng có. Những thách thức này bắt nguồn từ nền văn hóa và các vấn đề nội bộ trong đời sống Giáo Hội của chúng ta. Dù nguyên nhân của chúng là gì đi nữa, những thách thức này vẫn diễn ra trong đời sống của các linh mục.
Giáo Hội không chỉ là một tổ chức hay một cơ quan. Dĩ nhiên, đó là thân thể của Chúa Kitô và là dân Thiên Chúa được Chúa Thánh Thần quy tụ. Tuy nhiên, Giáo Hội cũng là một tổ chức, và đó là bộ mặt mà thế giới nhìn thấy trước tiên. Các linh mục không chỉ là những người đại diện cho tổ chức. Chúng ta là những người công bố Lời Chúa và là những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chúng ta cũng là những người đại diện và lãnh đạo của Giáo Hội trong tư cách là một thực thể có tổ chức. Và sự thật này trở thành một thách thức to lớn dành cho sứ vụ của chúng ta.
Trong nền văn hóa của chúng ta, tất cả các tổ chức (chẳng hạn như chính phủ, ngân hàng và giáo dục) đều bị nghi ngờ vì không cung cấp những thứ theo như mong đợi và vì thường xuyên làm tổn hại đến lợi ích chung. Trong tư duy của công chúng, Giáo Hội phải chịu một đánh giá tiêu cực đặc biệt khắt khe về mặt tổ chức. Vì một số thành kiến nhưng cũng vì một số sai lầm đáng buồn mà chính Giáo Hội đã mắc phải, nên việc giới thiệu công khai về Giáo Hội trên các phương tiện truyền thông gần như thường mang tính tiêu cực.
Giáo Hội thường bị mô tả là theo chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong lịch sử của mình, đồng lõa trong cuộc khai thác thuộc địa của các dân tộc bản xứ, theo chủ nghĩa kỳ thị nữ giới, kỳ thị đồng tính, nuôi dưỡng và tiếp tay cho việc lạm dụng trẻ em và thiếu niên, can dự một cách không thích đáng vào hoạt động chính trị của quốc gia, chỉ lo làm giàu, và nói chung là cố chấp và cứng rắn. Dưới hình thức cực đoan của họ, những chỉ trích chung chung như thế vốn không công bằng và thiếu chính xác. Tuy nhiên, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng những chỉ trích như thế không phải là không có cơ sở. Chúng liên quan đến những gì một số người trong Giáo Hội đã làm hay đã không làm khi sống theo lý tưởng của Phúc Âm. Và vì vậy, các linh mục, những người đại diện cho Giáo Hội trong tư cách là một tổ chức, dường như phải đối mặt với một hoàn cảnh thực sự đáng buồn, mà trong đó họ phải cố gắng phục vụ và chu toàn sứ vụ của mình.
Một thách thức khác đối với các linh mục bắt nguồn từ những xu hướng lớn hơn trong đời sống Giáo Hội. Có những cộng đoàn đức tin sôi động và đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, tổng số thành viên của Giáo Hội ở Hoa Kỳ và Châu Âu vẫn tiếp tục giảm sút. Không có lý do nào là duy nhất cho việc tại sao mọi người rời bỏ hay hờ hững với Giáo Hội, hay tại sao những người trẻ lại không gắn bó với Giáo Hội, hay tại sao việc lên kế hoạch của Giáo Hội cho tương lai lại chắc hẳn có nghĩa là lập kế hoạch cho những sự suy thoái – giống như việc cắt giảm và pha trộn mà chúng ta đang làm ở Chicago. Dường như không ai có cách khắc phục rõ ràng cho tình trạng này hay có được một cách hiệu quả để giải quyết nó. Và đó quả thực là một thách thức rất lớn đối với các linh mục.
Cuối cùng, có những điều mà tôi gọi là “những thách thức vĩnh viễn.” Xuyên suốt lịch sử, các linh mục đã phải đối mặt với tính quan quyền nơi Giáo Hội, với các giám mục thiếu đi sự thấu hiểu và đôi khi vô tình, với các linh mục khác cạnh tranh hơn là cộng tác, và với những giáo dân dường như luôn bất di bất dịch theo cách của họ. Và vì vậy, đó chính là vấn đề của ngày hôm nay.
Tổng hợp lại, những thách thức này tạo nên một bối cảnh rất ảm đạm cho sứ vụ linh mục của chúng ta. Nhưng những thách thức này có đồng nghĩa với việc tinh thần của các linh mục đang đi xuống hay không? Nghe có vẻ là như vậy. Nhưng đây là một bức tranh phức hợp.
Kể từ khi Công đồng Vaticanô II kết thúc, nhiều cuộc nghiên cứu về tinh thần của các linh mục nói chung đều đi đến cùng một kết luận: Các linh mục đã bày tỏ nhiều nỗi thất vọng và lời than phiền về cơ cấu Giáo Hội và về bối cảnh sứ vụ của họ. Họ nghĩ rằng các linh mục khác cũng có vấn đề về tinh thần như vậy. Nhưng khi đặt ra các câu hỏi trong phạm vi cá nhân – “Còn bạn thì sao? Bạn có hạnh phúc và mãn nguyện khi thi hành những gì mà linh mục phải làm không?” – thì các linh mục lại cho thấy mặt tích cực về sứ vụ cũng như về ý thức đối với sứ mạng và mục đích của họ. So với những nam lao động người Mỹ khác, thì các linh mục luôn có cảm giác hài lòng ở mức cao hơn trung bình khi thi hành những gì họ phải làm.
Vì vậy, tất cả những điều này đưa chúng ta đến đâu? Dù cho tất cả những thách thức không làm tổn hại đáng kể đến tinh thần của chúng ta, nhưng chúng vẫn làm chúng ta nản lòng. Chúng có thể gây khó chịu cho chúng ta và khiến chúng ta tự hỏi chính xác chúng ta nên định hình sứ vụ của mình như thế nào. Chúng ta có thể làm gì đây?
Bước đầu tiên là thành thật thừa nhận những thách thức mà chúng ta phải đối mặt. Chúng có thật, và chúng sẽ không biến mất. Sau đó, khi tiến hành phân định cá nhân về việc định hình và định hướng cho sứ vụ của mình trong bối cảnh phức tạp này, thì hơn bao giờ hết, chúng ta cần sử dụng các nguồn lực thiêng liêng đúng đắn có sẵn dành cho chúng ta, chẳng hạn như việc linh hướng, các nhóm cầu nguyện, các cuộc tĩnh tâm và những mối quan hệ bạn bè mang tính trợ lực. Sự ủng hộ về mặt tinh thần lúc này là cần thiết hơn bao giờ hết.
Các bước khác cũng có thể làm cho chúng ta tiến bộ. Đức Thánh Cha Phanxicô và những vị tiền nhiệm của ngài đã làm cho tôi phải nhìn đến sự đổi mới của Công đồng Vatican II. Hãy xem xét bốn bước và đường hướng sau đây, những điều vang vọng tiếng của Công đồng và các Đức Giáo Hoàng trong sáu thập kỷ đã qua.
|
Đặt câu hỏi là một cách thức cần thiết để xây dựng sự gần gũi. Vì vậy, đây cũng là cách thức mà Chúa Giêsu đã dùng trong khi thi hành sứ vụ của mình. Người đặt ra nhiều câu hỏi: Anh muốn tôi làm gì cho anh? (Mc 10,51) Sao anh em lại sợ hãi? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin? (Mc 4,40) Các anh tìm gì? (Ga 1,38) Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? (Ga 6,67) Anh có yêu mến Thầy không? (Ga 21,17) Những câu hỏi của Chúa Giêsu cho phép Người kết nối với những người khác. Đây là một điểm trong cuốn sách xuất sắc của Michael Buckley, Các anh tìm gì? Những câu hỏi mang tính thử thách và hứa hẹn của Chúa Giêsu (What Do You Seek? The Questions of Jesus as Challenge and Promise).
Các câu hỏi thể hiện sự quan tâm của chúng ta đến những người khác và mong muốn làm quen với họ. Làm cách nào để bộc lộ những câu hỏi này cũng rất quan trọng. Đặt câu hỏi nhưng cũng phải lắng nghe cách cẩn thận. Dẫn dắt bằng những câu hỏi không chỉ để rút ra nỗi đau và sự giằng co mà còn là cả ân sủng và hy vọng.
2. Sau khi lắng nghe và đến gần, hãy rao giảng như Chúa Giêsu đã làm và dĩ nhiên, hãy rao giảng về Người.
Lời rao giảng của Chúa Giêsu bắt đầu bằng: “Nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1,15) Rao truyền về sự gần kề của Nước Thiên Chúa chính là việc tuyên bố rằng Thiên Chúa đang cải biến cái thế giới hư hoại này cùng với cuộc sống đau thương của chúng ta. Niềm hy vọng cần thiết này cho phép chúng ta điều hướng bất cứ điều gì xảy ra theo cách của chúng ta. Và kêu gọi mọi người sám hối có nghĩa là mời gọi họ đến với lời đầu tiên và cũng là lời cuối cùng của Thiên Chúa – chính là lòng thương xót. Nói một cách đơn giản, rao giảng như Chúa Giêsu đã làm nghĩa là rao truyền niềm hy vọng và lòng thương xót.
Chúng ta cũng phải rao giảng về Chúa Giêsu, không chỉ như một chủ đề khác. Chúa Giêsu, Đấng chịu đóng đinh và đã sống lại, chính là niềm hy vọng và lòng thương xót nhập thể dành cho chúng ta. Nhưng chúng ta thực hiện lời rao giảng này như thế nào? Tôi có thể chia sẻ kinh nghiệm của riêng tôi về điều này. Đó không phải là con đường duy nhất, nhưng tôi biết nó phù hợp với tôi.
Trước tiên, tôi cần phải đi vào Lời Chúa, ở lại đó và để cho sức mạnh của Lời Chúa hoạt động trên tôi. Sau đó, tôi có thể nói về Chúa Giêsu, Đấng của niềm hy vọng và lòng thương xót. Nếu tôi làm vậy, một quá trình sẽ bắt đầu vận hành. Tôi bắt đầu bộc lộ bản thân và thực sự chia sẻ trạng thái của tâm hồn mình. Nếu hiểu biết về con người là bước đầu tiên của sự gần gũi mục tử, thì việc rao giảng theo cách này là bước thứ hai.
Giáo dân có thể nhận thấy liệu rằng chúng ta có tin những gì chúng ta nói hay không. Họ cũng biết liệu rằng chúng ta có đang nói về Chúa Giêsu từ kinh nghiệm của mình hay không. Họ không bị lừa dối bởi những lời hùng biện hoa mỹ hay những câu chuyện khéo léo. Vậy bất cứ khi nào chúng ta rao giảng, chúng ta cần để tâm hồn mình mở ra với tất cả những nhược điểm của nó. Điều đó thật đáng sợ và nhạt nhẽo. Nhưng điều đó cũng khích lệ chúng ta thực sự dấn thân vào Lời Chúa trước khi cố gắng rao truyền những lời đó.
|
Sự phục vụ của Chúa Giêsu không phải là để làm ơn cho người khác. Sự phục vụ của Chúa Giêsu là tình yêu tự hiến của Người để đưa chúng ta đến chỗ hiệp nhất với Thiên Chúa Ba Ngôi và với nhau. Bất cứ khi nào và theo bất kỳ cách nào mà chúng ta phục vụ, chúng ta đều có khuôn mẫu cho mình nơi Người.
Sự dữ to lớn đang hoạt động trong thế giới của chúng ta chính là sự chia rẽ vốn rõ ràng theo rất nhiều cách. Chúng ta thường bị chia rẽ và mâu thuẫn bên trong chính mình. Chúng ta cũng bị chia rẽ trong các mối tương quan gần gũi nhất của mình. Hãy nghĩ về Ađam và Êva, Cain và Aben. Các cộng đoàn có thể bị rạn nứt. Một thế giới tổng thể có thể xảy ra chiến tranh bên trong chính nó. Chúng ta cũng bị chia rẽ ngay cả với cái môi trường đang nâng đỡ chúng ta.
Điều này có nghĩa là bất kể hành động phục vụ cụ thể của chúng ta là gì đi nữa, thì chúng vẫn luôn luôn cần hướng đến sự hòa giải, thúc đẩy sự hiệp nhất và khám phá ra sự thật rằng chúng ta là fratelli tutti, tất cả đều là anh chị em của nhau.
|
Chuyển cầu là đặt con người và hoàn cảnh vào tay Chúa. Chúng ta đón nhận những điều đó, cầm lấy chúng và giao phó chúng về cho Thiên Chúa. Và điều đó thật đặc biệt.
Cách đây một thời gian, tôi nhớ đã đọc một đoạn văn của Marguerite Yourcenar, một nhà văn người Pháp chuyên về một số ghi chép và không phải là một người theo tôn giáo riêng biệt nào cả. Tuy nhiên, cô ấy có một sự thấu hiểu thiêng liêng mà tôi chưa bao giờ có được. Cô ấy viết rằng nếu chúng ta cầu nguyện cho mọi người, thì theo thời gian, họ sẽ xuất hiện trước mắt chúng ta với một diện mạo khác. Cô ấy ngụ ý rằng chúng ta sẽ bắt đầu nhìn thấy họ như Thiên Chúa nhìn thấy.
Khi các linh mục chúng ta chuyển cầu cho con người và cho thế giới nói chung, khi chúng ta không ngừng đặt tất cả những điều đó vào trong tay Thiên Chúa, thì điều gì đó sẽ xảy đến đối với chúng ta. Chúng ta sẽ bắt đầu nhìn mọi người theo một cách khác biệt. Và khi suy xét về tất cả những thách thức mà chúng ta đã ghi nhận được, chúng ta cần có một tầm nhìn cao hơn, cái nhìn thánh thiêng sẽ cho phép chúng ta trở thành những người quản lý khôn ngoan.
Đây không phải là chuyện đơn giản. Nó là một cách để hiện diện, và theo lời của Mẹ Têrêsa, thì cuối cùng, chúng ta sẽ quan tâm đến việc trở nên trung thành, hơn là trở nên thành công. Điều đó không hề là chuyện nhỏ nhặt.
Tác giả: Lm. Louis Cameli* – Nguồn: National Catholic Reporter (25/9/2021)
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
*Lm. Louis Cameli là đại diện của Đức Hồng y Blase Cupich về đào tạo và truyền giáo. Cha là một linh mục thuộc Tổng Giáo phận Chicago. Cha cũng là tác giả của một số đầu sách về thần học và thiêng liêng.
Tác giả bài viết: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2023
Đức khiêm nhường trong đời sống linh mục
Đức khiêm nhường trong đời sống linh mục
Kevin Vost
Giáo sư tâm lý học tại University of Illinois, Springfield;
Lincoln Land Community College, MacMurray College,
và Aquinas College, Nashville, Tennessee.
Ích lợi của đức khiêm nhường ngày càng được nhìn nhận ngay trong thế giới trần tục. Các nhà tâm lý học nổi tiếng như Christopher Peterson, Ph.D., và Martin Seligman, Ph.D., đã dành một chương nói sự khiêm tốn trong cuốn sách tâm lý được đón nhận nồng nhiệt vào năm 2004, cuốn Character strengths and virtues: A handbook and classification (American Psychological Association, Oxford University Press, 2004). Họ trình bày những quan niệm sai lầm phổ biến về sự khiêm tốn trong thế giới hiện đại của chúng ta. Họ nói rằng “sự khiêm tốn và giản dị rất dễ bị hiểu sai tại Hoa Kỳ, nơi chúng ta được khuyến khích lòng tự hào, tự cao và đánh giá cao tầm quan trọng của bản thân.” Thật vậy, họ cảm thấy cần phải làm rõ rằng “khiêm tốn và giản dị không có nghĩa là tự hạ thấp phẩm giá hay tự hạ mình,” và hơn nữa, “những đặc điểm này không là dấu hiệu của một người thua cuộc, hèn nhát, hay suy nhược”.
Các giáo sư môn kinh doanh là Edward Hess và Katherine Ludwig gọi đức khiêm tốn là “sự thông minh mới” trong sách của mình, Humility Is the New Smart: Rethinking Human Excellence in the Smart Machine Age (Berrett-Koehler Publishers, 2020). Họ cũng nói lên những quan niệm sai lạc điển hình về sự khiêm tốn trong nền văn hóa Hoa Kỳ hiện tại, cả ý tưởng cho rằng sự khiêm tốn là “nhu nhược hoặc bị khuất phục hoặc nghĩ rằng mình là người không xứng đáng”. Các tác giả tin rằng điều này là do những từ đồng nghĩa phổ biến là “sự thấp hèn, nhu nhược và phục tùng – những đặc tính này dường như là phản đề của thành đạt và thành công.”
Các nhà tâm lý học đã loại bỏ những quan niệm sai lầm này và giải thích rằng đặc điểm của sự khiêm tốn được đánh dấu bằng “sự trung thực và đúng đắn”, là “sự toàn vẹn” và “gắn kết với sự chấp nhận chính mình và đánh giá cao vị trí của một người trong thế giới rộng lớn hơn”. Nó “được đánh giá cao, nếu không phải luôn ở trong chính chúng ta thì chắc chắn là ở nơi những người khác,” và thực sự, “sức mạnh do tính cách này nâng những người khác lên”.
Các chuyên gia kinh doanh đã viết rằng sự khiêm tốn là “người hùng” trong câu chuyện của họ về cách thành công trong thế giới kinh doanh điện tử đang thay đổi nhanh chóng, đã gọi sự khiêm tốn là “cửa ngõ dẫn đến sự xuất sắc của con người”.
Người khiêm nhường không ngủ quên trên vinh quang khi thế giới lướt qua họ. Đúng hơn, họ luôn sẵn sàng học điều mới từ người khác, những cách nhìn mới về sự vật và những cách mới để làm công việc mới. Sự khiêm nhường như thế không chỉ dẫn đến những lợi ích trần gian cho chính người khiêm nhường, mà còn giúp họ vươn lên và làm điều tốt cho những người họ yêu thương.
Những lý do Nước Trời
Trước hết, chúng ta nên xem xét bản tính của sự khiêm nhường. Khiêm nhường là đức tính gắn bó mật thiết với chân lý và thực tại. Theo Thánh Thomas Aquinas, con người trải nghiệm chân lý khi những quan niệm hoặc niềm tin của chúng ta về thực tại tương thích hay phù hợp với chính thực tại. Một người thực sự khiêm nhường chắc chắn sẽ không quá tin vào những khả năng mà mình không có, nhưng họ cũng sẽ không thiếu tin tưởng vào những tài năng Chúa ban cho mà mình thực sự có được – và đã siêng năng vun vén theo thời gian (vì thực hành là cần thiết để hoàn thiện bất kỳ đức tính nào).
Một trong những vai trò cơ bản nhất của đức khiêm nhường theo nghĩa đen là “chạm đất” – trong tiếng Anh là “ground”, có nghĩa là ở trên mặt đất, bén rễ trong đất. Đức khiêm nhường trong tiếng Anh là humility, có nguồn gốc từ tiếng Latinh là humilitas, và chính từ này có liên hệ với từ humus, có nghĩa là đất cát, nền đất, mảnh đất hay đất đai. Do đó, ý nghĩa hạ mình của sự khiêm nhượng khá là chính xác – theo một nghĩa nào đó, khiêm nhượng là hạ thấp như đất dưới chân ta! Vậy thì, làm thế nào mà đức khiêm nhường “thấp kém” như thế lại được xếp vào một trong những đức tính quan trọng và đáng ao ước nhất trong tất cả các đức tính của con người? Câu hỏi hay đấy và đây là nỗ lực đầu tiên để trả lời.
Khi hành động cách khiêm nhường, thể hiện sự khiêm tốn, chúng ta nhận ra vị trí thực sự của mình trong phẩm trật vũ trụ của Thiên Chúa. Khi nhớ lại rằng từ “khiêm nhường” (humility) có liên quan đến bùn đất (humus), thì chúng ta cũng xem xét rằng chính từ con người (human) cũng liên quan đến từ đó! Thật vậy, mặc dù chúng ta được tạo thành từ bùn đất thấp hèn, song được nâng cao hơn tất cả động vật và thực vật trên trái đất. Tuy được tạo dựng thấp hơn các thiên thần “một chút” (Tv 8, 6), song chúng ta thấp kém vô cùng so với Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên tất cả chúng ta.
Sự khiêm nhượng được gọi là nền tảng của mọi nhân đức, vì khi nhận ra thực tế là trong khi chúng ta ít có thể tự mình làm được việc gì, chúng ta vẫn ở vị trí tốt nhất để xin và nhận được ân sủng của Thiên Chúa như Thánh Phaolô đã nói: “Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết” (Pl 4, 13).
Chúng ta thấy rằng sự khiêm nhường, mặc dù thấp hèn và nhu mì song không hề yếu đuối – một vị thần Atlas thực sự không chỉ nâng đỡ trái đất mà còn giúp chúng ta nắm lấy “cánh tay uy quyền mạnh mẽ” của Thiên Chúa (Tv 136, 11) khiến mọi gánh nặng trở nên nhẹ nhàng. Sự khiêm nhường sẽ không khiến chúng ta chôn vùi tài năng của mình dưới đất, nhưng sẽ làm chúng ta nhân lên bất cứ tài năng nào mà Chúa đã ban cho chúng. Khiêm tốn không chống lại tính cao thượng (sự cao cả của tâm hồn) mà nâng đỡ nó. Khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối tự nhiên của chúng ta, cũng như tính cao thượng nhận ra tiềm năng của mình để có được sức mạnh vô biên từ Thượng Đế. Đúng ra, không phải sự khiêm tốn, mà là sự nhu nhược, sụ nhát đảm của tâm hồn, đã chôn vùi tài năng và làm mờ đi ánh sáng của chúng ta.
Trong tác phẩm vĩ đại của mình về sự khiêm nhường, cha Cajetan Mary da Bergamo đã viết: “Ở thiên đàng, có nhiều vị thánh không bao giờ bố thí trên trái đất: sự nghèo khó đã biện minh cho họ. Có nhiều vị thánh chưa bao giờ hành xác bằng cách ăn chay hoặc mặc áo nhặm: những bệnh tật về thể xác đã biện minh cho họ. Cũng có nhiều vị thánh không khiết trinh: ơn gọi của họ thì khác. Nhưng trên thiên đàng thì chẳng có vị thánh nào mà không khiêm nhường”.
Đức khiêm nhường sẵn sàng mở cánh cổng ngọc trai trên thiên đàng cho các linh mục và mọi giáo dân dưới sự chăm sóc của họ, những người sẵn sàng canh tác đất đai trần thế. Và hẳn nhiên, chính Đức Giêsu đã kêu gọi chúng ta tham gia vào việc canh tác ấy như ngài đã làm.
Đức khiêm nhường và tình yêu cùng chung ách với Đức Kitô
Cha Reginald Garrigou-Lagrange theo chủ nghĩa Tôma ở thế kỷ XX đã phác ra một bức tranh mô tả hình ảnh đền thờ thiêng liêng được xây dựng trên tảng đá vững chắc là Đức Giêsu Kitô. Nó mô tả sự khiêm nhường như nền móng của đền thờ. Đức khiêm tốn là nền tảng cho các nhân đức luân lý, đặc biệt bốn nhân đức chính (cardinal virtues) là khôn ngoan, công bằng, dũng cảm và tiết độ, giúp giữ vững các cánh cửa (cardo trong tiếng Latinh có nghĩa là “bản lề”) dẫn đến một loạt các nhân đức và ân sủng khác của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, sự khiêm nhường cũng là nền tảng mà trụ cột các đức tính cao cả nhất dựa vào, các nhân đức đối thần được Thiên Chúa phú bẩm như đức tin và đức cậy, với đức ái (hay đức mến) là đức tính cao cả nhất và trường tồn nhất, như mái vòm bao phủ lên trên.
Hãy lưu ý ngôi đền đức hạnh thiêng liêng này được xây dựng trên sự khiêm nhường và đỉnh cao là đức ái. Khi được hỏi điều răn nào lớn nhất, Đức Giêsu trả lời: “Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là điều răn trọng nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 34-40). Đây là những giới răn bác ái yêu thương từ chính Thiên Chúa, Đấng “là tình yêu” (1 Ga 4, 8).
Đức Giêsu cũng nói với chúng ta: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11, 29-30). Đây là lời mời gọi để chúng ta lớn lên trong sự khiêm nhường giống như Đức Kitô.
Trong số chú giải yêu thích của tôi về văn bản này là nhận xét ngắn gọn của tu viện trưởng dòng Xitô, Thánh Aelred of Rievaulx: “Vâng, ách của ngài êm ái và gánh của ngài nhẹ nhàng; do đó bạn sẽ tìm thấy nơi nghỉ ngơi cho linh hồn mình. Cái ách này không áp bức nhưng kết nối; gánh nặng này có đôi cánh, không trọng lượng. Ách này là đức ái. Gánh nặng này là tình đệ huynh”.
In Persona Christi
Thật là một vinh dự cao cả và trách nhiệm lớn lao khi mỗi linh mục được thụ phong được hành động nhân danh Chúa Kitô bằng cách trao Mình, Máu, Linh hồn và Thần tính của chính Chúa Giêsu Kitô trong Bí tích Thánh Thể cho chính mình và đoàn chiên của mình. Thật là một vinh dự cao cả và trách nhiệm lớn lao để ngày qua ngày phản ánh tình yêu và sự khiêm nhường của Đức Kitô trong những tương tác trần thế với tha nhân. Theo cái nhìn của giáo dân, các linh mục đáng được tôn kính và tôn trọng, khi chúng ta sử dụng các danh hiệu đáng kính như “Reverend” hoặc “Your Excellency” cho các linh mục hoặc giám mục, và bằng cách sử dụng các tước vị tỏ lòng quý mến, có thể nói được như vậy, như “Cha” và “Đức giám mục”, [1] người chăm sóc và bảo vệ chúng ta.
May mắn được biết nhiều linh mục khiêm nhường, tôi xin đưa ra một gợi ý, đặc biệt là với các tân linh mục, đừng để sự khiêm nhường hạ thấp tác động tiềm ẩn của lời nói và hành vi của bạn đối với giáo dân. Có lẽ đôi mắt của một số giáo dân sẽ lờ đờ khi bạn giảng lễ. (Tôi nhớ lại nhà giảng thuyết Tin lành Norman Vincent Peale nói rằng ông ấy không phiền lòng khi thấy ai đó ngủ trong khi giảng, mà ông rất vui khi họ có thể thư giãn và thoải mái khi có mặt ông ấy!) Tuy nhiên, bạn có thể yên tâm khi biết rằng những tương tác trực tiếp nhỏ nhặt nhất lại có ý nghĩa rất lớn đối với hầu hết giáo dân, vì vậy xin đừng nghĩ rằng việc chẳng có gì khác biệt khi bạn tiếp cận, chào hỏi và chia sẻ vài câu với một giáo dân nhút nhát hoặc cô đơn.
Trong cuốn Humble Strength: The Eye-Opening Benefits of Humility (Kevin Vost, Ascension Press, 2022), tôi kết luận với 50 gợi ý rất đơn giản, thu thập được từ sự khôn ngoan của Giáo Hội để trưởng thành hơn trong sự khiêm nhường khi chia sẻ tình yêu thương của Đức Kitô với người khác. Đây là những hành vi có ý nghĩa khi đến từ bất kỳ ai đó, và khi đến từ một linh mục, việc thể hiện sự khiêm nhường và tình yêu của Chúa Kitô là cách đơn giản nhất. Tôi kết luận với năm gợi ý:
• Nếu không biết thì sẵn sàng nói “Tôi không biết,” ngay cả khi được hỏi về điều gì đó mà bạn được coi là chuyên gia. (Và đối với các linh mục, điều này cũng đòi buộc phải tìm ra câu trả lời, nếu được hỏi về giáo huấn của Giáo hội!). Đừng “nổ” về những kiến thức chuyên môn mà bạn chưa một ngày nào học về nó!
• Trau dồi tính dễ bảo bằng cách nhận ra rằng hầu như mọi người bạn gặp đều có thể có những bài học hay dạy bạn về sự khiêm tốn và những điều quan trọng khác trong đời.
• Nhìn nhận phẩm giá Chúa ban cho mỗi người bạn gặp tình cờ, dù ngoài đường hay trong cửa hàng tạp hóa. Chỉ một lời chào hoặc thậm chí một nụ cười để người đó biết rằng bạn thấy họ quan trọng (và điều này có thể đặc biệt có giá trị khi đến từ một linh mục). Với giáo dân, thể hiện sự tôn trọng qua cách xưng hô!
• Ngay cả khi bạn lớn tuổi, hãy học một bài học từ Chân Phước Pier Giorgio Frassati,[2] 24 tuổi. Khi bạn đến một buổi họp mặt xã hội, hãy để mắt đến một người có vẻ cô đơn hoặc buồn bã, hãy đến đó, bắt chuyện và đối xử với người đó một cách nhẹ nhàng và khiêm nhường như Đức Kitô (và đừng ngần ngại chia sẻ một hoặc hai tiếng cười vui vẻ vừa phải)
• Đây là điều khó kết luận: khi một người xúc phạm hoặc làm hại bạn, hãy nghĩ cách nào đó để bạn có thể thực hiện một chút hành động tử tế đối với họ, ngay cả khi bạn làm điều đó một cách ẩn danh. Dù sao đi nữa, bạn có thể chắc chắn rằng Thánh Martin de Porres[3] sẽ nhìn bạn và mỉm cười.
Tạ ơn Chúa vì các linh mục khiêm nhường và biết yêu thương!
[1] “Bishop” trong tiếng Anh có gốc từ tiếng Latinh là episcopus, và chính từ này lại xuất phát từ episkopos (ἐπίσκοπος) trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là người giám sát, trông nom. episkopos gồm hai từ là epi ( bên trên, over) + skopos (người giám sát, chăm sóc, bảo vệ – one that watches, one that looks after; a guardian, protector”. Tiếng Việt dịch là “Giám mục” theo Hán tự 監牧. Theo Từ điển Thiều Chửu, 監: Soi xét, coi sóc; 牧: Kẻ chăn giống muông.
[2] Pier Giorgio Frassati (6/4/1901 – 4/7/1925) là nhà hoạt động Công giáo người Ý và là thành viên của Dòng Ba Đaminh. Ngài dấn thân vào các vấn đề công bình xã hội, gia nhập các tổ chức bác ái để giúp đỡ người nghèo, kém may mắn. Sau chuyến đi với các bạn, ngài trở về nhà và lâm bệnh nặng ngày 30 tháng 6 năm 1925. Cùng ngày hôm ấy, bà ngoại của ngài qua đời. Vì sự khiêm nhường, ngài hối gia đình đừng lo cho mình mà hãy lo cho bà. Đức Gioan Phaolô II đã đặt ngài làm bổn mạng của Ngày giới trẻ thế giới, gọi ngài là “người của các mối phúc” khi thể hiện các mối phúc này qua đời sống hằng ngày. Đức Phanxicô liệt kê ngài trong số 12 gương mẫu tiêu biểu cho giới trẻ trong Tông huấn Christus Vivit (số 60), “những người tận hiến đời mình cho Đức Kitô… là những suy tư quý giá về chàng trai trẻ Kitô; chứng nhân của họ khích lệ và đánh thức chúng ta khỏi cơn mê ngủ”(CV 49).
[3] Martín de Porres Velázquez, OP (9/12/1579 – 3/11/1639) là vị thánh da màu, gốc Peru. Ngài là bổn mạng của những người lai và tất cả những người tìm kiếm sự hòa hợp sắc tộc. Do nguồn gốc của mình, ngài phải chịu nhiều đối xử bất công lúc sinh thời.
https://www.thepriest.com/2023/03/15/humility-in-the-life-of-the-priest/
Tác giả bài viết: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ