2022
Tiếp kiến chung (11/05): Một tuổi trẻ đáng ngưỡng mộ, một tuổi già quảng đại
Tiếp kiến chung (11/05): Một tuổi trẻ đáng ngưỡng mộ, một tuổi già quảng đại
Sáng thứ Tư 11/05, tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh đã có buổi tiếp kiến chung hằng tuần với bài giáo lý tiếp theo trong loạt bài về tuổi già. Đức Thánh Cha đặt câu hỏi của những người nghỉ hưu, công việc kết thúc: “Tôi sẽ làm gì bây giờ khi cuộc sống của tôi sẽ trống rỗng, không còn những điều vốn đã lấp đầy trong thời gian dài?”
Đoạn Sách Thánh được đọc trước bài giáo lý được trích từ sách Giu-đi-tha.
Sau những ngày đó, ai nấy trở về phần đất gia nghiệp của mình. Bà Giu-đi-tha trở lại Bai-ty-lu-a và cư ngụ trong phần đất bà vẫn có. Ngay trong buổi sinh thời, tiếng tăm bà đã lừng lẫy khắp nơi. Danh tiếng bà mỗi ngày một thêm lừng lẫy. Bà sống tại nhà chồng bà, tuổi đời rất cao, thọ được một trăm lẻ năm tuổi . Bà trả tự do cho người nữ tỳ. Cuối cùng bà qua đời ở Bai-ty-lu-a và được chôn cất trong hang mộ bên cạnh ông Mơ-na-se, chồng bà. Nhà Ít-ra-en khóc thương bà suốt bảy ngày. Trước khi nhắm mắt, bà Giu-đi-tha đã phân phát của cải cho tất cả bà con bên chồng cũng như cho thân quyến của bà. (Gđt 16,21.23-24)
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha:
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Hôm nay chúng ta sẽ nói về Giu-đi-tha, một nữ anh hùng trong Kinh Thánh. Phần kết của cuốn sách mang tên bà – chúng ta vừa nghe – tóm tắt phần cuối cuộc đời của người phụ nữ này, người đã bảo vệ Israel khỏi kẻ thù. Giu-đi-tha là một góa phụ Híp-ri trẻ tuổi và nhân đức, nhờ đức tin, sắc đẹp và sự khôn khéo của mình, đã cứu thành Bai-ty-lu-a và dân tộc Giuđa khỏi vòng vây của Hô-lô-phéc-nê, tướng của Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua nước Át-sua, một kẻ thù hống hách và khinh thường Thiên Chúa. Và như vậy, với cách hành động thông minh của mình, người phụ nữ này có khả năng giết chết bạo chúa chống lại đất nước mình. Người phụ nữ này dũng cảm, nhưng bà có một đức tin …
Sau cuộc phiêu lưu lớn mà bà là nhân vật chính, Giu-đi-tha trở về sống ở thành phố của bà, Bai-ty-lu-a, nơi đây bà sống một tuổi già đẹp, đến 105 tuổi. Điều này cũng xảy ra với nhiều người: đôi khi sau một cuộc sống làm việc căng thẳng, sau một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, hoặc một trong những cống hiến lớn lao. Sự anh hùng không chỉ là sự kiện trọng đại được chú ý, như vụ Giu-đi-tha đã giết chết bạo chúa: mà sự anh hùng thường được tìm thấy ở tình yêu bền bỉ dành cho một gia đình khó khăn và hỗ trợ một cộng đồng đang bị đe dọa.
Giu-đi-tha đã sống hơn một trăm tuổi, một phúc lành đặc biệt. Nhưng ngày nay cũng không hiếm người sống rất nhiều năm sau khi nghỉ hưu. Cần diễn giải thế nào, làm sao để tận dụng khoảng thời gian này của chúng ta? Tôi sẽ nghỉ hưu hôm nay, và sẽ còn nhiều năm nữa, và tôi có thể làm gì trong những năm này? Làm thế nào để tôi có thể lớn thêm – về tuổi tác thì tự nó, nhưng làm thế nào tôi có thể lớn thêm hơn về quyền bính, sự thánh thiện và khôn ngoan?
Đối với nhiều người, viễn cảnh nghỉ hưu cũng là viễn cảnh được nghỉ ngơi xứng đáng và mong muốn thoát khỏi các hoạt động đòi hỏi và mệt mỏi. Nhưng cũng xảy ra rằng nó là sự kết thúc của công việc vốn thể hiện một nguồn quan tâm và được mong đợi với một số lo lắng: “Tôi sẽ làm gì bây giờ khi cuộc sống của tôi sẽ trống rỗng những điều vốn đã lấp đầy trong thời gian dài?”. Đây là vấn đề. Công việc hàng ngày cũng có nghĩa là một tập hợp các mối quan hệ, sự hài lòng trong việc kiếm sống, thực thi một vai trò, một sự cân nhắc xứng đáng, một khoảng thời gian tròn đầy ngoài những giờ làm việc đơn giản.
Tất nhiên, có một sự dấn thân vui vẻ và không mệt mỏi trong việc chăm sóc các cháu, và ngày nay ông bà đóng một vai trò rất lớn trong gia đình để giúp nuôi dạy các cháu; nhưng chúng ta biết rằng ngày nay ngày càng ít trẻ em được sinh ra, và cha mẹ thường ở xa hơn, phải đi lại nhiều hơn, với hoàn cảnh gia đình và công việc không thuận lợi. Thậm chí đôi khi họ miễn cưỡng với việc giao phó không gian giáo dục của các cháu cho ông bà, và chỉ nhờ những gì rất cần sự hỗ trợ. Nhưng có người nói với tôi, với một nụ cười khểnh, rằng: “Ngày nay, trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện tại, ông bà càng quan trọng hơn, vì ông bà có lương hưu”. Họ nghĩ như thế. Có những nhu cầu mới, cũng trong lĩnh vực giáo dục và các mối quan hệ của cha mẹ, đòi hỏi chúng ta phải định hình lại liên minh truyền thống giữa các thế hệ.
Nhưng, chúng ta tự hỏi: liệu chúng ta có đang thực hiện nỗ lực “phục hồi” này không? Hay đơn giản là chúng ta phải chịu sức ì của các điều kiện kinh tế và vật chất? Trên thực tế, sự chung sống của nhiều thế hệ đang kéo dài. Chúng ta có đang cố gắng làm cho sự chung sống này trở nên nhân bản hơn, tình cảm hơn, công bằng hơn, trong điều kiện mới của xã hội hiện đại? Đối với ông bà, một phần quan trọng trong thiên chức của họ là hỗ trợ các con trong việc nuôi dạy con cái. Những đứa trẻ học được sức mạnh của sự dịu dàng và tôn trọng đối với sự mong manh. Đây là những bài học không thể thay thế, mà với ông bà, những bài học này sẽ dễ dàng truyền đạt và tiếp nhận hơn. Về phần mình, ông bà học được rằng sự dịu dàng và mong manh không chỉ là dấu hiệu của sự sa sút: đối với những người trẻ, điều này là những bước làm nên con người tương lai.
Giu-đi-tha sớm trở thành góa phụ và không có con cái, nhưng như một phụ nữ lớn tuổi, bà có thể sống một mùa tràn đầy và thanh thản, với ý thức mình đã sống trọn vẹn sứ mạng mà Chúa đã giao phó cho bà. Đối với bà, đã đến lúc để lại di sản tốt đẹp của trí tuệ, sự dịu dàng, những món quà cho gia đình và cộng đồng: di sản về điều tốt chứ không chỉ về tài sản. Khi chúng ta nghĩ về sự thừa kế, đôi khi chúng ta nghĩ về tài sản, chứ không phải điều tốt đã làm trong tuổi già và đã được gieo trồng, điều tốt đẹp đó là cơ nghiệp tốt nhất mà chúng ta có thể để lại.
Chính ở tuổi già, Giu-đi-tha đã “trả tự do cho người nữ tỳ của bà”. Đây là dấu hiệu của một cái nhìn quan tâm và nhân văn đối với những người đã gần gũi với bà. Người nữ tỳ này đã đồng hành cùng bà trong cuộc phiêu lưu để cắt cổ và chiến thắng bạo chúa. Khi bạn già, bạn mất đi một chút thị giác nhưng cái nhìn bên trong trở nên thấu hiểu hơn: bạn nhìn bằng trái tim. Một người có khả năng nhìn thấy những thứ trước đây lẩn khuất. Người già biết cách nhìn và biết nhìn thấy… Nó là thế này: Chúa không chỉ giao những nén bạc của Người cho người trẻ và người mạnh: Người trao cho tất cả, tuỳ theo khả năng của mỗi người, phù hợp với từng người, ngay cả đối với người già. Cuộc sống của các cộng đoàn của chúng ta phải có khả năng tận hưởng những nén bạc và đặc sủng của nhiều người cao tuổi. Theo biên chế thì họ đã nghỉ hưu, nhưng họ là một gia sản đáng được trân trọng. Điều này đòi hỏi, về phía những người cao tuổi, một sự lưu tâm sáng tạo, một sự để tâm mới, một tấm lòng quảng đại. Các kỹ năng sống hoạt bát trước đây mất đi phần nắm giữ và trở nên nguồn để ban tặng: dạy dỗ, khuyên nhủ, xây dựng, chữa lành, lắng nghe… Ưu tiên cho những người thiệt thòi nhất, những người không có khả năng học tập hoặc những người bị bỏ rơi trong cô đơn của họ.
Bà Giu-đi-tha đã trả tự do cho người nữ tỳ của mình và khiến mọi người chú ý. Khi còn trẻ, bà đã giành được sự kính trọng của cộng đồng bằng lòng dũng cảm của mình. Khi là một người lớn tuổi, bà xứng đáng nhận điều đó bởi sự dịu dàng vốn làm phong phú thêm cho sự tự do và tình cảm của bà. Giu-đi-tha không phải là một người nghỉ hưu buồn sầu, sống trong sự trống vắng của mình: bà là một cụ bà say mê lấp đầy thời gian mà Chúa ban bằng những món quà.
Tôi khuyên anh chị em: trong những ngày này, hãy cầm lấy Kinh Thánh và mở sách Giu-đi-tha: nó nhỏ, anh chị em có thể đọc nó… khoảng 10 trang, không hơn. Hãy đọc câu chuyện về một người phụ nữ can đảm kết thúc như thế, với sự dịu dàng, với lòng bao dung, một phụ nữ cao quý. Và vì vậy tôi ước mong những người bà của chúng ta: can đảm, khôn ngoan và để lại cho con cháu di sản không phải tiền bạc, mà là di sản của trí tuệ, được gieo vào cháu chắt của họ.
Vatican Media
2022
Tháng hoa Đức Mẹ
Tháng hoa Đức Mẹ
Là người Công giáo Việt Nam, nhất là những người đã lớn lên trong một xứ đạo miền Bắc, Trung hoặc Nam, có lẽ họ không lạ gì sinh hoạt tôn giáo trong tháng Năm, tháng Hoa Đức Mẹ.
Khi ngàn hoa xanh, đỏ, trắng, tím, vàng nở rộ trong cánh đồng, thì con cái Mẹ cũng chuẩn bị cho những đội dâng hoa, những cuộc rước kiệu, để tôn vinh Mẹ trên trời. Những điệu ca quen thuộc trìu mến bỗng nổi dậy trong tâm hồn cách thân thương, nhất là bài “Đây Tháng Hoa” của nhạc sĩ Duy Tân với điệu 2/4 nhịp nhàng:
“Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật thà. Dâng tiến hoa lòng mến dâng lời cung chúc. Hương sắc bay tỏa ngát nhan Mẹ diễm phúc. Muôn tháng qua lòng mến yêu Mẹ không nhòa.
– Đây muôn hoa đẹp còn tươi thắm xinh vô ngần. Đây muôn tâm hồn bay theo lời ca tiến dâng. Ôi Maria, Mẹ tung xuống muôn hoa trời. Để đời chúng con đẹp vui, nhớ quê xa vời.
– Muôn dân trên trần mừng vui đón tháng hoa về. Vang ca tưng bừng ngợi khen tạ ơn khắp nơi. Ánh hồng sắc hương càng tô thắm xinh nhan Mẹ. Sóng nhạc reo vang tràn lan đến muôn muôn đời”.
Nếu có ai tự hỏi: Tháng Hoa có từ đời nào? Do ai khởi xướng? thì câu trả lời cũng không khó khăn gì.
Gốc tích như thế này:
Vào những thế kỉ đầu, hàng năm, khi tháng Năm về, người Rôma tôn kính sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên bằng những cuộc tổ chức gọi là những ngày lễ tôn kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân.
Các tín hữu Công giáo trong các xứ đạo đã thánh hóa tập tục trên. Họ tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.
Có nơi người ta tổ chức các cuộc “Rước xanh”. Người ta đi cắt các cành cây xanh tươi đang nở hoa, đưa về trang hoàng trong các nhà thờ và đặc biệt các bàn thờ dâng kính Đức Mẹ. Các thi sĩ cũng như các thánh đua nhau sáng tác những bài hát, bài giảng ca tụng những ngày lễ đó cũng như ca tụng Đức Mẹ.
Đến thế kỷ 14, linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và lấy hoa trang hoàng tượng Đức Mẹ.
Thánh Philipe đệ Nêri, cũng vào ngày 1 tháng 5, thích tập họp các trẻ em lại chung quanh bàn thờ Đức Mẹ, để cùng các bông hoa mùa xuân, Ngài dâng cho Đức Mẹ các nhân đức còn ẩn náu trong tâm hồn non trẻ của chúng.
Đầu thế kỷ 17, tại Napoli, nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng Đức Mẹ được cử hành công cộng: Mỗi chiều đều có hát kính Đức Mẹ, ban phép lành Mình Thánh. Từ ngày đó, tháng Đức Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các xứ đạo.
Năm 1654, cha Nadasi, dòng Tên, xuất bản tập sách nhỏ khuyên mời giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời.
Đầu thế kỷ 19, hết mọi xứ trong Giáo hội đều long trọng kính tháng Đức Mẹ. Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và gần như lấy thời gian sau mùa chay là thời gian chính thức để tôn kính Đức Mẹ. Trong việc này linh mục Chardon đã có nhiều công. Không những ngài làm cho lòng sốt sắng trong tháng Đức Mẹ được phổ biến trong nước Pháp mà còn ở mọi nước Công giáo khác nữa.
– Đức Giáo hoàng Piô 12, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, cho “việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ”.
– Đức giáo hoàng Phaolô 6, trong Thông điệp Tháng Năm, số 1 viết:“Tháng Năm là Tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để ” bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng.
Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ các tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai tòa rất dồi dào của Đức Mẹ” (Dictionary of Mary, Catholic book Pub. 1985, p. 236)
Một câu truyện cũ đáng ta suy nghĩ:
Ở thành Nancêniô trong nước Pháp, có một gia đình trung lưu. Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan. Vợ luôn cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình , nhưng chồng cứng lòng mãi.
Năm ấy đầu tháng Hoa Đức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con làm việc tháng Đức Mẹ. Chồng bà bận việc làm ăn, ít khi ở nhà, và dù ông ở nhà cũng không bao giờ cầu nguyện chung với mẹ con. Ngày lễ nghỉ không bận việc làm thì cũng đi chơi cả ngày, nhưng ông có điều tốt là khi về nhà, bao giờ cũng kiếm mấy bông hoa dâng Đức Mẹ.
Ngày 15 tháng Sáu năm ấy, ông chết bất thình lình, không kịp gặp linh mục. Bà vợ thấy chồng chết không kịp lãnh các phép đạo, bà buồn lắm, nên sinh bệnh nặng, phải đi điều trị ở nơi xa. Khi qua làng Ars, bà vào nhà xứ trình bày tâm sự cùng cha xứ là cha Gioan Vianey.
Cha Vianey là người đạo đức nổi tiếng, được mọi người tặng là vị thánh sống. Bà vừa tới nơi chưa kịp nói điều gì, cha Gioan liền bảo:
– Đừng lo cho linh hồn chồng bà. Chắc bà còn nhớ những bông hoa ông vẫn đem về cho mẹ con bà dâng cho Đức Mẹ trong tháng Hoa vừa rồi chứ?
Nghe cha nói, bà hết sức kinh ngạc, vì bà chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy, nếu Chúa không soi cho cha, lẽ nào người biết được?
– Cha sở nói thêm: Nhờ lời bà cầu nguyện và những việc lành ông ấy đã làm để tôn kính Đức Mẹ, Chúa đã thương cho ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết. Ông ấy đã thoát khỏi hỏa ngục, nhưng còn bị giam trong luyện ngục, xin bà dâng lễ, cầu nguyện, làm việc lành thêm cầu cho ông chóng ra khỏi nơi đền tội nóng nảy mà lên Thiên đàng.
Nghe xong lời cha Gioan, bà hết sức vui mừng tạ ơn Đức Mẹ. (Sách Tháng Đức Bà, Hiện Tại xuất bản, 1969, trang 10).
Nếu chỉ vì mấy bông hoa mọn dâng kính Đức Mẹ cũng được Đức Mẹ ban ơn cứu rỗi lớn lao như vậy, thử hỏi, những ai trong tháng Năm này tham dự dâng Hoa, rước kiệu, đọc kinh Mân côi, hơn nữa, họ dâng lên Mẹ những hoa tin, cậy, mến, hi sinh, đau khổ, bệnh nạn…chắc sẽ còn được Đức Mẹ ban muôn ơn trọng hơn nữa? vì Mẹ thích những bông hoa Xanh của lòng Cậy, hoa Đỏ của Lòng mến, hoa Trắng của lòng trong sạch, hoa Tím của hãm mình, hoa vàng của niềm tin, hoa Hồng của kinh Kính mừng lắm lắm.
Thánh Anphongsô Ligori quả quyết rằng: “Nếu tôi thật lòng yêu mến Mẹ, thì tôi chắc chắn được lên thiên đàng”.
Thánh Bênado diễn tả văn vẻ hơn: “Được Mẹ dẫn dắt, bạn sẽ không ngã. Được Mẹ che chở, bạn sẽ không sợ. Được Mẹ hướng dẫn, bạn sẽ an lòng. Được Mẹ ban ơn, bạn sẽ đạt đích mong chờ”.
Lm. Đoàn Quang, CMC
2022
Cựu giám mục Anh giáo đã trở thành linh mục Công Giáo được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phong tước Đức ông
Cựu giám mục Anh giáo đã trở thành linh mục Công Giáo được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phong tước Đức ông
Cha Michael Nazir-Ali, một cựu giám mục Anh giáo, giờ đây có thể được gọi một cách kính trọng với danh xưng “Đức ông”. Chỉ bảy tháng sau khi trở thành một người Công Giáo, vị linh mục, được biết đến với công việc thúc đẩy đối thoại liên tôn, đã nhận được danh hiệu “Đức Ông” từ Đức Thánh Cha Phanxicô vào tuần trước.
Danh hiệu “Đức Ông” trong Giáo Hội Công Giáo là tước hiệu danh dự, được trao cho một linh mục được Đức Giáo Hoàng công nhận có những thành tích nổi bật trong việc phục vụ Giáo hội.
Đức Ông Nazir-Ali là chủ tịch của OXTRAD, Trung tâm Đào tạo, Nghiên cứu, Vận động và Đối thoại của Oxford, hoạt động để đào tạo các Kitô hữu tham gia đối thoại ở các khu vực trên thế giới nơi họ phải đối mặt với sự đàn áp. Theo trang web của họ, OXTRAD nhằm mục đích đáp ứng “ thách thức ngày càng tăng của chủ nghĩa cực đoan tôn giáo quốc tế, chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa thế tục ý thức hệ mà các nhà lãnh đạo Kitô giáo và các Giáo Hội mà họ lãnh đạo ngày nay phải đối mặt.”
Đức Ông Nazir-Ali từng là một giám mục Anh giáo nổi tiếng, và từng được coi là có tiềm năng trở thành Tổng Giám Mục Canterbury, tức là Giáo Chủ Anh Giáo.
Vị cựu giám mục của Rochester, Anh, đã bỏ hết tất cả các chức tước trong Anh Giáo để trở thành một giáo dân bình thường trong giáo hạt tòng nhân Đức Mẹ Walsingham.
Đức Ông Nazir-Ali được thụ phong linh mục Công Giáo vào cuối tháng 10 trong lễ phong chức tại giáo hạt tòng nhân Đức Mẹ Walsingham, được Đức Bênêđíctô XVI thành lập vào năm 2011 cho các nhóm Anh giáo gia nhập Công Giáo nhưng vẫn muốn bảo tồn các yếu tố trong Phụng Vụ của họ.
Giải thích về quyết định cải đạo của mình, cựu Giám Mục Nazir-Ali nói: “Tôi tin rằng mong muốn của người Anh giáo tuân theo giáo huấn của các thánh tông đồ, các giáo phụ và công đồng hiện có thể được duy trì tốt nhất trong giáo hạt tòng nhân Đức Mẹ Walsingham.”
Đối với nhiều người Anh Giáo, hôn nhân đồng tính, việc phong chức cho phụ nữ, chấp nhận cho ly hôn vượt quá tâm lý có thể chịu đựng được của họ. Vì thế, họ bỏ sang Công Giáo. Oái oăm là các Giám Mục tại Đức đang hô hào ngược lại.
Đức Ông Nazir-Ali sinh năm 1949 tại Karachi, Pakistan và theo học tại các trường Công Giáo. Vị cựu Giám Mục Anh Giáo có cả nền tảng gia đình Kitô và Hồi giáo, đồng thời có quốc tịch Anh và Pakistan.
Ngài được phong chức giáo sĩ Anh giáo năm 1976, làm việc tại Karachi và Lahore. Ngài trở thành cha sở nhà thờ chính tòa Anh giáo Lahore và được tấn phong giám mục tiên khởi của giáo phận Anh Giáo Raiwind ở Tây Punjab.
Năm 1994, ngài được bổ nhiệm làm giám mục Anh giáo của giáo phận Rochester, bao gồm các khu vực của Medway, phía bắc và phía tây Kent, và các quận Bromley và Bexley của London.
Đặng Tự Do