2021
Giao Ước mới – Giới luật của Thần Khí
Thiên Chúa muốn mọi người biết Thiên Chúa và sống hiệp thông với Người.
Đó là ý tưởng căn bản của Lịch sử ơn cứu độ được diễn tả trong Kinh Thánh, khởi từ ơn gọi và mối tương quan diệu kỳ giữa Thiên Chúa với một con người tên là Abraham (St 12, 1-4), để từ đó cả gia tộc của ông biết đến Danh Thiên Chúa và sống tương quan thân mật với Người (St 15, 17); rồi qua dòng lịch sử, sau biến cố Xuất Hành dưới sự lãnh đạo của Môsê, con cháu thuộc miêu duệ của Abraham bỡ ngỡ và thấm thía biết bao, khi dưới chân núi Sinai họ được chính Thiên Chúa của tổ phụ Abrham, Isaac, Giacóp long trọng tuyên bố:
“Vậy bây giờ, nếu các ngươi nghe tiếng Ta mà giữ Giao Ước của Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu (Am sơgullah) của Ta giữa các dân hết thảy …” (Xh 19, 5).
Lời tuyên bố đồng thời là lời hứa của Thiên Chúa – qua phân tích và đào sâu ý nghĩa – cho phép chúng ta thấu hiểu để đi đến khẳng định: đó chính là chủ đề căn bản của Lịch sử cứu độ. Nói cách khác: toàn bộ Thánh Kinh, toàn bộ Lịch sử cứu độ xây dựng trên Lời Hứa đó được thực hiện.
Như thế, những ai nghe lời của Thiên Chúa và tuân giữ giao ước của Người sẽ là Am Sơgullah của Thiên Chúa, Dân sở hữu, Dân riêng, Dân cưng của Thiên Chúa.
Các ngôn sứ không ngừng nhắc nhở Dân riêng của Thiên Chúa quý trọng và sống trung thành với Giao Ước của Thiên Chúa… để rồi, đến một ngày kia, tại một nơi thật bé nhỏ, tầm thường (sơgullah), Lời Hứa của Thiên Chúa lại được công bố cho một thiếu nữ nghèo hèn bé mọn tên là Maria; khi sứ thần Gabriel tuyên bố: “Vui lên, hỡi Người Đầy ơn phúc, Chúa ở cùng Người” (Lc 1, 28).
Kekharitômenê, Đầy ơn phúc, Người được diễm phúc, Biệt sủng, Cưng của Thiên Chúa : tước hiệu này khác nào tước hiệu xưa kia Dân Chúa đã đón nhận ở Sinai : Sơgullah, và Maria khiêm tốn đáp trả : “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo Lời Ngài” (= Tôi xin vâng như lời sứ thần truyền).
Đức Maria đã đón nhận “Giao Ước” đó, đã cưu mang trong lòng, đã sinh hạ, và Người Con của lòng Trinh Nữ Maria sau này trong Bữa Tiệc Vượt Qua, Bữa Tiệc đánh dấu biến cố lịch sử Người từ bỏ thế gian mà về cùng Thiên Chúa Cha qua mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh, sẽ công bố : “Chén này là Giao Ước Mới trong Máu Ta” (1Cr 11, 25).
Nhờ đó, những ai tham dự vào chén Giao Ước Mới trong Máu của Đức Giêsu Kitô sẽ thực sự trở nên Am Sơgullah, Kekharitômenê, Dân riêng, Dân sở hữu thuộc về Thiên Chúa, Dân hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa, Dân có giao ước với Thiên Chúa.
Từ cái nhìn tổng quát đó, chúng ta có một số khái niệm về Giao Ước :
– Cắt Giao Ước : St 15, 17 “ngang qua”
– Lập, dựng Giao Ước : St 17, 21 “lập”
– Ban Giao Ước : St 17, 11
– Ăn Giao Ước : Bơrit do từ Barah, nghĩa là ăn, từ đó, vai trò quan trọng của Máu (= sự sống) trong nghi lễ Giao Ước.
– Sợi dây nối kết : Gr 13, 1 , sợi dây thắt lưng, sợi dây nối kết hai bên lại với nhau để không bao giờ tách lìa nhau.
Wellhausen giải thích:
Tai ương hoạn nạn là Giao Ươc
Giao Ước là Lề Luật
Lề Luật là Trung tín
Trung tín là tôn giáo của người Dothái
Vì thế, ta có thể nói: tôn giáo của người Dothái dựa trên sự trung tín trong việc tuân giữ Lề Luật của Giao Ước.
Trung tín (Khêsed) à Lòng mến (Agapê)
Thấm nhuần niềm tin của tôn giáo Dothái ; khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô (= Agapê) nhờ tác động của Thánh Thần ; hiệp thông cùng toàn thể Hội Thánh thời Tân Ước ; Thánh Phaolô đã trình bày toàn bộ giáo lý của mình trên cơ sở Giao Ước Mới mà người gọi là: “Giới luật của Thần Khí”.
- GIAO ƯỚC MỚI ĐƯỢC LOAN BÁO TRONG CỰU ƯỚC.
A.GIAO ƯỚC MỚI ĐƯỢC TRÌNH BÀY NHƯ MỘT GIỚI LUẬT.
- Luật nội tâm, luật viết trên tâm lòng (Gr 31, 31-34).
Gr 31, 1: Công thức mở đầu Giao Ước.
Gr 31, 3: Giao Ước mới: Dấu chỉ tình yêu muôn đời.
Gr 31, 20: Giao Ước mới: tình yêu có mãnh lực xoáy động tâm can.
Gr 31, 22: Giao Ước mới: chính là việc Thiên Chúa dựng nên điều mới lạ: tình yêu không rời nhau, tình yêu mãi mãi bên nhau. Đó sẽ là con đường để Dân Chúa biết mà đến cùng Thiên Chúa.
Gr 31, 31: Giao Ước mới.
Gr 31, 32: Khác với Giao Ước cũ.
Gr 31, 32a: Ban luật của Thiên Chúa, luật nội tâm, luật viết trên tâm lòng (để không thể quên được).
Gr 31, 33b: Công thức của Giao Ước.
Gr 31, 34a: Mọi người sẽ biết Thiên Chúa.
Gr 31, 34b: Tha tội.
Phát xuất từ tình yêu, một tình yêu muôn đời, Giao Ước Mới được ban cho Dân Chúa. Giao Ước này khác với Giao Ước cũ, vì nó chính là Luật mới được ban cho Dân, Luật được ghi trên trái tim, ghi trong tâm khảm nhờ đó Dân Chúa biết Thiên Chúa và được ơn tha tội.
- Cắt bì tâm lòng.
Điều kiện để đón nhận Luật nội tâm, Dân Chúa phải cắt bì tâm lòng :
Gr 4, 4 : Hãy cắt bì lòng các ngươi !
Đnl 10, 16 : Cắt bì lòng các ngươi và đừng cứng đầu cứng cổ nữa !
Đnl 30, 6-14 : Đây không phải là việc của con người, mà là việc của Thiên Chúa.
Công việc do Thiên Chúa làm : tạo điều kiện để cho Dân Chúa trở nên dễ dạy, không còn cứng đầu cứng cổ với Thiên Chúa nữa.
- GIAO ƯỚC MỚI, MỘT VẤN ĐỀ THUỘC LÃNH VỰC TRÁI TIM VÀ THẦN KHÍ.
- Cắt bì tâm lòng (như trên)
- Tấm lòng mới, Thần Khí mới (Ed 36, 23-28).
Thần Khí mới chính là Thần Khí của Thiên Chúa.
Khoảng 30 năm sau Giêrêmia, xuất hiện ngôn sứ Êdêkiel. Ông đã giải thích sâu lời sấm của Giêrêmia về Giao Ước Mới. “Giới luật” mà Giêrêmia đã loan báo, Êdêkiel đã làm cho Dân Chúa hiểu rõ hơn khi nói : Giới luật, từ ngữ đó có thể làm cho dân hiểu lầm… vì nó phát xuất từ bên ngoài… nhưng đã nói “Giao Ước Mới” là giới luật nội tâm, giới luật mà Thiên Chúa ghi khắc vào bên trong con người. Êdêkiel đã thay từ “giới luật” bằng từ “Thần Khí” :
Ed 36, 26 : “Ta sẽ ban cho các ngươi một tấm lòng mới. Bên trong các ngươi Ta sẽ ban xuống một Thần Khí mới“.
Gr 31, 33 : “Ta sẽ đặt luật của Ta bên trong chúng”.
Ed 36, 27 : “Bên trong các ngươi, Ta sẽ ban xuống Thần Khí của Ta”.
Từ đó, giới luật nội tâm chính là Thần Khí của Giavê Thiên Chúa.
Trong Giao Ước cũ, Thiên Chúa ban Luật cho Dân ; trong Giao Ước Mới, Thiên Chúa ban Thần Khí của Người cho Dân.
- GIAO ƯỚC MỚI, MỘT VẤN ĐỀ THUỘC LÃNH VỰC TÌNH YÊU PHU PHỤ.
- Mối tình đầu của tuổi thanh xuân (Hs 2, 16-25 ; x. Rm 9, 25).
Hs 2, 1a : Con cái Israel sẽ sản sinh phát triển đông đảo như cát biển. Kết quả của tình yêu vợ chồng.
Hs 2, 1b : Không phải Dân Ta à con cái Thiên Chúa sống (Lô-ammi).
Hs 2, 3 : Dân của Ta à được dủ thương.
Hs 2, 14-15 : Bất trung và hối cải. Trở về với người chồng ban đầu.
Hs 2, 16-17 : “Cho nên, Ta sẽ dụ dỗ nó, đem nó vao sa mạc”. Nhắc lại mối tình đầu thời Xuất Hành.
Gr 2, 2-3 : Vị tình, Ta nhớ lại tiết nghĩa thiếu thời của ngươi, mối tình vào buổi đính hôn. Làm sao ngươi theo Ta trong sa mạc… Israel là của Thánh dành kính Giavê.
“Và kề lòng nó, Ta nói khó với nó”. Nói vào tim nó như những ngày của buổi đính hôn của thời thanh xuân, của mối tình đầu.
Hs 2, 18 : Ngươi sẽ gọi : “Chồng tôi”.
Hs 2, 20 : Giao Ước hoà bình, công việc của Đấng Messia.
Hs 2, 21 : Ta sẽ đính hôn với ngươi mãi mãi, Ta sẽ đính hôn với ngươi bằng công chính (khêsed), công minh, nhân Nghĩa, xót thương.
Hs 2, 22 : Ta sẽ đính hôn với ngươi bằng đức trung tín (khêsed) và ngươi sẽ biết (yada) Giavê.
Hs 2, 25: Ta sẽ đoái thương Lô-Rukhama. Ta sẽ nói với Lô-Ammi: ngươi là Dân Ta. Còn nó sẽ thưa: “Lạy Thiên Chúa tôi thờ”.
- Lòng chung thuỷ của Thiên Chúa (Ed 16, 8-14 x. Ep 5, 25-27).
Ed 16, 4-6: Israel – người con bị bỏ rơi.
Ed 16, 8-14: Ta đã thề với ngươi và Giao Ước với ngươi (Giao Ước vợ chồng – Sinai).
Ed 16, 15t: Sự bất trung của Israel.
Ed 16, 60: Ta sẽ nhớ Giao Ước Ta đã kết với ngươi vào những ngày thơ bé của ngươi ; Ta sẽ giữ vững Giao Ước cho ngươi đến muôn đời.
Ed 16, 62-63: Ta sẽ giữ vững Giao Ước của Ta với ngươi, và ngươi sẽ biết Ta là Giavê, ngõ hầu ngươi ghi nhớ … khi Ta Aân xá cho ngươi tất cả những gì ngươi đã từng làm – sấm của Đức Giavê.
Tóm lại, các bản văn Cựu Ước đã loan báo, đồng thời giải thích cho ta thế nào là “Giao Ước Mới”.
– Giao Ước Mới chính là một giới luật. Giới luật xuất phát và là dấu chỉ của một tình yêu muôn đời, được Thiên Chúa đóng dấu và ghi khắc, không phải trên bia đá hay bằng chữ viết, nhưng trong tâm khảm của Dân Chúa: nhờ đó, họ biết Thiên Chúa một cách tường tận, trọn vẹn, đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, biến ý muốn của Thiên Chúa làm tiêu chuẩn sống, luật sống cho mình. Mọi bức tường ngăn cách giữa họ và Thiên Chúa bị phá vỡ, vì: họ được cắt bì tâm lòng và được tha thứ mọi tội lỗi.
– Giới luật kỳ diệu đó chính là Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí tác động trên một tấm lòng mới.
– Từ đó, tương quan giữa Thiên Chúa và Dân là một tương quan tình yêu, tương quan ân nghĩa và trung thành – thuỷ chung như tương quan phu phụ, cha con…
- GIAO ƯỚC MỚI, GIỚI LUẬT CỦA THẦN KHÍ.
Những nội dung sâu xa của Giao Ước Mới mà các ngôn sứ đã loan báo được toàn Dân Chúa đón nhận và trông chờ.
Phaolô, “con người Dothái, sinh ra tại Tarsô, xứ Kilikia, đã được nuôi nấng trong thành này (Giêrusalem), đã thụ giáo dưới chân Gamaliel, lập theo khuôn phép nhặt nhiệm của Lề Luật cha ông, nhiệt tâm thờ Thiên Chúa” (Cv 22, 3 ; x. 26,4-5). Chính Phaolô, sau biến cố Đamas (Cv 9), đã đọc lại lịch sử Dân ông dưới ánh sáng mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, đã tiếp nối các ngôn sứ mà quả quyết: Giao Ước Mới mà Thiên Chúa đã ban cho mọi người qua cuộc khổ nạn, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, chính là Giới Luật mới, Giới Luật của Thần Khí.
- SỰ TỰ DO CỦA CON CÁI THIÊN CHÚA.
Khi ban giới luật nội tâm, luật viết trên tâm lòng (= Thần Khí của Thiên Chúa) cho Dân Chúa, thì Người cho họ điều kiện đầu tiên là khám phá ra chính mình là con cái của Thiên Chúa. Chính nhờ Thần Khí được đổ vào tâm hồn mà ta có thể hướng về Thiên Chúa và gọi Người bằng một danh hiệu thật là âu yếm: “Abba, Lạy Cha” (Gl 4, 6).
Đó là quyền nghĩa tử, quyền của người con, và nếu đã là con, tức không còn là nô lệ. Vì thế, nhờ Thần Khí, ta được hưởng sự tự do của con cái Thiên Chúa:
“Anh em đã được kêu gọi để được tự do” (Gl 5, 13) vì “Đâu có Thần Khí của Chúa thì có tự do” (2Cr 3, 17).
Để hiểu sự cao quý của quyền được tự do, Thánh Phaolô mời gọi ta so sánh hai Giao Ước , hai Giới Luật.
- Đối với người Dothái của Giao Ước cũ, thì tự doluôn gắn liền với Lề Luật ; Tự Do là nhờ Lề Luật.
Hãy xem lời giải thích của một thầy Rabbi Do Thái khi ông giới thiệu tự do của Dân cũ (liên quan đến lễ Vượt Qua):
“Sự việc giống như một nhà vua kia giải thoát người con của mình khỏi tù ngục, rồi nói với nó: Kể từ hôm nay, hằng năm con hay cử hành một ngày lễ ; ngày đó là ngày con ta từ vực sâu tối tăm được dẫn đến sự sáng ; từ xiềng xích gông cùm được dẫn đến sự sống ; từ kiếp nô lệ đến đời sống tự do ; từ cuộc sống bị áp bức đến ơn cứu độ”.
Cũng thế Thiên Chúa đã giải thoát Israel ra khỏi tù ngục, như lời Thánh Kinh đã nói: “Thiên Chúa kéo tù đày vào hưởng cảnh hanh thông” (Tv 68, 7), hoặc cũng như lời khác nói rằng: “Người kéo họ ra khỏi chốn tối tăm u ám, xiềng xích họ Người đã bật tung” (Tv 107, 14).
Như thế có nghĩa là: Thiên Chúa đã bật tung chiếc gông bằng sắt trên cổ Israel để ban cho họ chiếc gông Lề Luật ; Người đã giải thoát họ ra khỏi cảnh nô lệ để đem họ vào sự tự do, như có lời viết: “Các ngươi là những người con của Giavê Thiên Chúa của các ngươi” (Đnl 14, 1).
Vậy, người dân của Giao Ước cũ cũng ý thức họ là con của Thiên Chúa, được Thiên Chúa đem đến hưởng sự tự do dựa vào việc tuân giữ Lề Luật của Người: “Môsê lấy huyết mà rảy trên dân. Ông nói: Này là máu giao ước đã kết với các ngươi, thể theo mọi lời ấy” (tức thể theo Luật của Giao Ước) (Xh 24, 8).
- Trong khi đó, đối với người dân được lãnh nhận Thần Khí, lãnh nhận Đức Giêsu Kitô trong tâm hồn mình, Thánh Phaolô quả quyết: người đó sống trong Giao Ước mới thực hiện trong Máu Đức Giêsu Kitô.
Bởi thế, họ là Con của Thiên Chúa vì họ mang hình ảnh Thiên Chúa, khác nào Đức Giêsu mang hình ảnh của Chúa Cha nhờ lãnh nhận Thần Khí trong lúc đầu thai cũng như trong cuộc đời của Người. Họ được tự do va tự do này không chỉ hệ tại ở việc được tha thứ khỏi mọi tội lỗi mà còn tự do ngay cả đối với Lề Luật vốn là điều áp đặt từ bên ngoài.
Khi được tha thứ khỏi mọi tội lỗi, được khả năng không phạm tội (x. 1Ga), thì Lề Luật trở nên dư thừa đối với họ. Vì thế, thay vì ban Lề Luật, Thiên Chúa đã đổ Thần Khí của Người vào tâm khảm họ: “Luật Thần Khí ban sự sống trong Đức Kitô Giêsu đã cho ngươi được tự do thoát khỏi luật sự tội và sự chết” (Rm 8, 2).
Một cách cụ thể, Thánh Phaolô đưa ra hai hình ảnh thật sống động trong lịch sử Dân Chúa khi Ngài so sánh sự khác biệt cơ bản giữa Sara và Agar, một bên là chính thất tự do, một bên là tỳ nữ: Agar đã sinh cho Abraham một người con là Ismael, người con theo luật thường tình, xác thịt ; Sara nhờ bởi lời hứa, đã sinh cho Abraham Isaac, người con của lời hứa, người con trọn quyền thừa hưởng gia sản của cha, phát huy sản nghiệp của cha để miêu duệ trở nên đông đảo như sao trời cát biển (Gl 4, 21-30 ; St 15, 4).
- SỰ TÁC SINH BỞI THẦN KHÍ.
Thánh Phaolô đề cập đến sự sống phong phú của con người trong Giao Ước Mới một cách rất sâu xa. Nhờ tác động của Thánh Thần, họ được Phaolô xem như “Tác phẩm của Đức Kitô”, “bức thư của Đức Kitô”, bức thư viết “không phải bằng mực, nhưng là bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống ; không phải trên bia đá, mà là trên những bia lòng, bia thịt” (2Cr 3, 2-3).
Thần Khí luôn hoạt động, luôn tác sinh và Thần Khí là sự sống. Chỉ cần việc so sánh con người sống theo Lề Luật và sống dưới tác động của Thần Khí, ta có thể thấy tính chất sung mãn của Giao Ước Mới:
Giao Ước cũ (2Cr) – Bia đá – Chữ viết thì giết chết (3, 6) – Phục vụ án chết (3, 7) – Phục vụ án phạt (3, 9) – Ðiều chóng tàn (3, 11) – Cái màn còn rủ xuống khi đọc Giao Ước cũ (3, 14) – Vinh quang chóng tàn (3, 7) |
Giao Ước Mới (2Cr) – Tâm hồn bằng thịt – Thần Khí làm cho sống (3, 6) – Phục vụ giới Thần Khí (3, 8) – Phục vụ sự công chính (3, 9) – Ðiều còn mãi (3, 11) – Tối tăm hãy bật sáng. Chính người làm bật sáng nơi lòng chúng tôi (4, 6). – Vinh quang của Thiên Chúa (4, 6) – Nơi Nhan Thánh Ðức Kitô (4, 6). |
- MÔN SINH CỦA THIÊN CHÚA.
“Vậy cho nên, kẻ khinh miệt, ắt không khinh miệt một người, mà là chính Thiên Chúa, Đấng ban Thánh Thần của Chúa xuống trên anh em. Còn về tình huynh đệ, anh em không cần để ai viết cho anh em, vì chính anh em là môn sinh của Thiên Chúa, để biết yêu mến nhau” (1Tx 4, 8-9).
Ý tưởng này rõ ràng Thánh Phaolô muốn trích dẫn các sấm ngôn của Giêrêmia và Êdêkiel khi công bố Giao Ước Mới (Gr 31, 34 ; Ed 36, 27).
Môn sinh của Thiên Chúa phải ưu việt hơn môn sinh của Môsê. Môsê đào tạo ra những người công chính nhờ lề luật … Còn môn sinh của Thiên Chúa sẽ được Người “cắt bì tâm lòng” (Đệ nhị luật), được trao ban chính Thần Khí của Người để họ biết đường sống theo Luật Chúa (Eâdêkiel).
Tóm lại, môn sinh của Thiên Chúa chính là người học trò đón nhận trọn vẹn chính Tình Yêu, lòng mến của Người – Đức Giêsu Kitô – để lòng mến đó – Thần Khí của Đức Kitô – hoạt đông mạnh mẽ trong tâm hồn họ. Đó chính là lý do Thánh Phaolô đã tự nhận: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Đời sống của tôi lúc này trong thân xác, tôi sống nó trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì tôi (Gl 2, 20).
- GIỚI LUẬT CỦA THẦN KHÍ.
Được hưởng sự tự do của con cái Thiên Chúa, được Thần Khí tác sinh, được làm môn sinh của Thiên Chúa là để Thần Khí hướng dẫn mà “sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa” (1Tx 4, 1).
Ý muốn của Thiên Chúa, lòng của Thiên Chúa là “sự thánh hoá của anh em” (lTx 4, 3): “Thiên Chúa đã chọn anh em để được ơn cứu rỗi, nhờ sự thánh hoá của Thần Khí” (2Tx 2, 13).
Vì thế, Thánh Phaolô khuyến cáo bất cứ ai chối từ con đường này, bởi lẽ họ: “không khinh miệt một người, mà là chính Thiên Chúa, Đấng ban Thánh Thần của Người xuống trong anh em” (1Tx 4, 8).
“Ban Thánh Thần của Người xuống trong anh em”, đó là cách thế Thiên Chúa cư xử trong Giao Ước Mới; đó là hồng ân tạo điều kiện cho con người biết hướng dẫn đời sống của mình sao cho đẹp lòng Thiên Chúa – “biết yêu mến nhau” (1Tx 4, 9).
Với quan điểm đó, ta có thể nói: Thiên Chúa ban Thánh Thần của Người xuống trong lòng chúng ta để Thánh Thần trở nên Giới Luật, trở nên tiêu chuẩn, phương thế dạy ta biết sống đẹp lòng Thiên Chúa bằng cách chúng ta yêu thương nhau: “Yêu mến là chu toàn Lề Luật” (Rm 14, 10).
Thật vậy, một khi trong tâm hồn ta có Thánh Thần – nguồn tình yêu của Cha và Con – làm sao chúng ta không yêu thương được ? Nếu Thánh Thần trở nên giới luật, nếu Thánh Thần là động cơ mọi hành đông, thái độ và cả đời sống chúng ta, thì đời sống chúng ta, hoạt động của chúng ta chỉ là tình yêu, khác nào như Đức Giêsu Kitô Đấng “đã yêu mến các kẻ thuộc về Ngài còn trong thế gian, thì Ngài yêu mến họ đến cùng” (Ga 13, 1).
“Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). |
Tôi yêu (nhưng không phải tôi) mà là trong Thánh Thần Chính Ðức Kitô yêu qua con người của tôi. |
Qua Giao Ước Mới, với việc Thiên Chúa ban Thánh Thần, ta có thể nói : trước kia, Giavê Thiên Chúa đã dùng ngón tay Người mà viết luật trên bia đá, thì ngày nay, nhờ việc ban Thánh Thần, “ngón tay của Chúa Cha” (Digitus paternae dexternae) xuống trong chúng ta. Chính Người lại ghi khắc luật yêu thương của Người trên tấm bảng mới là “bia lòng của chúng ta” (2Cr 3, 3). Gm. Giuse Võ Đức Minh
2021
Linh đạo Inhã – Một cái nhìn tổng quan
Chuyển ngữ: Nam Văn
Hiệu đính: Trung Thu
Từ: ignatianspirituality.com
Linh đạo Inhã rất cụ thể. Đó là cách sống mối tương quan giữa ta với Chúa. Linh đạo ấy rất thực tế, không mơ hồ, là một lối sống hơn là một lối suy nghĩ hay niềm tin. Linh đạo Inhã được đặt theo tên thánh Inhaxio thành Loyola, một nhà quý tộc thế kỷ 16 và một thời đã từng là hiệp sĩ, người đã giúp xóa bỏ bức tường ngăn cách giữa những điều thánh thiêng và tất cả những điều khác mà ta làm. Hàng triệu người ngày nay sống theo linh đạo Inhã. Đó là con đường của sự độc đáo, duy nhất và một sự hiểu biết năng động về Thiên Chúa, về thế giới của Ngài cũng như về chính bản thân mình.
Linh đạo Inhã bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thánh Inhã nhìn nhận Thiên Chúa là tình yêu vô tận, là Đấng trọn tốt trọn lành luôn ban phát ơn phúc. Thánh nhân viết: “Tình yêu Thiên Chúa chiếu sáng trên tôi tựa như những tia nắng mặt trời. Tình yêu Thiên Chúa đổ xuống đầy tràn như nguồn mạch trào ra suối nguồn vô tận.” (Linh thao, số 237). Thiên Chúa hành động cá vị với từng người trong chúng ta và ban cho mỗi người một khả năng riêng, các mối tương quan cũng như các nhiệm vụ để hoàn thành. Những điều này được ban cho mỗi người từ tình yêu cá vị của Thiên Chúa và mời gọi ta đáp trả tình yêu ấy cách cá vị.
Thiên Chúa luôn hoạt động và không ngừng lao tác trong thế giới này. Ngài trở nên con người nơi Đức Giêsu thành Nazareth và đảo lộn một cách sâu rộng và vĩnh viễn đời sống của chúng ta. Linh đạo Inhã cho rằng: “Nếu bạn đang tìm kiếm Thiên Chúa, hãy nhìn xung quanh bạn.”
Thiên Chúa tha thiết yêu mến thế gian, nhưng thế gian lại bị gãy đổ. Thánh Inhã quan sát mặt đất và nhận thấy nhiều người sống không mục đích, ơ hờ, ghen ghét và giết chóc, rất nhiều người thiếu ăn, bệnh tật và hấp hối, rất nhiều người sống chật vật và mù quáng với bất kỳ ý nghĩa nào.
Thánh Inhã hình dung ra Ba Ngôi Thiên Chúa đang chăm chú quan sát thế giới bị đổ vỡ của chúng ta và nói rằng: “Chúng ta hãy cùng cộng tác vào công cuộc cứu chuộc loài người, hãy đáp lại tiếng kêu than của mọi loài thụ tạo”. Chúa Giêsu đến thế gian để cứu chuộc, chữa lành, đem đến bình an, đời sống phong phú, niềm vui và sự hiệp nhất.
Trong cái nhìn của thánh Inhã: “Chúa Kitô công bố rằng: Ước muốn của tôi là chinh phục cả thế giới, là vượt qua sự dữ bằng những điều lành, là chôn vùi ghen ghét bằng tình yêu, là chinh phục tất cả quyền lực của sự chết.” (Linh thao, số 95).
Thế giới cần những con người có óc tưởng tượng, tầm nhìn và quyết tâm khắc phục những thương tổn gây ra bởi lòng tham và thù hận. Giờ đây, chúng ta trở thành tâm điểm cho ánh nhìn của Thiên Chúa. Ngài nói với chúng ta: “Ai muốn theo Ta trong sứ vụ này, phải lao khổ cùng Ta, để một khi đã cùng Ta trong đau khổ, cũng được chia sẻ với Ta trong vinh quang.” Nói cách khác, Chúa Kitô kêu mời ta phụng sự Ngài; Ngài cần ta. Chúng ta sẽ trở nên những tông đồ trong sứ vụ chữa lành và cứu chuộc. Nhu cầu của thế giới là vô hạn, vì thế, ta có thể phục vụ bằng nhiều hình thức khác nhau. Mỗi chúng ta có một vị trí riêng biệt trong sứ mạng này, tham gia vào việc giúp đỡ như thánh Inhã đã từng, hay như cha Pedro Arrupe, Bề trên Cả Dòng Tên sống vào thế kỷ 20, đã nói rằng: “Chúng ta là những người nam và người nữ sống cho người khác.”
Đặc nét này của linh đạo Inhã thực sự rất thu hút vì nó trả lời cho câu hỏi căn bản: Tôi phải làm gì với cuộc sống của mình? Mục đích không phải là trở nên giàu có, được thán phục, được vui vẻ, hay là được thỏa mãn. Mục đích là để hiểu biết, để yêu mến và phụng sự Thiên Chúa như việc chúng ta cộng tác vào công trình của Chúa để cứu độ và chữa lành thế giới.
Vì mỗi người chúng ta phải nhận ra vai trò của mình trong sứ mạng này, nên không có gì ngạc nhiên khi linh đạo Inhã đề cập nhiều đến việc thực hiện các lựa chọn tốt lành. Nhiệm vụ của chúng ta là thoát khỏi tình trạng mà thánh Inhã gọi là “quyến luyến lệch lạc”. Những thứ ta nghĩ mình phải có để được hạnh phúc như tiền bạc, tình dục, quyền lực, một chỗ đứng trong xã hội, những người bạn hào nhoáng và tự do cá nhân. Những điều này tự bản chất là không xấu, nhưng chúng trở thành vấn đề khi chúng kiểm soát ta và giới hạn tự do của ta trong việc đưa ra những lựa chọn thực sự đáp ứng những khát vọng sâu thẳm nhất của mình.
Phân định theo Inhã giúp chúng ta thoát khỏi những quyến luyến và chọn lựa điều thực sự đem đến cho ta niềm vui. Thánh nhân chỉ cho ta cách để đối diện với những cảm xúc và những khát vọng sâu thẳm mà Thiên Chúa đã đặt để trong con tim mình. Nhờ phân định theo Inhã, chúng ta nhạy bén với sứ mạng của Chúa và hiểu được phận vụ của mình trong sứ mạng ấy.
Phân định là một tiến trình lâu dài. Ta muốn mở cánh cửa ư? Hãy cho Chúa một chút thời gian và để mối thân tình với Ngài được lớn lên. Chúng ta dần dần nhận ra rằng, những kế hoạch của Thiên Chúa thì tốt đẹp hơn của chúng ta. Chúng ta đáp lại cách quảng đại hơn. Chúng ta trở nên có khả năng yêu mến và phụng sự trong mọi sự.
Một linh đạo như vậy, nghĩa là luôn ý thức sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống thường ngày và tập trung phục vụ người khác, thì rất thực tiễn. Nó hàm chứa những câu hỏi như: Làm thế nào tôi có thể trở nên một người bạn, một người yêu hay một người cha người mẹ tốt hơn? Làm thế nào để tôi có thể giúp đỡ những người xung quanh tôi nhiều hơn? Tôi nên đối diện với đau khổ như thế nào? Đó là một linh đạo bao gồm những câu hỏi sâu xa nhất trong cuộc sống.
Trong thực tế, linh đạo Inhã giúp bạn tìm thấy Chúa trong mọi sự. Mọi sự đều là một phần của đời sống thiêng liêng: bạn bè, gia đình, cầu nguyện, những thực hành đức tin, nghề nghiệp, mối quan hệ và công việc tình nguyện.
Có hai chiếc hộp: một chiếc dành cho những điều thiêng liêng, và chiếc kia dành cho những điều còn lại. Thay vào đó là một thế giới được Thiên Chúa yêu thương hoàn toàn. Nếu ta liên đới trọn vẹn với thế giới của Ngài thì ta cần luôn luôn tương tác với Ngài. Với thánh Inhã thì điều này có nghĩa là ta cần nuôi dưỡng tư duy phản tỉnh trong cuộc sống nhiều bề bộn. Ta sẽ trở nên chiêm niệm trong hoạt động, trở nên những con người vừa ý thức về Thiên Chúa vừa mau mắn đáp lại Ngài.
Thường xuyên cầu nguyện theo thánh Inhã giúp ta trở nên chiêm niệm trong hoạt động. Chiêm niệm trong hoạt động là những người sống trong sự tĩnh lặng, thanh bình, sâu lắng bên trong. Những hoạt động của họ xuất phát từ tâm điểm sâu xa này. Đây là một đặc nét của linh đạo Inhã hấp dẫn chúng ta cách đặc biệt. Ai chẳng muốn một phương cách để kết nối với Chúa sau một ngày bận rộn hay nhiều áp lực?
Thánh Inhã nhìn Thiên Chúa là Đấng ban phát ơn lành, nghĩa là cầu nguyện theo Inhã gắn liền với cảm thức biết ơn sâu xa, một lời tạ ơn chân thành cho những ơn ban cụ thể trong ngày sống. Nói theo thánh Inhã là: “Ta tạ ơn Chúa vì những ân huệ nhận được.”
Vì thế, linh đạo Inhã là một linh đạo của con tim. Đó là linh đạo về việc tìm kiếm điều ta thực sự khao khát, về việc cộng tác vào công trình vĩ đại của Chúa để chữa lành thế giới. Đó là linh đạo của lòng biết ơn, và niềm khao khát đáp trả lời mời gọi yêu thương của Chúa để biết Ngài. Đó là linh đạo của tình yêu.
Cha Pedro Arrupe đã nói về điều đó theo cách này:
“Không gì thiết thực hơn việc tìm kiếm Thiên Chúa, hơn việc yêu cách trọn hảo và dứt khoát.
Điều gì bạn yêu mến, điều gì chiếm hữu trí tưởng tượng của bạn, sẽ có ảnh hưởng trên tất cả. Nó sẽ quyết định
Điều sẽ đưa bạn ra khỏi giường vào buổi sáng, điều bạn làm vào buổi tối,
việc bạn dùng thời gian cuối tuần như thế nào, thứ bạn đọc, những người bạn biết, điều làm tan vỡ trái tim bạn, và điều làm bạn ngạc nhiên với niềm vui và lòng biết ơn.
Hãy yêu, rồi ở lại trong tình yêu,
Và nó sẽ quyết định tất cả.”
2021
Nộp Thuế Cho Ðền Thờ
9.8 Thứ Hai tuần XIX TN
Mt 17, 22-27
Nộp Thuế Cho Ðền Thờ
Vừa biểu tỏ vinh quang và uy quyền Thiên Chúa qua cuộc biến hình và trừ quỷ (Mt 17, 1-8.1-20), Chúa Giêsu về với phận làm con trong kiếp nhân sinh. Ngài bình thản báo cho môn đệ biết con đường phía trước. Ngài chủ động đi trên con đường này bằng tất cả tự do của người con thảo hiếu với Chúa Cha mặc dù Ngài có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống mình (Ga 10, 18).
Là con người, là công dân, Chúa Giêsu sử dụng tự do với ý thức vì, với và cho người khác. Ngài dùng tự do của mình để đón nhận quy luật trần gian và tuân thủ việc đóng thuế nhằm tránh gây cớ vấp phạm cho người khác. Cho hay, tự do của Chúa Giêsu là tự do của một người con luôn hướng về Cha mình với tất cả lòng thảo hiếu và vâng phục, sẵn sàng làm tất cả để tỏ lộ tình yêu dành cho Cha, để làm vui lòng Cha.
Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái không những phải đóng thuế cho nhà nước tức là thuế dân sự, mà còn phải đóng thuế cho Ðền thờ nữa: ngoại trừ đàn bà, các thiếu niên và các nô lệ, tất cả những ai từ 20 tuổi trở lên đều phải nộp thuế để bảo trì và tu sửa Ðền thờ Giêrusalem.
Câu chuyện trong Tin Mừng hôm nay xẩy ra vào khoảng tháng 10, năm thứ hai cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu, tức là ít lâu sau biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi Thabor. Chúa Giêsu và các môn đệ trở lại Capharnaum, và ở đó, những người thu thuế đến yêu cầu Phêrô nộp thuế. Dĩ nhiên là Phêrô sẵn sàng nộp thuế.
Ca-phac-na-um là một thành miền Ga-li-lê. Khi Chúa Giêsu và các môn đệ đến thành này thì gặp những người thu thuế cho đền thờ. Đây là thuế hàng năm mà mỗi người Do thái đến tuổi, phải đóng thuế cho việc chi tiêu trong Đền thờ. Mỗi người sẽ phải nộp hai quan. Lúc này, Chúa Giêsu là người có danh tiếng và uy thế trong vùng, nên người Do Thái quan tâm và để ý xem Ngài có nộp thuế cho đền thờ không ? có chống lại những qui tắc của đền thờ không ?.
Họ hỏi ông Phêrô “ Thầy các ông không nộp thuế sao? ( c .24 ). Ông Phêrô đáp ngay: Có chứ. Điều này Phêrô khẳng định và xác định mạnh mẽ về danh phận con người của Chúa Giêsu. Ngài là người Do Thái, tuân giữ luật Môsê và nộp thuế đó là chuyện đương nhiên. Phêrô cho rằng ý nghĩ của mình đúng, nên ông trả lời chắc chắn như vậy. Ông không hỏi Chúa Giêsu xem ý Ngài thế nào và ông cũng không trả lời với những người đã hỏi ông : vì sao họ không hỏi trực tiếp Chúa Giêsu. Ông tin vào trực giác, vào cảm nhận của mình về Thầy mình.
Đó là một con người sống trong đất nước Do Thái, sinh trưởng trong phong tục, văn hoá và mang trong mình dòng máu Do Thái, thì ắt hẳn chuyện nộp thuế là chắc chắn rồi. Nhưng khi về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông. Ngài cất lời gợi mở cho ông về thiên tính của Ngài “ Anh nghĩ sao ? Vua chúa trần gian bắt ai nộp thuế ? Con cái hay người ngoài ?. Một câu hỏi chỉ là để xác định cho rõ. Một câu hỏi mà ta thấy ai có trí khôn cũng có thể trả lời được. Và Phêrô thưa chỉ có người ngoài nộp thuế mà thôi. Chúa Giêsu nhấn mạnh làm cho rõ hơn : Vậy con cái được miễn (c. 26). Ở đây Chúa Giêsu giới thiệu mình là Con Thiên Chúa, không cần phải nộp thuế cho đền thờ, nơi Thiên Chúa ngự trị, nơi con người dâng lễ vật lên Thiên Chúa.
Và Đức Giêsu nói tiếp: “Nhưng để khỏi làm gai mắt họ…”. Nếu Chúa Giêsu không nộp thuế theo lập luận Ngài là Con Thiên Chúa, thì người Do Thái sẽ cho Ngài là nói phạm thượng khi tự cho mình là Thiên Chúa. Đây chưa phải là lúc, là giờ mà Ngài bày tỏ chân tính của mình như Ngài ở trước toà Philatô. Lúc ấy Ngài nhận và tự xưng là Đấng Mêsia, là Vua (Lc 23,3) hoặc Ngài đã tuyên xưng mình là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa khi vị Thượng tế hỏi Ngài, đến độ ông ta phải xé áo mình ra vì cho rằng đó là lời nói phạm thượng (Mc 14,61-64). Vì chưa đến giờ Ngài về cùng Cha , nên Ngài nói tiếp… Anh ra biển thả câu… bắt cá… lấy bốn quan nộp thuế cho phần Thầy và phần anh. Tình tiết này khiến chúng ta thấy lý thú khi đọc.
Vì sao Chúa Giêsu không lấy tiền trong túi để nộp thuế ? Tại sao con cá có đồng tiền quan lại là con cá câu trước nhất? Qua những vấn đề được đặt ra chúng ta thấy Chúa Giêsu đang tỏ lộ dần thiên tính của Ngài. Ngài như biết trước vận mệnh, những điều xảy ra trong tương lai. Ngài chứng tỏ mình có khả năng trên mọi vật, mọi sự kiện. Tất cả như đang tiến hành theo kế hoạch của Ngài. Ngài là Đấng điều khiển dòng lịch sử này. Ngài là chủ thế giới muôn loài, là chủ lịch sử.
Khi Phêrô về tới nhà, Chúa Giêsu hỏi đón ông: “Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian lấy thuế của ai? Con cái mình hay người ngoài? Phêrô đáp: “Thưa, người ngoài. Chúa Giêsu liền bảo thế thì con cái được miễn”. Ðây cũng là một mạc khải, bởi vì qua câu: “Thế thì con cái được miễn”, Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế;bởi vì qua câu: “Thế thì con cái được miễn”, Chúa Giêsu muốn nói rằng xét về bản tính Thiên Chúa, Ngài không phải nộp thuế; nhưng xét về bản tính loài người, Ngài cũng tuân giữ việc nộp thuế cho Ðền thờ như bất cứ ai.
Tuy nhiên, Ngài nộp thuế bằng một phép lạ: Chúa Giêsu bảo Phêrô đi câu cá, bắt được con cá đầu tiên, trong miệng có một đồng bạc, đủ để nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô. Chúa không bảo Giuđa xuất quĩ mà nộp, cũng không bảo các phụ nữ đạo đức dâng cúng, nhưng Ngài đã làm phép lạ để các môn đệ tin vào quyền năng của Ngài.
“Bị nộp” và “nộp thuế” gợi lên những hành động bị bắt buộc. Chúa Giêsu “bị nộp” vào tay người đời và “nộp thuế” cho đền thờ Giê-ru-sa-lem. Những cái nộp này bên ngoài có vẻ là bị bắt buộc, nhưng thực ra là một sự tự nguyện từ bên trong. Chúa Giêsu bị bắt, bị giết không phải vì Người là một tội nhân đáng bị như thế, nhưng đó là điều Người tự nguyện đón nhận để thực hiện trọn vẹn ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu chịu nộp thuế không do tư cách Người là một công dân Do Thái có trách nhiệm làm nghĩa vụ đối với đền thờ, bởi vì đền thờ là nhà Thiên Chúa mà Người là Con Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu tự nguyện nộp thuế để “khỏi làm cớ cho người ta sa ngã.”
Nếu ngày xưa, người Do thái có bổn phận nộp thuế cho Ðền thờ để lo việc phụng sự Nhà Chúa, thì ngày nay trong Giáo Hội cũng có những cách đóng góp hay dâng cúng, đó cũng là một việc thờ phượng và là một sự chia sẻ cho những anh chị em nghèo khó. Chúng ta hãy nhận ra nét đặc biệt trong nhân cách của Chúa, khi hòa nhập vào nếp sống cụ thể của những người đồng thời với Ngài. Mầu nhiệm nhập thể đòi buộc Chúa phải chia sẻ trọn vẹn đời sống con người. Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Chúa, chấp nhận như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để trổ sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.
2021
Vị thánh mà chúng ta cần đến trong cơn đại dịch
Vị thánh mà chúng ta cần đến trong cơn đại dịch
Đại dịch Covid-19 đã cướp đi sinh mạng của nhiều người và tiếp tục lan tràn khắp thế giới, buộc nhiều người phải sống cách ly và ẩn mình. Thánh Giuse, cha nuôi của Đức Giêsu, đã sống một cuộc đời âm thầm, hơn bao giờ hết Ngài là vị thánh bảo trợ mà chúng ta cần đến trong những lúc khó khăn này.
Đại dịch Covid-19 đã cướp đi sinh mạng của nhiều người và tiếp tục lan tràn khắp thế giới, buộc nhiều người phải sống cách ly và ẩn mình. Thánh Giuse, cha nuôi của Đức Giêsu, đã sống một cuộc đời âm thầm, hơn bao giờ hết Ngài là vị thánh bảo trợ mà chúng ta cần đến trong những lúc khó khăn này.
Đức Giáo hoàng Phanxicô đã công bố Năm Thánh Giuse nhằm tôn kính một trong những vị thánh mà ngài yêu thích. Bằng Tông thư Với trái tim người cha (Patris Corde), Đức Giáo hoàng mời gọi Giáo hội hoàn vũ suy niệm và kêu cầu sự bảo trợ từ người cha nuôi của Đức Giêsu.
Mẫu gương và sự bảo trợ của thánh Giuse đến thật đúng lúc. Vào thời điểm mà đại dịch toàn cầu đã buộc hàng triệu người sống trong nhà, cách ly, và cô đơn, chúng ta có thể xem thánh Giuse như là khuôn mẫu của đời sống thầm lặng. Chúng ta cũng biết rằng thánh Giuse đã mất trước khi Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai; như vậy, chắc chắn người chồng của Đức Maria cũng đã quen với khổ đau. Vì thế, cũng có thể xem Ngài là đấng bảo trợ, cầu bầu cho chúng ta vì Ngài thấu hiểu cuộc chiến đấu của chúng ta với bệnh tật.
Nhưng chúng ta biết gì về đấng bảo trợ và đồng hành này? Giống như nhiều vị thánh vào những thời kỳ đầu của Giáo hội, chúng ta biết rất ít về thánh Giuse, ngoài vài dòng được nhắc đến trong các sách Tin mừng. Ngài thuộc dòng dõi vua Đavít và đã đính hôn với một thiếu nữ làng Nadarét. Khá bất ngờ khi biết tin Đức Maria mang thai, nhưng ông Giuse “là người công chính và không muốn tố giác bà” (Mt 1,19) như Tin mừng Matthêu thuật lại; Ngài đã định tâm hủy bỏ hôn ước cách kín đáo. Do đó, ngay cả trước khi Đức Giêsu chào đời, ông Giuse đã thể hiện tròn đầy lòng trắc ẩn và tha thứ.
Nhưng Thiên Chúa lại có những kế hoạch khác. Giống như tổ phụ Giuse trong tình huống khó khăn nơi sách Sáng thế, Thiên Chúa cũng dùng một giấc mơ để bày tỏ kế hoạch cứu độ cho người thợ mộc làng Nadarét. Trong giấc mơ, thiên thần cho thánh Giuse biết bí mật về Đức Maria: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Sau khi Đức Maria sinh con, cũng chính thiên thần đó bảo ông Giuse đưa Hài nhi và Mẹ Người sang Ai Cập để trốn vua Hêrôđê tàn ác. Và thánh Giuse đã vâng nghe.
Còn vài câu chuyện nữa về cậu Giêsu – bị lạc trong chuyến hành hương và được tìm thấy đang giảng dạy trong đền thờ – và rồi chúng ta biết đến quãng đời ẩn dật của Đấng Cứu thế. Tất cả những gì Tin mừng Luca nói về 18 năm đó là thế này: “Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
Thời gian thánh Giuse
Những năm đó là thời gian của thánh Giuse – thời gian dành để chăm sóc và dạy nghề thợ mộc cho người con nuôi. Nơi xưởng mộc của ông Giuse ở Nadarét, có lẽ Đức Giêsu đã được chỉ dẫn về các nguyên liệu thô của nghề mộc: loại gỗ nào thích hợp nhất để làm bàn ghế, loại gỗ nào tốt nhất để làm ách và cày. Là người giàu kinh nghiệm, ông Giuse có lẽ đã dạy cho anh thợ học nghề này cách đóng đinh bằng búa, cách khoan thẳng và sâu vào ván, và cách bào phẳng mép gỗ hay thanh đà.
Thánh Giuse có lẽ cũng đã truyền lại cho Đức Giêsu những giá trị cần có để trở thành một người thợ mộc giỏi. Bạn cần kiên nhẫn (để đợi gỗ khô và có thể sử dụng), khả năng phán đoán chính xác (để đảm bảo rằng dây dọi đã thẳng), sự kiên trì (để chà nhẵn mặt bàn) và sự trung thực (để tính giá hợp lý cho mọi người).
Cùng với người thầy dạy nghề của mình, anh thanh niên Giêsu đã lao động và xây dựng, đóng góp suốt quãng thời gian đó cho lợi ích chung của làng Nadarét và các làng mạc xung quanh. Không khó để hình dung những đức tính mà Đức Giêsu học được từ người thầy của mình – kiên nhẫn, phán đoán chính xác, kiên trì và trung thực – đã giúp Ngài chu toàn tốt sứ vụ sau này. Thánh Giuse đã giúp trang bị cho Đức Giêsu điều mà nhà thần học Dòng Tên John Haughey gọi là “khí cụ cần thiết nhất để cứu độ thế giới.”
Cái chết sớm của ông Giuse
Tuy nhiên gần như ngay sau khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai thì thánh Giuse biến mất – ít nhất là trong các trình thuật Tin mừng. Điều đáng chú ý là ông Giuse không có tên trong số các khách mời dự tiệc cưới Cana, đánh dấu khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Phải chăng ông đã mất trước khi người con trai đến tuổi trưởng thành?
Vài năm trước, trong một cuộc triển lãm nghệ thuật tại nhà thờ Chánh tòa thánh Gioan của Giáo hội Trưởng lão ở thành phố New York, tôi đã bắt gặp một bức chân dung có tên là “Cái chết của thánh Giuse.” Nơi bức chân dung lớn, họa sĩ Francisco Goya vẽ một ông Giuse ốm yếu nằm trên giường. Đứng bên cạnh là anh thanh niên Giêsu, có lẽ khoảng 16 hay 17 tuổi, không để râu, mặc áo choàng dài, chăm chú nhìn thánh Giuse. Ngồi bên giường là Mẹ Maria.
Bức tranh của Goya ghi lại thật đẹp nỗi buồn bao trùm trước cái chết sớm của thánh Giuse. Nỗi buồn như vậy cũng đã xảy ra với chúng ta nhiều tháng qua, nỗi buồn bao quanh cái chết của rất nhiều người do dịch Covid.
Theo truyền thống, thánh Giuse được kêu cầu như là bổn mạng “kẻ mong sinh thì” [kẻ chết lành]. Tuy nhiên cái chết của thánh Giuse có lẽ không phải không gây bất an đối với Đức Giêsu hay Mẹ Maria. Các sách Tin mừng không kể gì về việc than khóc. Không chỗ nào cho biết nỗi sầu khổ của Mẹ Maria, hay nỗi đau buồn của Đức Giêsu. Thế nên Thánh gia cũng giống như bao gia đình ngày nay đang đau buồn khi mất cha mẹ, ông bà, cô bác, anh chị em và con cái trong cơn đại dịch. Họ cũng đã gánh chịu phần lớn nỗi đau trong cảnh cách ly, nhưng lại không thấy xuất hiện trên bất kỳ bản tin nào.
Cuộc đời âm thầm của thánh Giuse
Cuộc đời âm thầm của thánh Giuse cũng có thể nói với những người bị áp đảo trong cơn đại dịch này; họ tự hỏi liệu Chúa có ở với họ, có nhìn thấy họ không. Chỉ xuất hiện thoáng qua trong các sách Tin mừng, không nói một lời nào, thánh Giuse đã sống một cuộc đời âm thầm phục vụ Thiên Chúa, một cuộc sống mà chúng ta gần như không hề biết đến. Tuy nhiên, cuộc sống của Ngài có giá trị vô cùng, đầy những hành động yêu thương âm thầm, kín đáo, dù không được ghi lại. Cuộc đời của thánh Giuse nói với tất cả chúng ta: “Chúa nhìn thấy tất cả.”
Cuộc đời âm thầm của Ngài thật gần gũi với hàng triệu con người đang nỗ lực tìm cách vượt qua cơn đại dịch: những nhân viên y tế ở tuyến đầu, mà những hy sinh âm thầm không được biết đến ngay cả với gia đình của họ. Những cha mẹ đơn thân không thể tâm sự cùng ai nỗi lo lắng khôn nguôi về con cái mình.
Những người con lớn tuổi có cha mẹ già đang sống trong nhà dưỡng lão, lo sợ về sự lây lan của dịch bệnh giữa những cư dân cao tuổi. Nhân viên kiểm soát, tài xế công cộng, thợ bảo trì, hầu như không đủ sống trước cuộc khủng hoảng kinh tế trong năm, giờ đây không có cách nào để “làm việc tại nhà.” Linh mục dù đã cử hành vô số đám tang cho các nạn nhân Covid và gia đình của họ, lo lắng không thể an ủi họ như mong muốn. Các bệnh nhân Covid đang chết trong cô đơn, than khóc trong thất vọng và đau khổ, tự hỏi không biết điều gì đang xảy ra.
Có rất nhiều cuộc đời âm thầm, biết bao hành động yêu thương không được nhìn thấy trong cơn đại dịch này. Biết bao lời cầu nguyện thầm kín cất lên đến tận thiên đàng. Người bạn thanh sạch của Đức Maria và là cha nuôi của Đức Giêsu, thấu hiểu tất cả.
Lạy thánh Giuse, đấng bảo trợ những cuộc đời âm thầm, đấng bảo trợ trong cơn đại dịch này, xin cầu cho chúng con, năm nay và mãi mãi.
James Martin, S.J.
Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển