2021
ĐTC Phanxicô: Giáo hội phải làm chứng cho tầm quan trọng của vẻ đẹp và văn hóa
Phát biểu tại lễ khánh thành Phòng triển lãm của Thư viện Vatican, vào chiều thứ Sáu, 05/11/2021, đi từ cội nguồn chung của hai từ “đẹp” và “tốt”, Đức Thánh Cha nói: “Giáo hội phải làm chứng cho tầm quan trọng của vẻ đẹp và văn hóa”.
Để quảng diễn hai từ trên, Đức Thánh Cha trích một câu trong Tin Mừng Gioan “Tôi là Mục Tử tốt lành” (Ga 10,11). Theo Đức Thánh Cha, câu này cũng có nghĩa là “Tôi là Mục Tử đẹp”. Và trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu cũng nói đến vẻ đẹp của các môn đệ: Ngài thách thức các ông chiếu sáng, làm cho người ta thấy nét đẹp công việc của các ông như một cách thức ngợi khen Thiên Chúa: ‘Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời’(Mt 5,16)”.
Phòng triển lãm
Đức Thánh Cha mong ước ánh sáng của Thư viện tỏa sáng, không chỉ nhờ khoa học, nhưng còn nhờ vẻ đẹp. Ngài chỉ rõ rằng: nét đẹp không phải là ảo ảnh thoáng qua bề ngoài hay một vật trang trí, trái lại, nét đẹp phải xuất phát từ cội nguồn của sự tốt lành, sự thật và công lý, là những từ đồng nghĩa với từ vẻ đẹp.
Phòng triển lãm
Đức Thánh Cha nói thêm: “Nhưng chúng ta không được quên suy nghĩ và nói về cái đẹp, bởi vì tâm hồn con người không chỉ cần cơm bánh, không chỉ cần những gì đảm bảo sự tồn tại trước mắt. Tâm hồn còn cần văn hóa, điều chạm đến tâm hồn, đưa con người đến gần hơn phẩm giá sâu sắc của mình. Vì điều này, Giáo hội phải làm chứng cho tầm quan trọng của vẻ đẹp và văn hóa”.
Phòng triển lãm
Ca ngợi công việc tốt đẹp của Thư viện Vatican, Đức Thánh Cha tập trung vào cuộc triển lãm của họa sĩ người Ý, Pietro Ruffo, một con đường suy tư về thông điệp Fratelli tutti. Tất cả được hình thành như một cuộc đối thoại giữa cổ xưa và hiện tại, giữa một di sản vô giá được lưu giữ trong năm thế kỷ lịch sử và nghệ thuật biểu diễn hiện nay. Đức Thánh Cha nói rằng: “Tôi thích cuộc đánh cược này về sự đối thoại”. Ngài nói: “Cuộc sống là nghệ thuật gặp gỡ. Các nền văn hóa bị bệnh khi chúng trở nên tự tham chiếu, khi chúng mất đi sự ham hiểu biết và mở ra với người khác”.
Phòng triển lãm
Đức Thánh Cha lưu ý: “Nhân loại cần những bản đồ mới để khám phá ý nghĩa của tình huynh đệ, tình bạn xã hội và công ích”. Ngài nhấn mạnh tính cấp thiết của điều mà ngài định nghĩa là “một vẻ đẹp mới”. Ngài còn nhắc lại trách nhiệm “giữ cho cội nguồn, ký ức, luôn vươn tới hoa trái” bằng cách cùng nhau mơ ước những “bản đồ mới”.
Triển lãm tạm thời sẽ mở cửa cho công chúng đến ngày 25/2/2022 vào các ngày thứ Ba và thứ Tư hàng tuần từ 16:00 đến 18:00 giờ. Vé có thể được mua tại trang web của Thư viện vatican (website of the Apostolic Library).
Nguồn: vaticannews.va/vi/
2021
Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI
Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI (2021 – 2023)
Hướng đến một Hội thánh hiệp hành:
Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ
Tài liệu Chuẩn bị
Chữ viết tắt
DV Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum (18-11-1965)
EC Phanxicô, Tông hiến Episcopalis communion (15-9-2018).
EG Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (24-11-2013).
FT Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3-10-2020).
GS Công đồng Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes (7-12-1965).
ITC Ủy ban Thần học Quốc tế
LG Công đồng Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium (21-11-1964).
LS Phanxicô, Thông điệp Laudato si’ (24-5-2015).
UR Công đồng Vaticanô II, Sắc lệnh về Đại kết (21-11-1964).
- Hội thánh của Thiên Chúa được triệu tập trong Thượng Hội đồng. Với tên gọi “Hướng đến một Hội thánh hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ”, con đường này sẽ khai mạc trọng thể vào các ngày 9-10 tháng 10 năm 2021 tại Rôma và vào ngày 17 tháng 10 sau đó tại mỗi Giáo hội đặc thù. Kỳ Đại Hội Thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục, vào tháng 10 năm 2023[1], sẽ là giai đoạn cơ bản và được tiếp nối bởi giai đoạn do các Giáo hội địa phương thực hiện (x.EC, 19-21). Với việc triệu tập này, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi toàn thể Giáo hội suy tư về một chủ đề mang tính quyết định đối với đời sống và sứ vụ của mình: “Con đường hiệp hành này chính là con đường Thiên Chúa mong đợi nơi Giáo hội của thiên niên kỷ thứ ba”[2]. Hành trình này, theo ý hướng “canh tân” Giáo hội được Công đồng Vaticanô II khởi xướng, chính là một ân phúc mà cũng là một nhiệm vụ: bằng cách cùng nhau cất bước hành trình và cùng nhau suy nghĩ về hành trình đã thực hiện, Hội thánh sẽ có thể học biết, qua kinh nghiệm của mình, đâu là những tiến trình có thể giúp Hội thánh sống hiệp thông, thực hiện sự tham gia và mở ra cho việc thi hành sứ vụ. Quả thực, việc chúng ta “cùng nhau cất bước hành trình” là điều thể hiện và chứng tỏ rõ nhất bản chất của Hội thánh như là dân Chúa lữ hành và truyền giáo.
- Câu hỏi căn bản thúc đẩy và hướng dẫn chúng ta là: Hiện nay việc “đồng hành cùng nhau” này đang diễn ra thế nào tại các bình diện khác nhau (từ bình diện địa phương đến bình diện hoàn vũ), cho phép Hội thánh loan báo Tin Mừng đúng theo sứ vụ Hội thánh được ủy thác; và Chúa Thánh Linh mời gọi chúng ta thực hiện những bước nào để thăng tiến như một Hội thánh hiệp hành? Để cùng nhau giải đáp được câu hỏi này đòi hỏi chúng ta phải lắng nghe Chúa Thánh Thần là Đấng như gió “thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu” (Ga 3,8), phải mở ngỏ cho những điều lạ lùng mà Chúa Thánh Thần chắc chắn sẽ chuẩn bị cho chúng ta trên suốt hành trình. Như thế, một sức năng động được khơi dậy cho phép chúng ta bắt đầu thu hoạch một số hoa trái của cuộc hoán cải hiệp hành, sẽ dần dần chín mùi. Đây là những mục tiêu hết sức quan trọng đối với phẩm chất của đời sống Hội thánh và đối với việc hoàn thành sứ vụ loan báo Tin Mừng mà tất cả chúng ta đều tham gia nhờ Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Chúng tôi xin nêu ra ở đây những nguyên tắc chính, làm cho tính hiệp hành được thể hiện nơi hình thức, phong cách và cơ cấu của Giáo hội:
– Nhắc nhở cách thức trước đây, trong lịch sử Chúa Thánh Thần đã mở đường dẫn lối cho Giáo hội và ngày nay kêu gọi chúng ta cùng nhau làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa.
– Sống tiến trình Giáo hội mang tính tham gia và quy tụ, vốn cống hiến cho mọi người – đặc biệt những người, vì những lý do khác nhau, cảm thấy mình là những kẻ ngoài lề – cơ hội tự bày tỏ và được lắng nghe hầu góp phần vào việc xây dựng dân Thiên Chúa.
– Nhận biết và trân quý tính đa dạng phong phú của những ân huệ và đặc sủng mà Chúa Thánh Thần rộng rãi tặng ban vì lợi ích của cộng đoàn và toàn thể gia đình nhân loại.
– Thử nghiệm những cách thức thi hành trách nhiệm chung trong việc loan báo Tin Mừng và nỗ lực xây dựng một thế giới tươi đẹp hơn và đáng sống hơn.
– Xem xét cách thức thể hiện trách nhiệm và quyền bính trong Giáo hội cũng như các cơ cấu kiểm soát chúng, vạch trần và ra sức hoán cải các định kiến cùng những thực hành lệch lạc không phát xuất từ Tin Mừng.
– Làm cho cộng đồng Kitô giáo thành một chủ thể đáng tín nhiệm và là một đối tác đáng tin cậy trong hành trình đối thoại xã hội, chữa lành, hòa giải, liên kết và tham gia, tái thiết nền dân chủ, cổ vũ tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội.
– Canh tân và củng cố những mối tương quan giữa các thành viên trong cộng đồng Kitô hữu cũng như giữa các cộng đồng và các nhóm xã hội khác, chẳng hạn những cộng đồng tín hữu của các tông phái và tôn giáo khác, những tổ chức xã hội dân sự, những phong trào quần chúng, v.v…
– Cổ vũ việc đề cao và thủ đắc những thành quả kinh nghiệm hiệp hành mới đây trên bình diện thế giới, khu vực, quốc gia và địa phương.
- Tài liệu Chuẩn bị này nhằm phục vụ cho hành trình hiệp hành, đặc biệt như một công cụ tạo thuận lợi cho giai đoạn đầu tiên của việc lắng nghe và thỉnh ý dân Chúa trong các Giáo hội đặc thù (tháng 10 năm 2021 – tháng 4 năm 2022), với hy vọng giúp khơi gợi các ý tưởng, thúc đẩy năng lực và óc sáng tạo của tất cả những ai sẽ tham gia vào hành trình này, và nhờ thế, làm cho việc chia sẻ thành quả các nỗ lực của họ được thuận lợi. Nhắm mục đích này, Tài liệu 1/ bắt đầu bằng cách phác thảo một số đặc điểm nổi bật của bối cảnh đương thời, 2/ giải thích ngắn gọn các nguồn tài liệu tham khảo thần học căn bản giúp hiểu biết và thực hành đúng đắn về tính hiệp hành, 3/ đề xuất một số đoạn Kinh Thánh làm chất liệu cho việc nguyện ngắm và sự suy tư cầu nguyện trong suốt hành trình, 4/ minh thị một số viễn tượng để từ đó đọc lại những kinh nghiệm sống tinh thần hiệp hành, 5/ trình bày một số cách thức khai triển việc đọc lại các kinh nghiệm này trong cầu nguyện và chia sẻ. Để hướng dẫn cụ thể cách tổ chức các việc trên, Tài liệu này còn được kèm theo một Cẩm nang mang tính phương pháp luận và có sẵn trên trang mạng dành cho Thượng Hội đồng này[3]. Trang mạng này cống hiến một số nguồn tài liệu để đào sâu chủ đề về tính hiệp hành, cũng như nguồn hỗ trợ cho Tài liệu Chuẩn bị này; trong số những nguồn tài liệu đó, chúng tôi xin lưu ý hai nguồn đã nhiều lần được nhắc đến:Diễn từ Mừng kỷ niệm 50 năm ngày thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục, được Đức Thánh Cha Phanxicô phát biểu vào ngày 17 tháng 10 năm 2015, và văn kiện Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh, do Ủy ban Thần học Quốc tế soạn thảo và ấn hành năm 2018.
I. LỜI KÊU GỌI CÙNG NHAU CẤT BƯỚC HÀNH TRÌNH
- Con đường hiệp hành diễn ra trong bối cảnh lịch sử được ghi dấu bởi những biến chuyển lớn trong xã hội và bởi một giai đoạn then chốt trong đời sống Giáo hội không thể bỏ qua được: chính trong những biến động phức tạp của bối cảnh này cùng những căng thẳng và những mâu thuẫn của nó, chúng ta được mời gọi “tìm hiểu tường tận các dấu chỉ của thời đại và giải thích những dấu chỉ ấy dưới ánh sáng Tin Mừng” (GS, 4). Chúng ta phác họa ở đây một vài yếu tố chủ yếu của khung cảnh toàn cầu có nối kết chặt chẽ nhất với chủ đề của Thượng Hội đồng, nhưng sự mô tả này phải được phong phú hóa và hoàn tất ở bình diện địa phương tùy theo bối cảnh tại đó.
- Thảm kịch toàn cầu như đại dịch Covid-19, “có lúc đã khơi lại rõ ràng cái cảm thức chúng ta là một cộng đồng thế giới đang chèo chống trên cùng một con thuyền, ở đó điều gây tổn hại cho người này cũng gây tổn hại cho người khác. Phải nhớ rằng nếu có được cứu, thì tất cả cùng được cứu, chứ chẳng có chuyện chỉ riêng ai đó được cứu” (FT, 32). Đồng thời, đại dịch đã phơi bày rõ nét những bất bình đẳng và bất công vốn đã hiện hữu: nhân loại dường như càng bị chao đảo bởi những tiến trình đại chúng hóa và phân mảnh; thân phận bi thảm của các di dân trên khắp mọi miền thế giới chứng tỏ những hàng rào phân rẽ gia đình nhân loại duy nhất vẫn sừng sững dương cao. Thông điệpLaudato si’ và Fratelli tutti cho thấy rõ những thương tích hằn sâu ngang dọc thân mình nhân loại, và chúng ta có thể tìm đọc những phân tích này để nghe thấy tiếng kêu than của những người nghèo và của trái đất cũng như nhận ra những hạt mầm hy vọng và tương lai, nhờ Chúa Thánh Thần, vẫn tiếp tục đâm chồi nảy lộc ở thời đại chúng ta: “Đấng Tạo Hoá không bỏ mặc chúng ta. Ngài không bao giờ bỏ dở kế hoạch yêu thương của Ngài. Ngài không hối tiếc vì đã tạo dựng nên chúng ta. Nhân loại vẫn có khả năng cùng hợp tác xây dựng ngôi nhà chung” (LS, 13).
- Tình trạng này, bất kể nhiều dị biệt rất lớn, liên can đến toàn thể gia đình nhân loại, thách thức khả năng của Hội thánh trong việc đồng hành cá nhân và cộng đồng để nhìn lại những kinh nghiệm tang thương, qua đó cho phép chúng ta vạch trần vô số những an toàn giả tạo và vun trồng niềm hy vọng và tin tưởng nơi lòng nhân hậu của Đấng Tạo Hóa và sự tốt lành trong công trình tạo dựng của Ngài. Tuy nhiên, chúng ta không thể che dấu một thực tế rằng Hội thánh đang phải đương đầu với sự thiếu đức tin và suy đồi của chính mình. Cách riêng, chúng ta không thể quên nỗi đau khổ mà các trẻ vị thành niên và những người dễ bị tổn thương phải chịu “do việc lạm dụng tình dục, lạm dụng quyền bính và lạm dụng lương tâm của nhiều giáo sĩ và người thánh hiến”[4]. Chúng ta không ngừng bị chất vấn “trong tư cách là dân Chúa, phải gánh lấy nỗi đau của các anh chị em mình đã bị thương tổn trong thân xác và tinh thần”[5]. Đã quá lâu, Hội thánh không biết lắng nghe cho đủ tiếng kêu than của các nạn nhân ấy. Đây là những vết thương trầm trọng khó chữa lành, vì thế chúng ta không bao giờ cầu xin tha thứ cho đủ; và những vết thương này là những chướng ngại, đôi khi rất lớn, ngăn cản chúng ta tiến lên theo hướng “cùng nhau cất bướchành trình”. Toàn thể Hội thánh được mời gọi giải gỡ gánh nặng của nền văn hóa thấm nhiễm chủ nghĩa giáo sĩ trị do lịch sử để lại, cùng với những thói tục thi hành quyền bính để mọi thứ lạm dụng khác (quyền lực, kinh tế, lương tâm, tình dục) có cơ hội bám vào. Không thể có chuyện “hoán cải hoạt động của Hội thánh mà lại không có sự tham gia tích cực của tất cả mọi thành phần dân Chúa”[6], vì thế chúng ta hãy cùng nhau cầu xin Chúa ban “ơn hoán cải và xức dầu bên trong để có thể biểu lộ sự hối lỗi trước tội lạm dụng này, và can đảm quyết tâm chống lại những tội ác đó”[7].
- Bất chấp những bất trung của chúng ta, Chúa Thánh Thần tiếp tục hoạt động trong lịch sử và biểu lộ quyền năng tác sinh của Ngài. Chính trong những dấu vết khắc sâu bởi đủ mọi thứ khổ đau mà gia đình nhân loại và dân Chúa phải hứng chịu, những cách diễn tả mới của đức tin và những hành trình mới đang được triển nở, chúng không những có khả năng giải thích các biến cố theo quan điểm thần học, mà còn có khả năng khám phá trong thử thách những lý do để tái thiết con đường sự sống của Kitô hữu và Hội thánh. Thực tế có không ít Giáo hội đã bắt đầu thực hiện những cuộc gặp gỡ và đưa ra những tiến trình ít nhiều mang hình thức thỉnh ý dân Chúa. Đây là lý do để hy vọng, tràn trề hy vọng. Ở đâu có dấu ấn của phong cách hiệp hành, ở đó cảm thức về Hội thánh triển nở, và sự tham gia của tất cả mọi người đem lại cho đời sống Hội thánh một sức năng động mới. Ước muốn trở nên những thành tố chính trong lòng Giáo hội từ phía giới trẻ và yêu cầu đánh giá đúng hơn về vai trò phụ nữ, cũng như để họ có không gian tham gia vào sứ vụ của Giáo hội, vốn đã được các Thượng Hội đồng 2018 và 2019 lưu ý, đều đã được xác nhận. Cũng theo hướng này, mới đây đã có việc thiết lập thừa tác vụ Giáo lý viên cho giáo dân cũng như thừa tác vụ Đọc sách và Giúp lễ cho phụ nữ.
- Chúng ta không thể không biết đến những hoàn cảnh đa dạng của các cộng đồng Kitô giáo sinh sống tại những vùng khác nhau trên thế giới. Bên cạnh những quốc gia nơi Giáo hội tiếp nhận phần lớn dân số và là đại diện tham chiếu văn hóa cho toàn xã hội, còn có những quốc gia khác, ở đó người Công giáo là thiểu số; trong một số quốc gia đó, tín hữu Công giáo cùng với những Kitô hữu khác phải chịu những sự bách hại đôi khi rất tàn bạo, và nhiều khi phải tử đạo. Nếu, một đàng, não trạng thế tục hóa thống trị có xu hướng loại trừ tôn giáo khỏi không gian công cộng, thì đàng khác, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo vốn không tôn trọng tự do của những người khác, lại nuôi dưỡng những hình thức bất bao dung và bạo lực, cũng có thể thấy những hình thức này nơi cộng đồng Kitô giáo và trong những mối tương quan của cộng đồng này với xã hội. Không hiếm khi những Kitô hữu có các thái độ y như thế, cũng xúi giục chia rẽ và chống đối, ngay cả trong Giáo hội. Cũng phải để ý đến cách thức trong đó những chia rẽ len lỏi khắp xã hội, dội lại trong Giáo hội và trong những tương quan của Giáo hội với xã hội, là những chia rẽ gây ra bởi những lý do sắc tộc, chủng tộc, giai cấp hoặc các hình thức phân tầng xã hội khác hoặc bạo lực văn hóa và cơ cấu. Những cảnh trạng này tác động sâu xa đến ý nghĩa của diễn ngữ “cùng nhau cất bướchành trình” và những khả năng cụ thể thực hiện điều này.
- Trong bối cảnh này, hiệp hành được coi là con đường chính dành cho Hội thánh, vốn được kêu gọi canh tân dưới tác động của Chúa Thánh Thần và nhờ lắng nghe Lời Chúa. Khả năng hình dung ra một tương lai khác cho Giáo hội và cho các định chế của Giáo hội xứng tầm sứ vụ mà Giáo hội nhận lãnh, tùy thuộc phần lớn vào quyết định khởi động những tiến trình lắng nghe, đối thoại và biện phân cộng đồng, trong đó tất cả và mỗi người đều có thể tham gia và góp phần. Đồng thời, sự chọn lựa “cùng nhau cất bước hành trình” là một dấu hiệu mang tính tiên tri đối với gia đình nhân loại, đang cần một dự án chung có khả năng mưu cầu thiện hảo cho tất cả mọi người. Một Hội thánh có khả năng hiệp thông, có tình huynh đệ, có sự tham gia và bổ trợ, trung thành với những gì Hội thánh công bố, sẽ có thể đến bên người nghèo và người bé mọn cũng như cất lên tiếng nói thay cho họ. Để “cùng nhau cất bước hành trình”, chúng ta cần để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn, nhờ đó có được tinh thần hiệp hành thực sự, bằng cách can đảm và tự do dấn bước vào tiến trình hoán cải vốn là điều thiết yếu cho “cuộc đổi mới liên tục mà [Giáo hội] luôn cần đến bao lâu Giáo hội còn là một định chế nhân loại ở trần gian này” (UR, 6; x.EG, 26).
II. MỘT HỘI THÁNH HIỆP HÀNH TỪ NỀN TẢNG
- “Con đường hiệp hành này là chính con đường Thiên Chúa mong đợi nơi Hội thánh của thiên niên kỷ thứ ba. Điều Chúa yêu cầu chúng ta, theo một nghĩa nào đó, hoàn toàn đã bao hàm trong chính hạn từ ‘Synod’”[8], vốn “là một từ cổ kính trong Truyền thống của Giáo hội, ý nghĩa của nó được rút ra từ những nội dung sâu xa nhất của Mạc khải”[9]. Chính “Chúa Giêsu tự giới thiệu Ngài là ‘con đường, sự thật và sự sống’ (Ga 14, 6)” và “các kitô hữu, những người đi theo Ngài, ban đầu được gọi là ‘những môn đệ của Con Đường đó’ (xCv 9, 2; 19, 9.23; 22,4; 24, 14.22)”.[10] Trong viễn tượng này, tính hiệp hành không chỉ là việc cử hành các cuộc gặp gỡ trong Giáo hội và các cuộc hội họp của giám mục, hay chỉ là vấn đề quản trị nội bộ của Giáo hội; hiệp hành còn “chỉ phương cách sống và hành động (modus vivendi et operandi) đặc trưng của Giáo hội, dân Thiên Chúa, vốn biểu lộ và thực hiện cách cụ thể bản chất hiệp thông của mình khi mọi thành viên của Giáo hội đồng hành cùng nhau, tập hợp lại trong đại hội và cùng tham gia tích cực vào sứ vụ phúc âm hóa của Giáo hội”.[11] Như thế, các trụ cột của một Hội thánh hiệp hành, như tiêu đề của Thượng Hội đồng đề ra thì nối kết với nhau: hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Trong chương này, chúng ta sẽ giải thích ngắn gọn một số tham chiếu thần học cốt yếu làm nền tảng cho quan điểm đó.
- Trong thiên niên kỷ thứ nhất, “cùng nhau cất bước hành trình”, vốn có nghĩa là thực hiện hiệp hành, là cách thức hành động thông thường của Giáo hội – được hiểu như “Dân được tập hợp lại trong sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”[12]. Đối lập với những người phân rẽ nhiệm thể Giáo hội, các Giáo phụ đã nêu lên sự hiệp thông của các Giáo hội khắp đó đây trên thế giới, điều mà Thánh Augustinô gọi là “concordissima fidei conspiratio”[13]nghĩa là “sự đồng tâm nhất trí trong đức tin của tất cả những người đã chịu phép Rửa”. Đây chính là nguồn cội của việc thực hành rộng rãi tính hiệp hành ở mọi cấp độ của Hội thánh – địa phương, giáo tỉnh và hoàn vũ – mà Công đồng Chung là sự thể hiện rõ nét nhất của nó. Trong viễn cảnh Hội thánh này, được gợi hứng bởi nguyên tắc mọi người được tham gia vào sinh hoạt của Giáo hội, Thánh Gioan Kim khẩu dám nói rằng: “Hội thánh và Synod là hai từ đồng nghĩa”.[14] Ngay cả trong thiên niên kỷ thứ hai, khi Giáo hội nhấn mạnh hơn vào chức năng phẩm trật, cách thức tiến hành này vẫn không bị mai một: nếu, ở thời Trung cổ và ở thời Cận đại, bên cạnh việc tiến hành các Công đồng Chung, việc tiến hành các Công nghị giáo phận và giáo tỉnh cũng đã được chứng thực rõ ràng, thì khi cần phải xác định những chân lý phải tin, các vị giáo hoàng đều mong muốn tham khảo ý kiến các giám mục để biết đức tin của toàn thể Hội thánh, nại đến thế giá của cảm thức đức tin (sensus fidei) của toàn thể dân Chúa, vốn “không thể sai lầm khi tin” (infallibile in credendo) (EG, 119).
- Công đồng Vaticanô II, vốn gắn bó với truyền thống năng động này, nhấn mạnh rằng “Thiên Chúa muốn thánh hoá và cứu độ con người không như những cá nhân riêng rẽ không chút liên đới với nhau, nhưng Ngài muốn làm cho họ thành một dân tộc để họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong thánh thiện” (LG, 9). Các thành viên của dân Chúa hợp nhất bằng phép Thanh tẩy và “mặc dù theo ý Đức Kitô, một số người được đặt làm thầy dạy, làm người phân phát các mầu nhiệm, và làm mục tử, vì lợi ích của những người khác, nhưng tất cả mọi người đều thực sự bình đẳng về phẩm giá và về hoạt động chung của toàn thể các tín hữu, trong việc xây dựng thân mình Đức Kitô” (LG, 32). Do đó, tất cả những người đã chịu phép Thanh tẩy, những người tham gia vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Đức Kitô, “khi thi hành các đặc sủng đa dạng và phong phú Chúa ban cho theo ơn gọi và tác vụ của họ”[15], đều là những chủ thể tích cực loan báo Tin Mừng, trong tư cách cá nhân cũng như với tư cách toàn thể dân Chúa.
- Công đồng nhấn mạnh cách thế qua đó, nhờ được xức dầu Thánh Thần khi chịu phép Rửa, toàn thể các tín hữu “không thể sai lầm trong đức tin, họ biểu lộ thuộc tính đặc biệt này qua cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa, khi ‘từ các giám mục cho đến những người bé mọn nhất trong các tín hữu’ đều đồng thuận về những điều liên quan đến đức tin và phong hóa” (LG, 12). Chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn các tín hữu “tới sự thật toàn vẹn” (Ga 16,13). Nhờ tác động của Ngài, “truyền thống phát xuất từ các Tông đồ được tiếp nối trong Giáo hội”, để dân Thiên Chúa có thể lớn lên vì “các sự việc và lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, hoặc nhờ sự chiêm niệm và học hỏi của những tín hữu đã luôn suy tưởng các điều ấy trong lòng (x. Lc 2,19.51), hoặc nhờ sự thông hiểu về những cảm nghiệm thiêng liêng, hoặc nhờ sự giảng dạy của những người đã lãnh nhận cách chắc chắn đoàn sủng về chân lý cùng với việc kế vị các Tông đồ trong chức giám mục” (DV 8). Quả thực, dân Chúa, được các mục tử tập hợp lại, gắn bó với kho tàng thánh thiêng Lời Chúa được ủy thác cho Hội thánh, kiên trì không ngừng trong giáo huấn của các Tông đồ, trong tình hiệp thông huynh đệ, trong việc bẻ bánh và trong lời cầu nguyện, “đến nỗi có sự đồng tâm nhất trí lạ lùng giữa các mục tử và tín hữu đối với việc gìn giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin đã được truyền lại” (DV, 10).
- Các mục tử, được Thiên Chúa cắt đặt như “những người bảo vệ, giải thích và chứng nhân đích thực cho đức tin của toàn thể Hội thánh”[16], nên không sợ lắng nghe đoàn chiên được giao phó cho mình. Việc thỉnh ý dân Chúa không hàm ý là Hội thánh tiếp thu những trào lưu dân chủ dựa trên nguyên tắc đa số, bởi lẽ lý do của việc tham gia vào mọi tiến trình hiệp hành là niềm khao khát được chia sẻ sứ vụ loan báo Tin Mừng, chứ không phải là những xung đột lợi ích. Nói khác đi, đây là một tiến trình mang tính Hội thánh vốn chỉ có thể được thực hiện “giữa lòng một cộng đồng có cấu trúc phẩm trật”[17]. Chính trong mối liên hệ tích cực giữa cảm thức đức tin của dân Chúa và chức năng giáo huấn của các mục tử mà sự đồng tâm nhất trí trong cùng một đức tin của toàn thể Hội thánh được thể hiện. Mọi tiến trình hiệp hành, trong đó các giám mục được mời gọi phân định những gì Chúa Thánh Linh nói với Hội thánh, không phải chỉ có các ngài đơn độc, nhưng bằng cách lắng nghe dân Chúa vốn “cũng tham dự vào chức vụ ngôn sứ của Đức Kitô” (LG, 12), đều là hình thức hiển nhiên của việc “cùng nhau cất bước hành trình”, nhờ đó Hội thánh lớn mạnh. Thánh Biển Đức lưu ý rằng: “Chúa thường mạc khải con đường khôn ngoan nhất phải theo”[18]cho những ai không nắm giữ chức vụ quan trọng trong cộng đoàn (trong trường hợp này, là người trẻ nhất). Như vậy, các giám mục nên quan tâm tiếp cận với hết mọi người, để trong lúc tuần tự thực hiện tiến trình hiệp hành, điều Thánh Phaolô Tông đồ khuyến cáo các cộng đoàn được thể hiện: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ lấy” (1 Tx 5,19-21).
- Ý nghĩa cuộc hành trình mà tất cả chúng ta được mời gọi thực hiện, trước hết, chính là ý nghĩa hành trình tái khám phá khuôn mặt và hình thức của một Hội thánh hiệp hành, trong đó “mỗi người đều có điều gì đó để học biết. Giáo hữu, giám mục đoàn, giám mục Rôma: tất cả đều lắng nghe nhau, và tất cả đều lắng nghe Chúa Thánh Thần, ‘Thần Khí sự thật’ (Ga 14,17), để biết ‘điều Thần Khí nói với các Hội Thánh’ (Kh 2,7)”[19]Vị Giám mục Rôma, như nguyên lý và nền tảng sự hiệp nhất Giáo hội, yêu cầu tất cả các giám mục và tất cả các Giáo hội địa phương – trong và từ Giáo hội địa phương này mà có một Giáo hội Công giáo duy nhất (x. LG, 23) – tự tin và can đảm dấn bước trên con đường hiệp hành. Trong hành trình “cùng nhau cất bước hành trình” này, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta khám phá ra rằng việc hiệp thông, vốn kết hiệp các ân ban, đặc sủng, và tác vụ khác nhau lại, là để thi hành sứ vụ: Hội thánh hiệp hành là Hội thánh “ra đi”, Hội thánh truyền giáo là “Hội thánh luôn mở rộng cửa” (EG, 46). Điều này bao hàm lời mời gọi làm sâu sắc thêm mối tương quan với các Giáo hội và các cộng đoàn Kitô hữu khác mà chúng ta được liên kết bởi một phép Rửa duy nhất. Đàng khác, viễn tượng “cùng nhau cất bước hành trình” thì rộng rãi hơn và bao trùm toàn thể nhân loại, trong đó chúng ta cùng chia sẻ “vui mừng và hy vọng, u sầu và lo âu của con người ngày nay” (GS, 1). Hội thánh mang tính hiệp hành là dấu chỉ tiên tri, nhất là cho cộng đồng các quốc gia không có khả năng đề xuất một dự án chung cho phép theo đuổi thiện ích của mọi người: ngày nay đối với Hội thánh, thực hành tính hiệp hành là phương thức hiển nhiên nhất để trở thành “bí tích phổ quát của ơn cứu độ” (LG, 48), “dấu chỉ và phương tiện hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và hợp nhất với toàn thể nhân loại” (LG, 1).
III. LẮNG NGHE KINH THÁNH
- Thần Khí Thiên Chúa soi sáng và ban sức sống cho việc “cùng nhau cất bước hành trình” của các Hội thánh cũng chính là Thần Khí hoạt động trong sứ vụ của Đức Giêsu, được hứa ban cho các Tông đồ và các thế hệ môn đệ hằng biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Theo lời hứa của Chúa Giêsu, Thần Khí không chỉ xác nhận tính liên tục của Tin Mừng Chúa Giêsu, mà còn làm sáng tỏ những chiều sâu luôn mới mẻ trong mạc khải của Ngài và soi dẫn các quyết định cần thiết để trợ lực Hội thánh trên cuộc hành trình này (x. Ga 14,25-26; 15,26-27; 16,12-15). Do đó, thật thích đáng khi tiến trình xây dựng Hội thánh hiệp hành được truyền cảm hứng bởi hai “hình ảnh” trong Kinh Thánh. Hình ảnh đầu tiên hiện lên rõ nét khi diễn ra “khung cảnh cộng đồng” vốn luôn gắn liền với hành trình loan báo Tin Mừng; còn hình ảnh kia lại đề cập đến kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần, nhờ đó Phêrô và cộng đồng sơ khởi nhận ra được nguy cơ của việc đặt ra những hạn chế phi lý trong việc chia sẻ đức tin. Kinh nghiệm hiệp hành của việc cùng nhau cất bước hành trình, khi theo Chúa Giêsu và vâng phục Thần Khí, sẽ có thể nhận được nguồn cảm hứng mạnh mẽ qua việc suy niệm hai thời điểm này của mạc khải.
Chúa Giêsu, đám đông, các Tông đồ
- Theo cách thức Chúa Giêsu vẫn thường tự mạc khải như toàn bộ Tin Mừng cho biết, ta thấy hiện ra một khung cảnh độc đáo trong cấu trúc cơ bản của mạc khải, khi Chúa Giêsu loan báo sự xuất hiện của Nước Thiên Chúa. Khung cảnh này chủ yếu bao gồm ba tuyến nhân vật (và một tuyến nhân vật thêm vào). Tuyến nhân vật trước tiên, đương nhiên là Chúa Giêsu, nhân vật chủ đạo tuyệt đối có vai trò khởi xướng, Ngài rao giảng lời và tỏ lộ những dấu chỉ cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến, “không thiên vị người nào” (x. Cv 10, 34). Bằng nhiều cách, Chúa Giêsu đặc biệt chú ý đến những người “xa cách” Thiên Chúa và những người bị cộng đồng “loại trừ” (người tội lỗi và người nghèo, nói theo ngôn ngữ Tin Mừng). Bằng lời nói và hành động của mình, nhân danh Chúa Cha và trong quyền năng Chúa Thánh Thần, Ngài ban ơn giải thoát khỏi sự dữ và ơn hoán cải mang lại niềm hy vọng. Mặc dầu những lời mời gọi của Chúa và những đáp trả của con người rất đa dạng, nhưng ta thấy có đặc điểm chung này: đức tin luôn nâng cao giá trị con người. Thật vậy, lời cầu xin của họ được lắng nghe, những khó khăn của họ nhận được sự trợ giúp, tấm lòng quảng đại sẵn sàng của họ được đề cao, phẩm giá của họ được Thiên Chúa nhìn nhận và được cộng đồng phục hồi.
- Trên thực tế, người ta sẽ không thể hiểu được công cuộc loan báo Tin Mừng và sứ điệp cứu độ nếu Chúa Giêsu không kiên trì mở ra những cuộc đối thoại với lượng thính giả đông đảo nhất có thể, mà các sách Tin Mừng gọi là đám đông, nghĩa là toàn bộ những ai đi theo Ngài và đôi khi, ngay cả đeo đuổi Ngài với hy vọng được một dấu lạ và một lời cứu độ: đó chính là tuyến nhân vật thứ hai của khung cảnh mạc khải. Tin Mừng không chỉ được công bố cho một số ít người được soi sáng hoặc tuyển chọn. Những người đối thoại với Chúa là “dân chúng” trong đời thường, là “bất cứ ai” mang thân phận con người, được Ngài cho trực tiếp gặp gỡ ân phúc của Thiên Chúa và lời gọi đến hưởng ơn cứu độ. Bằng cung cách khiến cho những người chứng kiến phải ngạc nhiên và đôi khi công phẫn, Chúa Giêsu chấp nhận đối thoại với hết những ai thuộc về đám đông đó: Ngài lắng nghe lời phản bác tha thiết của người phụ nữ Canaan (x. Mt 15,21-28), không chấp nhận bị loại trừ vì không được Chúa thi ân; Ngài chẳng ngại bắt chuyện với người phụ nữ Samari (x. Ga 4,1-42), bất chấp thân phận của nàng vốn bị coi là chẳng ra gì về mặt xã hội cũng như tôn giáo; Ngài thôi thúc người mù từ bẩm sinh biểu lộ hành vi đức tin cách tự do và với lòng biết ơn (x. Ga 9) trong khi tôn giáo chính thức đã kể anh thuộc hạng người vô phúc.
- Một số người theo Chúa Giêsu cách minh nhiên hơn, sống đúng ý nghĩa của từ “môn đệ”, trong khi những người khác lại được khuyên trở về với cuộc sống đời thường: tuy nhiên, tất cả đều làm chứng rằng chính sức mạnh đức tin đã cứu chữa họ (x. Mt 15, 28). Trong số những người theo Chúa Giêsu, nổi bật nhất là các Tông đồ, những người ngay từ đầu Ngài đã đích thân kêu gọi, rồi giao nhiệm vụ làm trung gian đầy uy thế giữa đám đông dân chúng với mạc khải và sự xuất hiện của Nước Thiên Chúa. Tuyến nhân vật thứ ba xuất hiện ở khung cảnh này không nhờ việc chữa lành hay hoán cải, nhưng vì đáp ứng lời kêu gọi của Chúa Giêsu. Việc tuyển chọn các Tông đồ không phải là đặc ân phong ban một chức quyền với lãnh địa riêng có tính phân tán mà là ân sủng của một thừa tác vụ ban phúc lành và tình huynh đệ có tính quy tụ. Nhờ ân huệ Thánh Thần của Chúa Phục Sinh, họ sẽ bảo toàn địa vị của Chúa Giêsu mà không thay thế Người: không đặt các lăng kính để lọc bớt sự hiện diện của Người nhưng làm cho việc gặp gỡ Người được trở nên dễ dàng.
- Chúa Giêsu, đám đông đủ mọi hạng người, các Tông đồ: đây là hình ảnh và là mầu nhiệm mà Hội thánh phải không ngừng chiêm ngắm và đào sâu để có thể trở nên chính mình ngày một hơn. Không một ai trong ba tuyến nhân vật này có thể rời khỏi khung cảnh mạc khải này. Nếu Đức Giêsu vắng mặt và ai khác thế chỗ, Giáo hội sẽ trở thành một thứ giao kèo giữa các Tông đồ và đám đông, để rồi cuộc đối thoại của họ sẽ kết thúc bằng những âm mưu của trò chơi chính trị. Nếu không có các Tông đồ, là những người được Chúa Giêsu trao quyền và Chúa Thánh Thần chỉ dạy, thì mối tương quan với chân lý Tin Mừng sẽ bị phá vỡ và đám đông sẽ chỉ còn thấy Chúa Giêsu như một huyền thoại hoặc như một ý thức hệ, cho dù họ có đón nhận hay bác bỏ Ngài. Nếu không có đám đông, mối tương quan giữa các Tông đồ và Chúa Giêsu sẽ suy thoái thành một thứ tôn giáo mang hình thức giáo phái và tự quy ngã, đồng thời việc loan báo Tin Mừng sẽ mất đi ánh sáng của nó, vốn chỉ đến từ Thiên Chúa, Đấng tự tỏ mình cho nhân loại và từng người để ban ơn cứu độ cho họ.
- Cũng còn một tuyến nhân vật phản diện “thêm vào”, mang đến khung cảnh này sự chia rẽ quỷ quyệt giữa ba tuyến nhân vật kia. Trước cảnh gây vấp ngã của thập giá một số môn đệ bỏ đi, còn đám đông thì nay thế này mai thế khác. Âm mưu gây chia rẽ – và do đó cản trở con đường chung – cũng bộc lộ dưới những hình thức nghiêm nhặt của tôn giáo, bó buộc của luân lý còn gắt gao hơn cả lệnh truyền của Chúa Giêsu, hoặc dưới những hình thức quyến rũ của một thứ khôn ngoan chính trị thế gian, tự cho là hữu hiệu hơn sự biện phân các thần trí. Để thoát khỏi các mưu chước lừa dối của “tuyến nhân vật thứ tư” này, cần phải thường xuyên hoán cải. Biểu trưng cho vấn đề này là câu chuyện về viên đại đội trưởng Cornêliô (x. Cv 10), xảy ra trước “Công đồng” Giêrusalem (x. Cv 15) vốn là điểm tham chiếu chủ yếu cho Hội thánh hiệp hành.
Một động năng kép của sự hoán cải: Phêrô và Cornêliô (Cv 10)
- Đoạn này trước hết tường thuật lại việc hoán cải của Cornêliô, thậm chí ông còn nhận được một loại “truyền tin”. Cornêliô là người ngoại giáo, dường như là dân Rôma, một viên bách quản (sĩ quan cấp bậc thấp) của đội quân chiếm đóng, vốn hay sử dụng bạo lực và lạm quyền. Thế mà ông lại chuyên cần cầu nguyện và hay bố thí, nghĩa là vun trồng mối tương quan với Thiên Chúa và chăm lo cho người chung quanh. Một thiên sứ bất ngờ đã đến tư gia, gọi đích danh ông và thúc giục ông sai phái – động từ chỉ sứ vụ! – gia nhân của mình tới Giaphô để gọi mời – động từ chỉ ơn gọi! – Tông đồ Phêrô. Câu chuyện sau đó trở thành trình thuật về việc hoán cải của Tông đồ này. Chính ngày hôm đó, ông Phêrô đã nhận được một thị kiến: có tiếng nói ra lệnh cho ông giết và ăn các con vật, trong đó có những loài bị coi là không thanh sạch. Phêrô trả lời dứt khoát: “Lạy Chúa, không thể được!” (Cv 10, 14). Ông nhận ra chính Chúa đang nói với mình, nhưng ông vẫn kiên quyết từ khước, vì lệnh này phá bỏ những điều luật của Torah, vốn là phần cốt yếu đối với căn tính tôn giáo của ông, đồng thời thể hiện cách hiểu về sự tuyển chọn tạo sự khác biệt, hàm ý phải tách khỏi và loại trừ các dân tộc khác.
- Trong khi Tông đồ Phêrô đang hết sức bối rối và tự hỏi những điều vừa xảy ra có ý nghĩa gì, thì gia nhân của Cornêliô vừa kịp đến, Thần Khí cho Phêrô biết họ là những kẻ chính Ngài đã sai đến. Câu Phêrô trả lời họ làm gợi nhớ lời của Chúa Giêsu ở Vườn Dầu: “Tôi đây chính là người các ông đang tìm” (Cv 10, 21). Đây là một cuộc hoán cải thực sự, một cuộc vượt qua đau đớn nhưng mang lại vô vàn hoa trái, ra khỏi những phạm trù văn hóa và tôn giáo của bản thân. Tông đồ Phêrô chấp nhận ăn chung với dân ngoại thứ thức ăn mà trước đây ngài đã luôn coi là bị cấm, vì đã nhận ra đó một phương tiện sống và hiệp thông với Thiên Chúa và tha nhân. Chính trong sự gặp gỡ tha nhân, tiếp đón họ, đồng hành với họ, bước vào nhà họ mà ngài nhận ra ý nghĩa của thị kiến của mình: không có người nào là bất xứng dưới mắt Thiên Chúa, và sự khác biệt do được tuyển chọn không hàm ý một sự ưu tiên mang tính loại trừ, nhưng là việc phục vụ và trở nên chứng tá ở tầm mức toàn thế giới.
- Cornêliô và Tông đồ Phêrô, cả hai cùng lôi kéo người khác vào hành trình hoán cải của mình, làm họ trở thành bạn đồng hành với mình. Hoạt động tông đồ hoàn thành thánh ý Thiên Chúa bằng cách tạo ra những cộng đồng, phá bỏ các hàng rào và thúc đẩy các cuộc gặp gỡ. Lời nói giữ vai trò trung tâm trong cuộc gặp gỡ giữa hai nhân vật chính. Cornêliô khởi đầu bằng cách chia sẻ kinh nghiệm mình đã trải qua. Tông đồ Phêrô lắng nghe ông và, đến lượt mình, lại lên tiếng để tường thuật lại những gì đã xảy ra cho mình, làm chứng sự gần gũi của Chúa, Đấng đến gặp gỡ từng người để giải thoát họ khỏi những gì cầm giữ họ trong sự dữ và làm băng hoại nhân tính họ (x. Cv 10, 38). Cung cách thông đạt này cũng tương tự cung cách Tông đồ Phêrô dùng khi ở Giêrusalem, khi những tín hữu thuộc giới cắt bì trách cứ ông và tố cáo ông đã vi phạm những quy định truyền thống, là điều có vẻ họ hết sức lưu ý trong khi chẳng lưu tâm gì đến sự tuôn đổ của Thần Khí: “Ông đã vào nhà những kẻ không cắt bì và cùng ăn uống với họ!” (Cv 11, 3). Vào thời khắc xung đột đó, Tông đồ Phêrô kể lại những gì đã xảy đến với ông và những phản ứng hoang mang, bối rối và chống đối của ông. Chính điều này đã giúp cho những người đang đối thoại với ông, thoạt đầu rất hung hăng và cố chấp, chịu lắng nghe và đón nhận những gì đã xảy ra. Ở đây Kinh Thánh sẽ góp phần giải thích ý nghĩa của sự kiện này, cũng như sau đó ở “Công đồng” Giêrusalem, qua một quá trình biện phân mà điều cốt yếu là cùng nhau lắng nghe Chúa Thánh Thần.
IV. HIỆP HÀNH BẰNG HÀNH ĐỘNG: NHỮNG NẺO ĐƯỜNG THỈNH Ý DÂN CHÚA
- Nhờ Lời Chúa soi dẫn và dựa vào Truyền thống, con đường hiệp hành bén rễ sâu vào đời sống cụ thể của dân Chúa. Trên thực tế, nó cho thấy một đặc điểm và cũng là một nguồn lực lạ thường: chính tính hiệp hành vừa là mục đích vừa là phương pháp của con đường hiệp hành này. Nói cách khác, nó thiết lập một loại công trường hoặc kinh nghiệm dò đường để có thể bắt đầu thu hoạch ngay những hoa trái của sự năng động mà việc hoán cải tiệm tiến theo hướng hiệp hành mang lại cho cộng đoàn Kitô hữu. Mặt khác, con đường này chỉ có thể cậy dựa vào những kinh nghiệm hiệp hành đã trải qua, ở những bình diện khác nhau trong Giáo hội và với những mức độ cảm xúc khác nhau: những điểm mạnh và thành tựu cũng như những giới hạn và khó khăn của các kinh nghiệm này mang lại những yếu tố có giá trị cho việc biện phân hướng đi để tiếp tục lên đường. Dĩ nhiên, ở đây, chúng ta muốn nói đến những kinh nghiệm do hành trình hiệp hành hiện tại mang lại, nhưng cũng muốn nói đến tất cả những kinh nghiệm trong đó các hình thức “cùng nhau cất bước hành trình” đã và đang được trải nghiệm trong đời sống hàng ngày, ngay cả khi thuật ngữ hiệp hành này không được biết đến hoặc không được sử dụng.
Câu hỏi căn bản
- Như đã đề cập ở phần đầu, dưới đây là câu hỏi căn bản hướng dẫn việc thỉnh ý dân Chúa:
Hội thánh hiệp hành “cùng nhau cất bước hành trình”, khi loan báo Tin Mừng: Việc “cùng nhau cất bước hành trình” hiện đang diễn ra thế nào trong Giáo hội địa phương của anh chị em? Để Hội thánh được lớn lên trong việc “cùng nhau cất bước hành trình”, Thần Khí đang mời gọi chúng ta thực hiện những bước đi nào?
Để trả lời, anh chị em được mời gọi:
- a) hãy tự vấn: câu hỏi căn bản trên gợi nhớ những kinh nghiệm nào trong Giáo hội địa phương của anh chị em;
- b) hãy đọc lại ý nghĩa sâu xa của những kinh nghiệm này: Chúng đã gợi lên niềm vui nào? Chúng gặp những khó khăn và trở ngại nào? Chúng phơi trần những thương tích nào? Có thể học được điều gì từ các kinh nghiệm này?
- c) hãy thu thập các thành quả để chia sẻ: Tiếng Chúa Thánh Thần vang dội nơi đâu qua những kinh nghiệm này? Người đang yêu cầu chúng ta điều gì? Đâu là những điểm phải khẳng định, những viễn cảnh nên thay đổi, các bước cần thực hiện? Chúng ta ghi nhận được sự đồng thuận ở những nơi nào? Những nẻo đường nào đang mở ra cho Giáo hội địa phương của chúng ta?
Các biểu hiện khác nhau của tính hiệp hành
- Trong cầu nguyện, suy tư và chia sẻ được câu hỏi căn bản gợi ý, nên ghi nhớ ba bình diện, trên đó tính hiệp hành được biểu hiện như một “chiều kích cấu thành Giáo hội”[20].
– Bình diện phong cách, với phong cách này hằng ngày Giáo hội sống và làm việc, qua đó thể hiện bản chất của mình là dân Chúa đang cùng đồng hành và tập họp trong cộng đoàn do Chúa Giêsu quy tụ nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần để loan báo Tin Mừng. Phong cách này được thấy rõ qua “việc cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa và cử hành Bí tích Thánh Thể, tình hiệp thông huynh đệ, tinh thần đồng trách nhiệm và sự tham gia của toàn thể dân Chúa trong đời sống và sứ vụ, trên mọi cấp độ và sự khác biệt giữa các thừa tác vụ và các vai trò”[21];
– Bình diện những cơ cấu của Giáo hội và những quy trình trong Giáo hội, cũng được xác định theo quan điểm thần học và giáo luật, trong đó bản chất hiệp hành của Giáo hội được diễn tả theo hướng định chế ở các cấp độ địa phương, vùng miền và hoàn vũ;
– Bình diện những diễn trình và sự kiện hiệp hành trong đó Giáo hội được triệu tập bởi vị hữu trách có thẩm quyền, theo những thủ tục cụ thể do kỷ luật của Giáo hội xác định.
Mặc dù xét về quan điểm luận lý, chúng có khác biệt, nhưng ba bình diện này liên kết với nhau và phải có sự nhất quán với nhau, nếu không sẽ gây ra và lan truyền những thứ phản chứng khiến cho sự khả tín của Giáo hội bị xói mòn. Trên thực tế, nếu các cơ cấu và các tiến trình trong Giáo hội không mang phong cách hiệp hành, thì phong cách này dễ dàng biến chất từ bình diện ý định và ước muốn thành bình diện khoa trương, trong khi nếu các diễn trình và sự kiện không được sinh động hóa bởi một phong cách thích hợp, thì chúng sẽ hóa ra những thủ tục trống rỗng.
- Hơn nữa, khi đọc lại kinh nghiệm, cần ghi nhớ rằng có thể hiểu việc “cùng nhau cất bước hành trình” từ hai viễn tượng khác nhau vốn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Viễn tượng thứ nhất là nhìn vào đời sống nội bộ của Giáo hội địa phương và mối tương quan giữa các thành phần tạo thành Giáo hội này (trước hết và trên hết là giữa các tín hữu và các mục tử, đồng thời qua những tổ chức và hội đoàn hiện hành được giáo luật quy định, bao gồm cả công nghị giáo phận) và các cộng đồng (đặc biệt là cộng đồng giáo xứ) nơi có những tổ chức và hội đoàn này. Tiếp đến là nhìn đến các mối tương quan giữa các giám mục với Giám mục Rôma, đồng thời qua các cơ cấu trung gian mang tính hiệp hành (các Công nghị của các Giáo hội Đông phương và Tổng giáo miền chính, các Hội đồng Giáo chủ và Đại hội Giáo phẩm của các Giáo hội tự trị [sui iuris], các Hội đồng giám mục, với các biểu thức quốc gia, quốc tế và lục địa của họ). Sau đó mở rộng đến những cách thức mà mỗi Giáo hội đặc thù dung hợp nơi mình những đóng góp từ các hình thức khác nhau của đời sống đan sĩ, tu sĩ, và đời sống thánh hiến, của các hiệp hội và phong trào giáo dân, của nhiều loại cơ sở của Giáo hội (trường học, bệnh viện, trường đại học, các cơ sở, các tổ chức từ thiện và trợ giúp, v.v…). Cuối cùng, viễn tượng này cũng bao gồm các mối tương quan và sáng kiến chung với các anh chị em thuộc các hệ phái Kitô giáo khác mà chúng ta chia sẻ với họ cùng một hồng ân phép Rửa.
- Viễn tượng thứ hai là xem xét cách thức dân Chúa cùng đồng hành với toàn thể gia đình nhân loại. Vì vậy, chúng ta sẽ tập trung quan sát tình trạng các mối tương quan, đối thoại và các sáng kiến chung có thể có với tín đồ các tôn giáo bạn, với những người xa rời đức tin, cũng như với các môi trường và nhóm xã hội cụ thể, với các thể chế xã hội (chính trị, văn hóa, kinh tế, tài chính, lao động, công đoàn và hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và xã hội dân sự, các phong trào quần chúng, các nhóm thiểu số, người nghèo và người bị loại trừ, v.v…).
Mười chủ đề cốt lõi cần được khám phá
- Để làm nổi bật các kinh nghiệm và để việc thỉnh ý nhận được nhiều đóng góp hơn, chúng tôi trình bày dưới đây mười chủ đề chính nêu rõ các khía cạnh khác nhau của việc “sống tinh thần hiệp hành”. Chúng nên được thích ứng với sự đa dạng của các bối cảnh địa phương và đôi khi, được phối hợp, giải thích, đơn giản hóa và đào sâu, với sự chú ý đặc biệt đến những người gặp khó khăn trong việc tham gia và phản hồi: Sổ tay đi kèm với Tài liệu Chuẩn bị này cung cấp các công cụ, lộ trình và gợi ý để các nhóm câu hỏi khác nhau có thể mang lại những ý tưởng cụ thể cho những khoảnh khắc cầu nguyện, huấn luyện, suy tư và trao đổi.
- CÁC BẠN ĐỒNG HÀNH
Trong Giáo hội và xã hội, chúng ta sát cánh bên nhau trên cùng một nẻo đường. Trong Giáo hội địa phương của anh chị em, ai là những người “cùng nhau cất bước hành trình”? Khi chúng ta nói: “Giáo hội của chúng ta”, Giáo hội này bao gồm những thành phần nào? Ai yêu cầu chúng ta đồng hành với nhau? Ai là những người đồng hành trên đường, kể cả những người ở bên ngoài vành đai Giáo hội? Những người hoặc nhóm nào hiển nhiên hay trên thực tế bị bỏ lại bên lề?
- LẮNG NGHE
Lắng nghe là bước đầu tiên, đòi hỏi khối óc và con tim rộng mở, không thành kiến. Giáo hội đặc thù của chúng ta “cần lắng nghe” ai? Làm thế nào để thành phần giáo dân, đặc biệt là giới trẻ và phụ nữ, được lắng nghe? Làm thế nào để đón nhận sự đóng góp của những người nam và nữ thánh hiến? Đâu là chỗ để những nhóm thiểu số, những người bị loại bỏ và bị loại trừ cất lên tiếng nói của họ? Chúng ta có nhận ra những định kiến và khuôn mẫu cản trở chúng ta lắng nghe hay không? Bối cảnh xã hội và văn hóa trong đó chúng ta đang sống được chúng ta lắng nghe thế nào?
III. PHÁT BIỂU
Mọi người đều được mời gọi can đảm và mạnh dạn (parrhesia) lên tiếng, nghĩa là, phải bao gồm cả sự tự do, chân lý và bác ái. Làm thế nào để thúc đẩy trong cộng đồng và các tổ chức của nó một phong cách trao đổi tự do và đích thực, không giả dối và cơ hội chủ nghĩa? Và trong mối tương quan với xã hội mà chúng ta là thành phần? Khi nào và cách nào để chúng ta nói lên được những gì là quan trọng đối với chúng ta? Mối tương quan với hệ thống truyền thông (không chỉ truyền thông Công giáo) thì thế nào? Ai nói thay cho cộng đồng Kitô hữu, và họ được chọn ra sao?
- CỬ HÀNH
Chỉ có thể “cùng nhau cất bước hành trình” khi cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể. Làm thế nào để việc cầu nguyện và cử hành phụng vụ gợi hứng và hướng dẫn chúng ta “cùng nhau cất bước hành trình”? Làm thế nào để những việc này truyền cảm hứng cho các quyết định quan trọng nhất? Các tín hữu được khích lệ ra sao để tích cực tham dự phụng vụ và thi hành chức năng thánh hóa? Đâu là chỗ dành cho việc thi hành các thừa tác vụ đọc sách và giúp lễ?
- ĐỒNG TRÁCH NHIỆM TRONG SỨ VỤ
Sự hiệp hành là để phục vụ sứ mạng của Hội thánh, mọi thành viên trong Hội thánh đều được mời gọi tham gia vào sứ mạng này. Vì tất cả chúng ta đều là môn đệ truyền giáo, mỗi người đã lãnh phép Rửa được kêu gọi trở thành chủ thể tích cực trong sứ vụ này như thế nào? Làm thế nào để cộng đồng hỗ trợ các thành viên của mình dấn thân phục vụ xã hội (công tác xã hội và hoạt động chính trị, nghiên cứu khoa học và giảng dạy, thúc đẩy công bằng xã hội, bảo vệ nhân quyền và chăm sóc ngôi nhà chung, v.v…)? Anh chị em giúp họ thế nào trong việc sống những dấn thân này theo đòi hỏi của sứ vụ? Sự biện phân các lựa chọn liên quan đến sứ mạng được thực hiện như thế nào và ai tham gia vào đó? Theo quan điểm của một chứng tá Kitô hữu đích thực, các truyền thống khác nhau mang phong cách hiệp hành, vốn tạo nên di sản của nhiều Giáo hội, đặc biệt là các Giáo hội Đông phương, được hội nhập và thích nghi như thế nào? Sự cộng tác diễn ra như thế nào trong các lãnh thổ có sự hiện diện của các Giáo hội tự trị [sui iuris] khác nhau?
- ĐỐI THOẠI TRONG GIÁO HỘI VÀ XÃ HỘI
Đối thoại là con đường kiên trì bao gồm cả những lúc im lặng và chấp nhận đau khổ, nhưng lại có khả năng thu thập kinh nghiệm của con người và các dân tộc. Đâu là nơi chốn và phương thức đối thoại trong Giáo hội địa phương của chúng ta? Những khác biệt về quan điểm, những xung đột, và những khó khăn được giải quyết như thế nào? Làm thế nào để thúc đẩy sự cộng tác với các giáo phận lân cận, với và giữa các dòng tu trong khu vực, với và giữa các hiệp hội và phong trào giáo dân, v.v…? Đối với các tín đồ của các tôn giáo khác và với những người ngoại đạo, chúng ta có những kinh nghiệm nào về đối thoại và dấn thân chia sẻ? Làm thế nào để giáo hội đối thoại với và học hỏi từ các bộ phận khác trong xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội dân sự, người nghèo…?
VII. VỚI CÁC HỆ PHÁI KITÔ GIÁO KHÁC
Cuộc đối thoại giữa những Kitô hữu thuộc các tín phái khác nhau, được liên kết bởi cùng một phép Rửa, có một vị trí đặc biệt trong hành trình hiệp hành. Chúng ta có những mối liên hệ nào với anh chị em của các tông phái Kitô giáo khác? Họ quan tâm đến lĩnh vực nào? Chúng ta đã từng rút ra được những thành quả nào từ việc “cùng nhau cất bước hành trình”? Có những khó khăn nào?
VIII. THẨM QUYỀN VÀ THAM GIA
Hội thánh hiệp hành là Hội thánh tham gia và đồng trách nhiệm. Làm thế nào để chúng ta xác định được mục tiêu phải theo đuổi, cách thức đạt được chúng và các bước cần thực hiện? Giáo hội địa phương của chúng ta hành xử quyền bính như thế nào? Cách làm việc theo nhóm và tinh thần đồng trách nhiệm được thực hiện ra sao? Các thừa tác vụ giáo dân và việc đảm nhận trách nhiệm của các tín hữu được thúc đẩy như thế nào? Các tổ chức hiệp hành hoạt động như thế nào ở cấp giáo hội địa phương? Chúng có phải là một kinh nghiệm hữu hiệu không?
- BIỆN PHÂN VÀ QUYẾT ĐỊNH
Theo phong cách hiệp hành, các quyết định có được qua việc biện phân, dựa trên sự đồng thuận xuất phát từ lòng vâng phục Thần Khí của cả cộng đoàn. Chúng ta cùng nhau biện phân và đưa ra quyết định bằng những thủ tục và phương pháp nào? Có thể cải thiện chúng như thế nào? Chúng ta thúc đẩy sự tham gia vào diễn trình đưa ra quyết định trong các cộng đồng có cơ cấu phẩm trật như thế nào? Làm thế nào để chúng ta nối kết giai đoạn thỉnh ý với giai đoạn thảo luận, diễn trình ra quyết định với thời điểm lấy quyết định? Chúng ta thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm giải trình thế nào và bằng những công cụ nào?
- TỰ ĐÀO TẠO TRONG TIẾN TRÌNH HIỆP HÀNH
Linh đạo cùng nhau cất bước hành trình cần trở thành nguyên tắc giáo dục để huấn luyện con người nhân bản và con người Kitô hữu, con người của gia đình và con người của cộng đồng. Phải đào tạo ra sao, đặc biệt là những người gánh vác trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, để họ có thêm khả năng trong việc “cùng nhau cất bước hành trình”, lắng nghe nhau và tham gia đối thoại? Chúng ta đào tạo thế nào để giúp họ biện phân và thực thi quyền bính? Những công cụ nào giúp chúng ta nhận biết tính năng động của nền văn hóa đang bao trùm chúng ta và tác động của chúng đối với phong cách của Giáo hội chúng ta?
Đóng góp cho cuộc thỉnh ý
- Giai đoạn đầu tiên của hành trình hiệp hành nhằm thúc đẩy một diễn trình thỉnh ý rộng rãi để thu thập vô số các kinh nghiệm trong việc sống tinh thần hiệp hành, theo những cách trình bày và khía cạnh khác nhau của chúng, liên quan đến các mục tử và tín hữu của các Giáo hội đặc thù trên mọi bình diện khác nhau, thông qua những phương thế thích hợp nhất tùy theo thực tế địa phương: cuộc thỉnh ý, do giám mục điều phối, được triển khai đến “các linh mục, phó tế và giáo dân trong các Giáo hội [địa phương], hoặc theo tư cách cá nhân hoặc trong các hiệp hội, không bỏ qua sự đóng góp quý giá mà những người nam và nữ thánh hiến có thể cống hiến”(EC, số 7). Đặc biệt yêu cầu sự đóng góp của các tổ chức và hội đoàn hiện hành trong các Giáo hội [địa phương] nhất là của hội đồng linh mục và hội đồng mục vụ, từ sự đóng góp đó “có thể [thực sự] bắt đầu hình thành một Hội thánh hiệp hành”.[22]Sự đóng góp của các thực thể giáo hội khác mà Tài liệu Chuẩn bị sẽ được gửi đến, cũng như của những người muốn gửi trực tiếp ý kiến của mình sẽ có giá trị ngang nhau. Cuối cùng, điều quan trọng cơ bản là những người nghèo và người bị loại trừ cũng được cất lên tiếng nói của mình, chứ không chỉ những người có vai trò hoặc trách nhiệm nào đó trong các Giáo hội [địa phương].
- Bản tổng hợp mà mỗi Giáo hội đặc thù soạn thảo khi kết thúc công cuộc lắng nghe và biện phân này chính là sự đóng góp của mỗi Giáo hội [địa phương] cho diễn trình hiệp hành của Giáo hội hoàn vũ. Để các giai đoạn tiếp theo của tiến trình này được dễ dàng và bền vững hơn, điều quan trọng là phải cô đọng các thành quả của sự cầu nguyện và suy tư trong tối đa mười trang giấy. Nếu cần phải trình bày bối cảnh và giải thích chúng rõ hơn, có thể đính kèm các văn bản hỗ trợ hoặc bổ sung khác. Hãy nhớ rằng mục đích của Thượng Hội đồng, và do đó của cuộc thỉnh ý này, không nhằm tạo ra các tài liệu, mà là “để gieo mầm ước mơ, rút ra các lời tiên tri và thị kiến, cho phép hy vọng nảy nở, khơi dậy niềm tin, băng bó các vết thương, cùng nhau đan kết các mối tương quan, đánh thức bình minh hy vọng, học hỏi lẫn nhau và mang lại một khả năng sáng tạo giúp khai mở trí tuệ, sưởi ấm trái tim, tiếp thêm sức mạnh cho đôi tay”.[23]
Bản dịch của nhóm dịch thuật HĐGMVN
Tải tài liệu về tại đây: file PDF, file Word
Đọc thêm: Cẩm nang cho Thượng Hội đồng Giám mục về tính hiệp hành
[1] Sơ đồ các giai đoạn của tiến trình Thượng hội đồng
[2] Phanxicô, Diễn từ mừng Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục (17.10.2015), tại vatican.va
[3] X. www.synod.va
[4] Phanxicô, Thư gởi dân Chúa (20.08.2018), lời ngỏ.
[5] Ibid, số 2.
[6] Ibid.
[7] Ibid.
[8] Phanxicô, Diễn từ mừng Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.
[9] ITC, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh (02.03.2018), số 3.
[10] Ibid.
[11] Ibid. số 6.
[12] Cyprian, Lời cầu nguyện của Chúa, 23.
[13] Augustin, Thư 194, 31.
[14] John Chrysostom, Chú giải Thánh vịnh 149.
[15] ITC, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh, số 6.
[16] Phanxicô, Diễn từ tại buổi lễ kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.
[17] ITC, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh, số 69.
[18] Biển Đức, Quy luật, 3.3.
[19] Phanxicô, Diễn từ mừng Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.
[20] ITC, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội thánh, số 70.
[21] Ibid.
[22] Phanxicô, Diễn từ mừng Kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.
[23] Phanxicô, Diễn từ tại buổi lễ kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục.
2021
Giao Ước mới – Giới luật của Thần Khí
Thiên Chúa muốn mọi người biết Thiên Chúa và sống hiệp thông với Người.
Đó là ý tưởng căn bản của Lịch sử ơn cứu độ được diễn tả trong Kinh Thánh, khởi từ ơn gọi và mối tương quan diệu kỳ giữa Thiên Chúa với một con người tên là Abraham (St 12, 1-4), để từ đó cả gia tộc của ông biết đến Danh Thiên Chúa và sống tương quan thân mật với Người (St 15, 17); rồi qua dòng lịch sử, sau biến cố Xuất Hành dưới sự lãnh đạo của Môsê, con cháu thuộc miêu duệ của Abraham bỡ ngỡ và thấm thía biết bao, khi dưới chân núi Sinai họ được chính Thiên Chúa của tổ phụ Abrham, Isaac, Giacóp long trọng tuyên bố:
“Vậy bây giờ, nếu các ngươi nghe tiếng Ta mà giữ Giao Ước của Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu (Am sơgullah) của Ta giữa các dân hết thảy …” (Xh 19, 5).
Lời tuyên bố đồng thời là lời hứa của Thiên Chúa – qua phân tích và đào sâu ý nghĩa – cho phép chúng ta thấu hiểu để đi đến khẳng định: đó chính là chủ đề căn bản của Lịch sử cứu độ. Nói cách khác: toàn bộ Thánh Kinh, toàn bộ Lịch sử cứu độ xây dựng trên Lời Hứa đó được thực hiện.
Như thế, những ai nghe lời của Thiên Chúa và tuân giữ giao ước của Người sẽ là Am Sơgullah của Thiên Chúa, Dân sở hữu, Dân riêng, Dân cưng của Thiên Chúa.
Các ngôn sứ không ngừng nhắc nhở Dân riêng của Thiên Chúa quý trọng và sống trung thành với Giao Ước của Thiên Chúa… để rồi, đến một ngày kia, tại một nơi thật bé nhỏ, tầm thường (sơgullah), Lời Hứa của Thiên Chúa lại được công bố cho một thiếu nữ nghèo hèn bé mọn tên là Maria; khi sứ thần Gabriel tuyên bố: “Vui lên, hỡi Người Đầy ơn phúc, Chúa ở cùng Người” (Lc 1, 28).
Kekharitômenê, Đầy ơn phúc, Người được diễm phúc, Biệt sủng, Cưng của Thiên Chúa : tước hiệu này khác nào tước hiệu xưa kia Dân Chúa đã đón nhận ở Sinai : Sơgullah, và Maria khiêm tốn đáp trả : “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo Lời Ngài” (= Tôi xin vâng như lời sứ thần truyền).
Đức Maria đã đón nhận “Giao Ước” đó, đã cưu mang trong lòng, đã sinh hạ, và Người Con của lòng Trinh Nữ Maria sau này trong Bữa Tiệc Vượt Qua, Bữa Tiệc đánh dấu biến cố lịch sử Người từ bỏ thế gian mà về cùng Thiên Chúa Cha qua mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh, sẽ công bố : “Chén này là Giao Ước Mới trong Máu Ta” (1Cr 11, 25).
Nhờ đó, những ai tham dự vào chén Giao Ước Mới trong Máu của Đức Giêsu Kitô sẽ thực sự trở nên Am Sơgullah, Kekharitômenê, Dân riêng, Dân sở hữu thuộc về Thiên Chúa, Dân hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa, Dân có giao ước với Thiên Chúa.
Từ cái nhìn tổng quát đó, chúng ta có một số khái niệm về Giao Ước :
– Cắt Giao Ước : St 15, 17 “ngang qua”
– Lập, dựng Giao Ước : St 17, 21 “lập”
– Ban Giao Ước : St 17, 11
– Ăn Giao Ước : Bơrit do từ Barah, nghĩa là ăn, từ đó, vai trò quan trọng của Máu (= sự sống) trong nghi lễ Giao Ước.
– Sợi dây nối kết : Gr 13, 1 , sợi dây thắt lưng, sợi dây nối kết hai bên lại với nhau để không bao giờ tách lìa nhau.
Wellhausen giải thích:
Tai ương hoạn nạn là Giao Ươc
Giao Ước là Lề Luật
Lề Luật là Trung tín
Trung tín là tôn giáo của người Dothái
Vì thế, ta có thể nói: tôn giáo của người Dothái dựa trên sự trung tín trong việc tuân giữ Lề Luật của Giao Ước.
Trung tín (Khêsed) à Lòng mến (Agapê)
Thấm nhuần niềm tin của tôn giáo Dothái ; khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô (= Agapê) nhờ tác động của Thánh Thần ; hiệp thông cùng toàn thể Hội Thánh thời Tân Ước ; Thánh Phaolô đã trình bày toàn bộ giáo lý của mình trên cơ sở Giao Ước Mới mà người gọi là: “Giới luật của Thần Khí”.
- GIAO ƯỚC MỚI ĐƯỢC LOAN BÁO TRONG CỰU ƯỚC.
A.GIAO ƯỚC MỚI ĐƯỢC TRÌNH BÀY NHƯ MỘT GIỚI LUẬT.
- Luật nội tâm, luật viết trên tâm lòng (Gr 31, 31-34).
Gr 31, 1: Công thức mở đầu Giao Ước.
Gr 31, 3: Giao Ước mới: Dấu chỉ tình yêu muôn đời.
Gr 31, 20: Giao Ước mới: tình yêu có mãnh lực xoáy động tâm can.
Gr 31, 22: Giao Ước mới: chính là việc Thiên Chúa dựng nên điều mới lạ: tình yêu không rời nhau, tình yêu mãi mãi bên nhau. Đó sẽ là con đường để Dân Chúa biết mà đến cùng Thiên Chúa.
Gr 31, 31: Giao Ước mới.
Gr 31, 32: Khác với Giao Ước cũ.
Gr 31, 32a: Ban luật của Thiên Chúa, luật nội tâm, luật viết trên tâm lòng (để không thể quên được).
Gr 31, 33b: Công thức của Giao Ước.
Gr 31, 34a: Mọi người sẽ biết Thiên Chúa.
Gr 31, 34b: Tha tội.
Phát xuất từ tình yêu, một tình yêu muôn đời, Giao Ước Mới được ban cho Dân Chúa. Giao Ước này khác với Giao Ước cũ, vì nó chính là Luật mới được ban cho Dân, Luật được ghi trên trái tim, ghi trong tâm khảm nhờ đó Dân Chúa biết Thiên Chúa và được ơn tha tội.
- Cắt bì tâm lòng.
Điều kiện để đón nhận Luật nội tâm, Dân Chúa phải cắt bì tâm lòng :
Gr 4, 4 : Hãy cắt bì lòng các ngươi !
Đnl 10, 16 : Cắt bì lòng các ngươi và đừng cứng đầu cứng cổ nữa !
Đnl 30, 6-14 : Đây không phải là việc của con người, mà là việc của Thiên Chúa.
Công việc do Thiên Chúa làm : tạo điều kiện để cho Dân Chúa trở nên dễ dạy, không còn cứng đầu cứng cổ với Thiên Chúa nữa.
- GIAO ƯỚC MỚI, MỘT VẤN ĐỀ THUỘC LÃNH VỰC TRÁI TIM VÀ THẦN KHÍ.
- Cắt bì tâm lòng (như trên)
- Tấm lòng mới, Thần Khí mới (Ed 36, 23-28).
Thần Khí mới chính là Thần Khí của Thiên Chúa.
Khoảng 30 năm sau Giêrêmia, xuất hiện ngôn sứ Êdêkiel. Ông đã giải thích sâu lời sấm của Giêrêmia về Giao Ước Mới. “Giới luật” mà Giêrêmia đã loan báo, Êdêkiel đã làm cho Dân Chúa hiểu rõ hơn khi nói : Giới luật, từ ngữ đó có thể làm cho dân hiểu lầm… vì nó phát xuất từ bên ngoài… nhưng đã nói “Giao Ước Mới” là giới luật nội tâm, giới luật mà Thiên Chúa ghi khắc vào bên trong con người. Êdêkiel đã thay từ “giới luật” bằng từ “Thần Khí” :
Ed 36, 26 : “Ta sẽ ban cho các ngươi một tấm lòng mới. Bên trong các ngươi Ta sẽ ban xuống một Thần Khí mới“.
Gr 31, 33 : “Ta sẽ đặt luật của Ta bên trong chúng”.
Ed 36, 27 : “Bên trong các ngươi, Ta sẽ ban xuống Thần Khí của Ta”.
Từ đó, giới luật nội tâm chính là Thần Khí của Giavê Thiên Chúa.
Trong Giao Ước cũ, Thiên Chúa ban Luật cho Dân ; trong Giao Ước Mới, Thiên Chúa ban Thần Khí của Người cho Dân.
- GIAO ƯỚC MỚI, MỘT VẤN ĐỀ THUỘC LÃNH VỰC TÌNH YÊU PHU PHỤ.
- Mối tình đầu của tuổi thanh xuân (Hs 2, 16-25 ; x. Rm 9, 25).
Hs 2, 1a : Con cái Israel sẽ sản sinh phát triển đông đảo như cát biển. Kết quả của tình yêu vợ chồng.
Hs 2, 1b : Không phải Dân Ta à con cái Thiên Chúa sống (Lô-ammi).
Hs 2, 3 : Dân của Ta à được dủ thương.
Hs 2, 14-15 : Bất trung và hối cải. Trở về với người chồng ban đầu.
Hs 2, 16-17 : “Cho nên, Ta sẽ dụ dỗ nó, đem nó vao sa mạc”. Nhắc lại mối tình đầu thời Xuất Hành.
Gr 2, 2-3 : Vị tình, Ta nhớ lại tiết nghĩa thiếu thời của ngươi, mối tình vào buổi đính hôn. Làm sao ngươi theo Ta trong sa mạc… Israel là của Thánh dành kính Giavê.
“Và kề lòng nó, Ta nói khó với nó”. Nói vào tim nó như những ngày của buổi đính hôn của thời thanh xuân, của mối tình đầu.
Hs 2, 18 : Ngươi sẽ gọi : “Chồng tôi”.
Hs 2, 20 : Giao Ước hoà bình, công việc của Đấng Messia.
Hs 2, 21 : Ta sẽ đính hôn với ngươi mãi mãi, Ta sẽ đính hôn với ngươi bằng công chính (khêsed), công minh, nhân Nghĩa, xót thương.
Hs 2, 22 : Ta sẽ đính hôn với ngươi bằng đức trung tín (khêsed) và ngươi sẽ biết (yada) Giavê.
Hs 2, 25: Ta sẽ đoái thương Lô-Rukhama. Ta sẽ nói với Lô-Ammi: ngươi là Dân Ta. Còn nó sẽ thưa: “Lạy Thiên Chúa tôi thờ”.
- Lòng chung thuỷ của Thiên Chúa (Ed 16, 8-14 x. Ep 5, 25-27).
Ed 16, 4-6: Israel – người con bị bỏ rơi.
Ed 16, 8-14: Ta đã thề với ngươi và Giao Ước với ngươi (Giao Ước vợ chồng – Sinai).
Ed 16, 15t: Sự bất trung của Israel.
Ed 16, 60: Ta sẽ nhớ Giao Ước Ta đã kết với ngươi vào những ngày thơ bé của ngươi ; Ta sẽ giữ vững Giao Ước cho ngươi đến muôn đời.
Ed 16, 62-63: Ta sẽ giữ vững Giao Ước của Ta với ngươi, và ngươi sẽ biết Ta là Giavê, ngõ hầu ngươi ghi nhớ … khi Ta Aân xá cho ngươi tất cả những gì ngươi đã từng làm – sấm của Đức Giavê.
Tóm lại, các bản văn Cựu Ước đã loan báo, đồng thời giải thích cho ta thế nào là “Giao Ước Mới”.
– Giao Ước Mới chính là một giới luật. Giới luật xuất phát và là dấu chỉ của một tình yêu muôn đời, được Thiên Chúa đóng dấu và ghi khắc, không phải trên bia đá hay bằng chữ viết, nhưng trong tâm khảm của Dân Chúa: nhờ đó, họ biết Thiên Chúa một cách tường tận, trọn vẹn, đón nhận Thánh Ý Thiên Chúa, biến ý muốn của Thiên Chúa làm tiêu chuẩn sống, luật sống cho mình. Mọi bức tường ngăn cách giữa họ và Thiên Chúa bị phá vỡ, vì: họ được cắt bì tâm lòng và được tha thứ mọi tội lỗi.
– Giới luật kỳ diệu đó chính là Thần Khí của Thiên Chúa, Thần Khí tác động trên một tấm lòng mới.
– Từ đó, tương quan giữa Thiên Chúa và Dân là một tương quan tình yêu, tương quan ân nghĩa và trung thành – thuỷ chung như tương quan phu phụ, cha con…
- GIAO ƯỚC MỚI, GIỚI LUẬT CỦA THẦN KHÍ.
Những nội dung sâu xa của Giao Ước Mới mà các ngôn sứ đã loan báo được toàn Dân Chúa đón nhận và trông chờ.
Phaolô, “con người Dothái, sinh ra tại Tarsô, xứ Kilikia, đã được nuôi nấng trong thành này (Giêrusalem), đã thụ giáo dưới chân Gamaliel, lập theo khuôn phép nhặt nhiệm của Lề Luật cha ông, nhiệt tâm thờ Thiên Chúa” (Cv 22, 3 ; x. 26,4-5). Chính Phaolô, sau biến cố Đamas (Cv 9), đã đọc lại lịch sử Dân ông dưới ánh sáng mầu nhiệm Tử Nạn – Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, đã tiếp nối các ngôn sứ mà quả quyết: Giao Ước Mới mà Thiên Chúa đã ban cho mọi người qua cuộc khổ nạn, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, chính là Giới Luật mới, Giới Luật của Thần Khí.
- SỰ TỰ DO CỦA CON CÁI THIÊN CHÚA.
Khi ban giới luật nội tâm, luật viết trên tâm lòng (= Thần Khí của Thiên Chúa) cho Dân Chúa, thì Người cho họ điều kiện đầu tiên là khám phá ra chính mình là con cái của Thiên Chúa. Chính nhờ Thần Khí được đổ vào tâm hồn mà ta có thể hướng về Thiên Chúa và gọi Người bằng một danh hiệu thật là âu yếm: “Abba, Lạy Cha” (Gl 4, 6).
Đó là quyền nghĩa tử, quyền của người con, và nếu đã là con, tức không còn là nô lệ. Vì thế, nhờ Thần Khí, ta được hưởng sự tự do của con cái Thiên Chúa:
“Anh em đã được kêu gọi để được tự do” (Gl 5, 13) vì “Đâu có Thần Khí của Chúa thì có tự do” (2Cr 3, 17).
Để hiểu sự cao quý của quyền được tự do, Thánh Phaolô mời gọi ta so sánh hai Giao Ước , hai Giới Luật.
- Đối với người Dothái của Giao Ước cũ, thì tự doluôn gắn liền với Lề Luật ; Tự Do là nhờ Lề Luật.
Hãy xem lời giải thích của một thầy Rabbi Do Thái khi ông giới thiệu tự do của Dân cũ (liên quan đến lễ Vượt Qua):
“Sự việc giống như một nhà vua kia giải thoát người con của mình khỏi tù ngục, rồi nói với nó: Kể từ hôm nay, hằng năm con hay cử hành một ngày lễ ; ngày đó là ngày con ta từ vực sâu tối tăm được dẫn đến sự sáng ; từ xiềng xích gông cùm được dẫn đến sự sống ; từ kiếp nô lệ đến đời sống tự do ; từ cuộc sống bị áp bức đến ơn cứu độ”.
Cũng thế Thiên Chúa đã giải thoát Israel ra khỏi tù ngục, như lời Thánh Kinh đã nói: “Thiên Chúa kéo tù đày vào hưởng cảnh hanh thông” (Tv 68, 7), hoặc cũng như lời khác nói rằng: “Người kéo họ ra khỏi chốn tối tăm u ám, xiềng xích họ Người đã bật tung” (Tv 107, 14).
Như thế có nghĩa là: Thiên Chúa đã bật tung chiếc gông bằng sắt trên cổ Israel để ban cho họ chiếc gông Lề Luật ; Người đã giải thoát họ ra khỏi cảnh nô lệ để đem họ vào sự tự do, như có lời viết: “Các ngươi là những người con của Giavê Thiên Chúa của các ngươi” (Đnl 14, 1).
Vậy, người dân của Giao Ước cũ cũng ý thức họ là con của Thiên Chúa, được Thiên Chúa đem đến hưởng sự tự do dựa vào việc tuân giữ Lề Luật của Người: “Môsê lấy huyết mà rảy trên dân. Ông nói: Này là máu giao ước đã kết với các ngươi, thể theo mọi lời ấy” (tức thể theo Luật của Giao Ước) (Xh 24, 8).
- Trong khi đó, đối với người dân được lãnh nhận Thần Khí, lãnh nhận Đức Giêsu Kitô trong tâm hồn mình, Thánh Phaolô quả quyết: người đó sống trong Giao Ước mới thực hiện trong Máu Đức Giêsu Kitô.
Bởi thế, họ là Con của Thiên Chúa vì họ mang hình ảnh Thiên Chúa, khác nào Đức Giêsu mang hình ảnh của Chúa Cha nhờ lãnh nhận Thần Khí trong lúc đầu thai cũng như trong cuộc đời của Người. Họ được tự do va tự do này không chỉ hệ tại ở việc được tha thứ khỏi mọi tội lỗi mà còn tự do ngay cả đối với Lề Luật vốn là điều áp đặt từ bên ngoài.
Khi được tha thứ khỏi mọi tội lỗi, được khả năng không phạm tội (x. 1Ga), thì Lề Luật trở nên dư thừa đối với họ. Vì thế, thay vì ban Lề Luật, Thiên Chúa đã đổ Thần Khí của Người vào tâm khảm họ: “Luật Thần Khí ban sự sống trong Đức Kitô Giêsu đã cho ngươi được tự do thoát khỏi luật sự tội và sự chết” (Rm 8, 2).
Một cách cụ thể, Thánh Phaolô đưa ra hai hình ảnh thật sống động trong lịch sử Dân Chúa khi Ngài so sánh sự khác biệt cơ bản giữa Sara và Agar, một bên là chính thất tự do, một bên là tỳ nữ: Agar đã sinh cho Abraham một người con là Ismael, người con theo luật thường tình, xác thịt ; Sara nhờ bởi lời hứa, đã sinh cho Abraham Isaac, người con của lời hứa, người con trọn quyền thừa hưởng gia sản của cha, phát huy sản nghiệp của cha để miêu duệ trở nên đông đảo như sao trời cát biển (Gl 4, 21-30 ; St 15, 4).
- SỰ TÁC SINH BỞI THẦN KHÍ.
Thánh Phaolô đề cập đến sự sống phong phú của con người trong Giao Ước Mới một cách rất sâu xa. Nhờ tác động của Thánh Thần, họ được Phaolô xem như “Tác phẩm của Đức Kitô”, “bức thư của Đức Kitô”, bức thư viết “không phải bằng mực, nhưng là bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống ; không phải trên bia đá, mà là trên những bia lòng, bia thịt” (2Cr 3, 2-3).
Thần Khí luôn hoạt động, luôn tác sinh và Thần Khí là sự sống. Chỉ cần việc so sánh con người sống theo Lề Luật và sống dưới tác động của Thần Khí, ta có thể thấy tính chất sung mãn của Giao Ước Mới:
Giao Ước cũ (2Cr) – Bia đá – Chữ viết thì giết chết (3, 6) – Phục vụ án chết (3, 7) – Phục vụ án phạt (3, 9) – Ðiều chóng tàn (3, 11) – Cái màn còn rủ xuống khi đọc Giao Ước cũ (3, 14) – Vinh quang chóng tàn (3, 7) |
Giao Ước Mới (2Cr) – Tâm hồn bằng thịt – Thần Khí làm cho sống (3, 6) – Phục vụ giới Thần Khí (3, 8) – Phục vụ sự công chính (3, 9) – Ðiều còn mãi (3, 11) – Tối tăm hãy bật sáng. Chính người làm bật sáng nơi lòng chúng tôi (4, 6). – Vinh quang của Thiên Chúa (4, 6) – Nơi Nhan Thánh Ðức Kitô (4, 6). |
- MÔN SINH CỦA THIÊN CHÚA.
“Vậy cho nên, kẻ khinh miệt, ắt không khinh miệt một người, mà là chính Thiên Chúa, Đấng ban Thánh Thần của Chúa xuống trên anh em. Còn về tình huynh đệ, anh em không cần để ai viết cho anh em, vì chính anh em là môn sinh của Thiên Chúa, để biết yêu mến nhau” (1Tx 4, 8-9).
Ý tưởng này rõ ràng Thánh Phaolô muốn trích dẫn các sấm ngôn của Giêrêmia và Êdêkiel khi công bố Giao Ước Mới (Gr 31, 34 ; Ed 36, 27).
Môn sinh của Thiên Chúa phải ưu việt hơn môn sinh của Môsê. Môsê đào tạo ra những người công chính nhờ lề luật … Còn môn sinh của Thiên Chúa sẽ được Người “cắt bì tâm lòng” (Đệ nhị luật), được trao ban chính Thần Khí của Người để họ biết đường sống theo Luật Chúa (Eâdêkiel).
Tóm lại, môn sinh của Thiên Chúa chính là người học trò đón nhận trọn vẹn chính Tình Yêu, lòng mến của Người – Đức Giêsu Kitô – để lòng mến đó – Thần Khí của Đức Kitô – hoạt đông mạnh mẽ trong tâm hồn họ. Đó chính là lý do Thánh Phaolô đã tự nhận: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Đời sống của tôi lúc này trong thân xác, tôi sống nó trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì tôi (Gl 2, 20).
- GIỚI LUẬT CỦA THẦN KHÍ.
Được hưởng sự tự do của con cái Thiên Chúa, được Thần Khí tác sinh, được làm môn sinh của Thiên Chúa là để Thần Khí hướng dẫn mà “sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa” (1Tx 4, 1).
Ý muốn của Thiên Chúa, lòng của Thiên Chúa là “sự thánh hoá của anh em” (lTx 4, 3): “Thiên Chúa đã chọn anh em để được ơn cứu rỗi, nhờ sự thánh hoá của Thần Khí” (2Tx 2, 13).
Vì thế, Thánh Phaolô khuyến cáo bất cứ ai chối từ con đường này, bởi lẽ họ: “không khinh miệt một người, mà là chính Thiên Chúa, Đấng ban Thánh Thần của Người xuống trong anh em” (1Tx 4, 8).
“Ban Thánh Thần của Người xuống trong anh em”, đó là cách thế Thiên Chúa cư xử trong Giao Ước Mới; đó là hồng ân tạo điều kiện cho con người biết hướng dẫn đời sống của mình sao cho đẹp lòng Thiên Chúa – “biết yêu mến nhau” (1Tx 4, 9).
Với quan điểm đó, ta có thể nói: Thiên Chúa ban Thánh Thần của Người xuống trong lòng chúng ta để Thánh Thần trở nên Giới Luật, trở nên tiêu chuẩn, phương thế dạy ta biết sống đẹp lòng Thiên Chúa bằng cách chúng ta yêu thương nhau: “Yêu mến là chu toàn Lề Luật” (Rm 14, 10).
Thật vậy, một khi trong tâm hồn ta có Thánh Thần – nguồn tình yêu của Cha và Con – làm sao chúng ta không yêu thương được ? Nếu Thánh Thần trở nên giới luật, nếu Thánh Thần là động cơ mọi hành đông, thái độ và cả đời sống chúng ta, thì đời sống chúng ta, hoạt động của chúng ta chỉ là tình yêu, khác nào như Đức Giêsu Kitô Đấng “đã yêu mến các kẻ thuộc về Ngài còn trong thế gian, thì Ngài yêu mến họ đến cùng” (Ga 13, 1).
“Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). |
Tôi yêu (nhưng không phải tôi) mà là trong Thánh Thần Chính Ðức Kitô yêu qua con người của tôi. |
Qua Giao Ước Mới, với việc Thiên Chúa ban Thánh Thần, ta có thể nói : trước kia, Giavê Thiên Chúa đã dùng ngón tay Người mà viết luật trên bia đá, thì ngày nay, nhờ việc ban Thánh Thần, “ngón tay của Chúa Cha” (Digitus paternae dexternae) xuống trong chúng ta. Chính Người lại ghi khắc luật yêu thương của Người trên tấm bảng mới là “bia lòng của chúng ta” (2Cr 3, 3). Gm. Giuse Võ Đức Minh
2021
Linh đạo Inhã – Một cái nhìn tổng quan
Chuyển ngữ: Nam Văn
Hiệu đính: Trung Thu
Từ: ignatianspirituality.com
Linh đạo Inhã rất cụ thể. Đó là cách sống mối tương quan giữa ta với Chúa. Linh đạo ấy rất thực tế, không mơ hồ, là một lối sống hơn là một lối suy nghĩ hay niềm tin. Linh đạo Inhã được đặt theo tên thánh Inhaxio thành Loyola, một nhà quý tộc thế kỷ 16 và một thời đã từng là hiệp sĩ, người đã giúp xóa bỏ bức tường ngăn cách giữa những điều thánh thiêng và tất cả những điều khác mà ta làm. Hàng triệu người ngày nay sống theo linh đạo Inhã. Đó là con đường của sự độc đáo, duy nhất và một sự hiểu biết năng động về Thiên Chúa, về thế giới của Ngài cũng như về chính bản thân mình.
Linh đạo Inhã bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thánh Inhã nhìn nhận Thiên Chúa là tình yêu vô tận, là Đấng trọn tốt trọn lành luôn ban phát ơn phúc. Thánh nhân viết: “Tình yêu Thiên Chúa chiếu sáng trên tôi tựa như những tia nắng mặt trời. Tình yêu Thiên Chúa đổ xuống đầy tràn như nguồn mạch trào ra suối nguồn vô tận.” (Linh thao, số 237). Thiên Chúa hành động cá vị với từng người trong chúng ta và ban cho mỗi người một khả năng riêng, các mối tương quan cũng như các nhiệm vụ để hoàn thành. Những điều này được ban cho mỗi người từ tình yêu cá vị của Thiên Chúa và mời gọi ta đáp trả tình yêu ấy cách cá vị.
Thiên Chúa luôn hoạt động và không ngừng lao tác trong thế giới này. Ngài trở nên con người nơi Đức Giêsu thành Nazareth và đảo lộn một cách sâu rộng và vĩnh viễn đời sống của chúng ta. Linh đạo Inhã cho rằng: “Nếu bạn đang tìm kiếm Thiên Chúa, hãy nhìn xung quanh bạn.”
Thiên Chúa tha thiết yêu mến thế gian, nhưng thế gian lại bị gãy đổ. Thánh Inhã quan sát mặt đất và nhận thấy nhiều người sống không mục đích, ơ hờ, ghen ghét và giết chóc, rất nhiều người thiếu ăn, bệnh tật và hấp hối, rất nhiều người sống chật vật và mù quáng với bất kỳ ý nghĩa nào.
Thánh Inhã hình dung ra Ba Ngôi Thiên Chúa đang chăm chú quan sát thế giới bị đổ vỡ của chúng ta và nói rằng: “Chúng ta hãy cùng cộng tác vào công cuộc cứu chuộc loài người, hãy đáp lại tiếng kêu than của mọi loài thụ tạo”. Chúa Giêsu đến thế gian để cứu chuộc, chữa lành, đem đến bình an, đời sống phong phú, niềm vui và sự hiệp nhất.
Trong cái nhìn của thánh Inhã: “Chúa Kitô công bố rằng: Ước muốn của tôi là chinh phục cả thế giới, là vượt qua sự dữ bằng những điều lành, là chôn vùi ghen ghét bằng tình yêu, là chinh phục tất cả quyền lực của sự chết.” (Linh thao, số 95).
Thế giới cần những con người có óc tưởng tượng, tầm nhìn và quyết tâm khắc phục những thương tổn gây ra bởi lòng tham và thù hận. Giờ đây, chúng ta trở thành tâm điểm cho ánh nhìn của Thiên Chúa. Ngài nói với chúng ta: “Ai muốn theo Ta trong sứ vụ này, phải lao khổ cùng Ta, để một khi đã cùng Ta trong đau khổ, cũng được chia sẻ với Ta trong vinh quang.” Nói cách khác, Chúa Kitô kêu mời ta phụng sự Ngài; Ngài cần ta. Chúng ta sẽ trở nên những tông đồ trong sứ vụ chữa lành và cứu chuộc. Nhu cầu của thế giới là vô hạn, vì thế, ta có thể phục vụ bằng nhiều hình thức khác nhau. Mỗi chúng ta có một vị trí riêng biệt trong sứ mạng này, tham gia vào việc giúp đỡ như thánh Inhã đã từng, hay như cha Pedro Arrupe, Bề trên Cả Dòng Tên sống vào thế kỷ 20, đã nói rằng: “Chúng ta là những người nam và người nữ sống cho người khác.”
Đặc nét này của linh đạo Inhã thực sự rất thu hút vì nó trả lời cho câu hỏi căn bản: Tôi phải làm gì với cuộc sống của mình? Mục đích không phải là trở nên giàu có, được thán phục, được vui vẻ, hay là được thỏa mãn. Mục đích là để hiểu biết, để yêu mến và phụng sự Thiên Chúa như việc chúng ta cộng tác vào công trình của Chúa để cứu độ và chữa lành thế giới.
Vì mỗi người chúng ta phải nhận ra vai trò của mình trong sứ mạng này, nên không có gì ngạc nhiên khi linh đạo Inhã đề cập nhiều đến việc thực hiện các lựa chọn tốt lành. Nhiệm vụ của chúng ta là thoát khỏi tình trạng mà thánh Inhã gọi là “quyến luyến lệch lạc”. Những thứ ta nghĩ mình phải có để được hạnh phúc như tiền bạc, tình dục, quyền lực, một chỗ đứng trong xã hội, những người bạn hào nhoáng và tự do cá nhân. Những điều này tự bản chất là không xấu, nhưng chúng trở thành vấn đề khi chúng kiểm soát ta và giới hạn tự do của ta trong việc đưa ra những lựa chọn thực sự đáp ứng những khát vọng sâu thẳm nhất của mình.
Phân định theo Inhã giúp chúng ta thoát khỏi những quyến luyến và chọn lựa điều thực sự đem đến cho ta niềm vui. Thánh nhân chỉ cho ta cách để đối diện với những cảm xúc và những khát vọng sâu thẳm mà Thiên Chúa đã đặt để trong con tim mình. Nhờ phân định theo Inhã, chúng ta nhạy bén với sứ mạng của Chúa và hiểu được phận vụ của mình trong sứ mạng ấy.
Phân định là một tiến trình lâu dài. Ta muốn mở cánh cửa ư? Hãy cho Chúa một chút thời gian và để mối thân tình với Ngài được lớn lên. Chúng ta dần dần nhận ra rằng, những kế hoạch của Thiên Chúa thì tốt đẹp hơn của chúng ta. Chúng ta đáp lại cách quảng đại hơn. Chúng ta trở nên có khả năng yêu mến và phụng sự trong mọi sự.
Một linh đạo như vậy, nghĩa là luôn ý thức sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống thường ngày và tập trung phục vụ người khác, thì rất thực tiễn. Nó hàm chứa những câu hỏi như: Làm thế nào tôi có thể trở nên một người bạn, một người yêu hay một người cha người mẹ tốt hơn? Làm thế nào để tôi có thể giúp đỡ những người xung quanh tôi nhiều hơn? Tôi nên đối diện với đau khổ như thế nào? Đó là một linh đạo bao gồm những câu hỏi sâu xa nhất trong cuộc sống.
Trong thực tế, linh đạo Inhã giúp bạn tìm thấy Chúa trong mọi sự. Mọi sự đều là một phần của đời sống thiêng liêng: bạn bè, gia đình, cầu nguyện, những thực hành đức tin, nghề nghiệp, mối quan hệ và công việc tình nguyện.
Có hai chiếc hộp: một chiếc dành cho những điều thiêng liêng, và chiếc kia dành cho những điều còn lại. Thay vào đó là một thế giới được Thiên Chúa yêu thương hoàn toàn. Nếu ta liên đới trọn vẹn với thế giới của Ngài thì ta cần luôn luôn tương tác với Ngài. Với thánh Inhã thì điều này có nghĩa là ta cần nuôi dưỡng tư duy phản tỉnh trong cuộc sống nhiều bề bộn. Ta sẽ trở nên chiêm niệm trong hoạt động, trở nên những con người vừa ý thức về Thiên Chúa vừa mau mắn đáp lại Ngài.
Thường xuyên cầu nguyện theo thánh Inhã giúp ta trở nên chiêm niệm trong hoạt động. Chiêm niệm trong hoạt động là những người sống trong sự tĩnh lặng, thanh bình, sâu lắng bên trong. Những hoạt động của họ xuất phát từ tâm điểm sâu xa này. Đây là một đặc nét của linh đạo Inhã hấp dẫn chúng ta cách đặc biệt. Ai chẳng muốn một phương cách để kết nối với Chúa sau một ngày bận rộn hay nhiều áp lực?
Thánh Inhã nhìn Thiên Chúa là Đấng ban phát ơn lành, nghĩa là cầu nguyện theo Inhã gắn liền với cảm thức biết ơn sâu xa, một lời tạ ơn chân thành cho những ơn ban cụ thể trong ngày sống. Nói theo thánh Inhã là: “Ta tạ ơn Chúa vì những ân huệ nhận được.”
Vì thế, linh đạo Inhã là một linh đạo của con tim. Đó là linh đạo về việc tìm kiếm điều ta thực sự khao khát, về việc cộng tác vào công trình vĩ đại của Chúa để chữa lành thế giới. Đó là linh đạo của lòng biết ơn, và niềm khao khát đáp trả lời mời gọi yêu thương của Chúa để biết Ngài. Đó là linh đạo của tình yêu.
Cha Pedro Arrupe đã nói về điều đó theo cách này:
“Không gì thiết thực hơn việc tìm kiếm Thiên Chúa, hơn việc yêu cách trọn hảo và dứt khoát.
Điều gì bạn yêu mến, điều gì chiếm hữu trí tưởng tượng của bạn, sẽ có ảnh hưởng trên tất cả. Nó sẽ quyết định
Điều sẽ đưa bạn ra khỏi giường vào buổi sáng, điều bạn làm vào buổi tối,
việc bạn dùng thời gian cuối tuần như thế nào, thứ bạn đọc, những người bạn biết, điều làm tan vỡ trái tim bạn, và điều làm bạn ngạc nhiên với niềm vui và lòng biết ơn.
Hãy yêu, rồi ở lại trong tình yêu,
Và nó sẽ quyết định tất cả.”