2022
Can đảm
15/10 Thứ Bảy
Thánh Têrêxa thành Avila, Đtts
Ep 1:15-23; Tv 8:2-3,4-5,6-7; Lc 12:8-12
Can đảm
Trong Giáo Hội có nhiều thánh nữ mang danh là Têrêxa, và mỗi vị Têrêsa đều có một nét riêng đặc biệt nào đó. Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu thường được trìu mến gọi bằng Chị Thánh vì tính cách đơn sơ dễ thương. Thánh Têrêxa Calcutta thường được gọi là Mẹ Têrêxa vì cung cách đối xử tốt lành mẹ giành cho những người nghèo khổ bệnh tật với tâm tình như một người mẹ hiền. Chúng ta còn có một Têrêsa-Mẹ, vì là mẹ Bề trên sáng lập dòng Cacmen, mà người Việt Nam thường gọi là Dòng Kín (vì kỷ luật nhiệm nhặt của dòng này). Đây chính là vị thánh mà hôm nay chúng ta muốn nói tới.
Thánh nữ Têrêsa sinh ngày 28/3/1515, tại Avila, nước Tây ban Nha. Thánh nữ là một trong 12 người con của một gia đình hàng quí tộc An-phong. Ngay từ nhỏ, Têrêxa đã tỏ ra thích đọc truyện các thánh. Với lòng nhiệt thành, em cảm thấy lòng mình lâng lâng niềm hạnh phúc vì những ân thưởng dạt dào Chúa dành cho những tâm hồn thánh thiện, cũng như run sợ tột độ khi nghĩ đến hình khổ mãi mãi của hỏa ngục. Có lần em đau khổ thốt lên: “ai có thể chịu nổi cái ý nghĩa như thế được?”.
Một hôm, em cùng cậu em trai là Rô-tin đọc hạnh các thánh tử đạo, thấy các ngài can đảm hi sinh chịu chết vì Chúa, và được nên thánh trong Giáo hội, Têrêsa bảo em: “chúng ta hãy đến chỗ người ta đang bắt đạo, để chị em mình được chết vì đạo, được Chúa thưởng lên trời hưởng phúc với các thánh”. Vì mong ước được tử đạo, nên một ngày kia, em lén dẫn cậu em Rodrigue đi về miền dân dữ tợn đang hành hạ các Kitô hữu; nhưng mới đi được nửa dặm đường thì ông cậu bắt được đem trở về nhà. Không được tử đạo, các em đành trở thành những nhà ẩn tu, làm những cái hầm nhỏ và cầu nguyện lâu giờ tại đó. Nhưng rồi một ngày kia, những bức tường nhỏ bằng đá cũng bị sập. Các em nhỏ này thường nhịn ăn để làm việc bác ái. Têrêsa có lòng kính mến Đức Mẹ và mỗi ngày đều lần hạt Mận Côi. Năm 12 tuổi, mẹ Têrêsa mất, ngài đến quì trước ảnh Đức Mẹ, xin Đức Mẹ nhận làm con, và hứa suốt đời sống xứng đáng là con của Đức Maria.
Rồi Têrêsa sang tuổi dậy thì, cô bắt đầu nhiễm mùi thế tục, ưa làm dáng, thích được người ta ngắm nhìn, khen ngợi ve vãn, ngày ngày mơ mộng viển vông. Cô lén đọc những truyện kiếm hiệp nên tâm hồn càng thêm mơ mộng phiêu lưu. Thấy vậy, cha cô lo âu rồi quyết định gởi cô vào nội trú nơi các nữ tu dòng Autinh. Têrêsa không thích thú gì, càng không muốn sau này mình trở thành nữ tu, nhưng cô buộc phải vâng lời cha. Và cô sắp tìm lại được lòng đạo đức của tuổi ban đầu khi sống gần những bậc thầy chân tu này. Một đàng, cô khao khát những của cải thiêng liêng bất diệt, nhưng đời sống khắc khổ trong tu viện làm cô e sợ ngại ngùng.
Nhưng chẳng may, Têrêsa ngã bệnh nặng, phải trở về nhà chữa trị. Dường như Chúa muốn luyện lọc tôi tớ ngài qua nhiều thử thách:12 tuổi mồ côi mẹ, 15 tuổi nhiễm mùi thế tục, nay lâm trọng bệnh! Trong thời gian chữa bệnh, cô nhận ra đời sống con người thật mỏng manh, nay khỏe mai đau, nay còn mai mất. Và cái chết đến bất cứ lúc nào, và nếu chết mà sa hỏa ngục thì khốn khổ dường nào !…
Vớí ý nghĩ ấy, cô quyết định theo Chúa, hiến thân trọn vẹn cho Chúa, suốt đời chỉ yêu mến và phụng sự một mình Chúa thôi. Sau khi sức khỏe hồi phục, để thực hiện ý định, vào năm 1536, lúc này Têrêsa đã 19 tuổi, cô xin vào Dòng Kín tại Avila. Lúc đó nhà dòng còn sống thoải mái tự do, chưa nhiệm nhặt như ngày nay. Cô xác tín rằng ơn gọi của mình là sống đời nữ tu. Nhưng những chống đối dữ dội nổi lên trong lòng, cộng với sự phản đối chối từ của cha khiến cô khổ sở như xương cốt rã rời và tan nát con tim, nhưng cô đã mạnh mẽ thắng vượt mọi thử thách.
Vào năm 1555, Têrêsa cảm nhận một biến chuyển sâu xa trong tâm hồn khi suy niệm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, và cũng nhận được nhiều thị kiến lạ lùng được các nhà thần học công nhận là xác thực.Ngài phát biểu: “Mỗi khi suy tưởng đến Đức Kitô, chúng ta hãy nhớ đến tình yêu đã khiến Ngài ban cho ta biết bao ân huệ. Hãy nhớ Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta dường nào khi thể hiện tình yêu ấy nơi Đức Kitô. Và vì tình yêu đòi hỏi tình yêu nên mỗi khi nhớ đến điều ấy lại thúc đẩy chúng ta yêu mến hơn”.
Têrêsa đã trải qua 27 năm tại tu viện Nhập Thể nơi luật dòng chưa khép vào nhiệm nhặt như ngày nay. Ngài còn phải trải qua một bước dài trước khi dấn thân vào con đường chông gai để xây dựng và cải tổ dòng tu. Lại nữa, sức khỏe yếu kém của ngài xem ra không kham nổi cuộc thử thánh. Các bác sĩ đành bó tay trước tình trạng bệnh tật và khuyên ngài trở về nhà. Ngài chạy đến khẩn nài và phó thác nơi thánh Giuse như vẫn thường làm, và được khỏi bệnh cách lạ lùng. Têrêsa còn phải qua nhiều năm chịu thử thách bằng khô khan trong tâm hồn, bằng sợ hãi hỏa ngục.
Và trong vòng 20 năm, ngài không tìm được cha linh hướng hiểu được tình trạng tâm hồn mình để giãi bày những thị kiến bí ẩn. May thay sau cùng, ngài được cha Phanxicô Borgia nâng đỡ, rồi buộc ngài ghi lại những điều đã xảy ra trong lòng mình. Và thánh nữ một người ít học đã viết nên những tác phẩm có giá trị cao về tu đức, để sau này được Đức giáo hoàng Phaolô VI phong tặng danh hiệu Tiến sĩ vào ngày 27.9.1970.
Nếu khi bắt đầu đời tiến đức, sự sợ hãi các hình khổ đời đời đã dẫn Têrêsa vào con đường hẹp đưa tới sự cứu rỗi, thì nay tình yêu Chúa xâm chiếm tâm hồn như cơn hỏa hào dẫn tới việc ngài luôn kết hiệp với Đấng chịu đóng đinh và ước ao chịu khổ nên nhiều người được nghe thánh nữ thốt lên: “Lạy Chúa, hoặc là chết, hoặc là đau khổ”.
Ngày tự ràng buộc bởi lời khấn anh hùng này, nhưng lại chẳng tỏ ra nhiệm nhặt chút nào, trái lại còn nhanh nhẹn vui tươi duyên dáng tới mức gõ mõ mua vui cho chị em trong dòng. Vị nữ tu chiêm niệm này còn để lộ một hiểu biết tích cực , một tinh thần thực tiễn sẽ đưa ngài tới cuộc cải tổ dòng Camelô.
Định mệnh sắp đặt đưa ngài qua những chặng đường để thiết lập các tu viện theo hướng nhiệm nhặt. Trước hết, năm 1562, khép mình ở Avila, nhưng một nhà dòng mang danh thánh Giuse, là nơi các nữ tu sống trong thinh lặng, khó nghèo, cầu nguyện, chay tịnh, đi chân không trong mọi mùa. Ra khỏi nơi này, Têrêsa không ngừng thiết lập những tu viện mới với trăm ngàn khó khăn chồng chất: phần vì chung sống với bệnh tật, phần vì những cuộc hành trình trong thời tiết nóng nung về mùa hạ hay lạnh lẽo thấu xương vào mùa đông, và những cuộc bắt bớ tấn công. Ngài viết cho một vị ân nhân: “Thiếu tiền bạc đã vậy, nhưng khi chúng tôi như bị ném đá, thì công việc lại trôi chảy”.
Và khi đã vượt qua những trở ngại để thiết lập xong một tu viện, mẹ lại trải qua những đau đớn tâm lý khi giã từ các con cái yêu dấu để ra đi xây dựng tu viện ở nơi khác. Ngài tâm sự:đây là nỗi thống khổ đau đớn nhất. Tim tôi tan nát vì nghĩ rằng sẽ không còn gặp lại họ nữa”. Được thánh Gioan thánh gía trợ lực, ngài trải rộng việc canh tân tới các tu sĩ dòng Camelô mà ngài muốn tái lập sự nghiêm nhặt ban đầu, điều gây nên bao xôn xao và đường như làm cho ngài bị cầm tù. Nhà vua và Đức giáo hoàng bảo vệ ngài. Ngài đã thiệt lập hơn 30 tu viện.những hoạt động chồng chất, những việc xây dựng,những cuộc du hành,những khó khăn vô số…đã không ngăn cản niềm vui hưởng sự hiện diện của Chúa, kiên trì cầu nguyện đi tới xuất thần; ngài nói: “tôi không hiểu tại sao người ta bảo tôi là người sáng lập, chính Chúa sáng lập chứ không phải tôi”.
Với sự linh hoạt, ngài dùng vài lời tóm gọn linh đạo: “phải can đảm để có thể trở thành nữ tử của Cha trên trời. Đừng lo suy nghĩ nhiều, nhưng là yêu nhiều. Nỗ lực của ta là bắt chước con tằm, xây tổ bằng cách tẩy trừ ích kỷ và thực hiện việc sám hối, cầu nguyện, hi sinh, vâng lời. Chúa sẽ biến ta thành bướm trắng khi Ngài muốn. Quan trọng là biết yêu mến và kính sợ, hai nhân đức vĩ đại. Khi bị đau khổ bên ngoài cần chăm lo việc bác ái và biết đặt hi vọng vào lòng thưong xót của Chúa”. Nhiệm nhặt nhưng vui tươi trong thánh thiện, đôi khi điểm chút hài hước hóm hỉnh như chi tiết sau đây được nhiều người biết đến khi ngài bị thương ở chân: “Lạy Chúa, sau bao nhiêu phiến muộn, lại đến chuyện này nữa, cha đối xử với các bạn cha như thế đó…Vâng lạy Chúa, thảo nào Chúa ít bạn !”.
Chính tình yêu qúa mức hơn là cơn bệnh đã đưa tới cái chết của ngài. Khi đưa Thánh Thể như của ăn đàng vào phòng bệnh nhân, ngài tung mình ra hỏi giường nói to: “Lạy Chúa, đến lúc chúng ta gặp nhau rồi”. Ngài qua đời ngày 15.10.1582, và đời đời Têrêsa đã hiệp nhất với tình yêu.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc sống. Ngày nay chúng ta thấy trong cuộc sống không có những cuộc bách hại đạo công khai, không còn những hình phạt đe dọa. Nhưng trái lại, người Kitô hữu đang phải trải qua rất nhiều những khó khăn phải chịu để nói lên niềm tin của mình đến mức độ như là tử đạo. Nhưng lời Chúa hôm nay dạy chúng ta hãy an tâm, vì “ngay trong giờ đó Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói” (Lc 12, 12). Chúa Thánh Thần là hồn sống, Ngài luôn hoạt động trong Hội Thánh để dẫn dắt Hội Thánh can đảm rao giảng rao giảng Tin Mừng.
“Thầy nói cho anh em biết, phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt thiên thần của Thiên Chúa. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12, 8-9).
Hơn bao giờ hết trong cuộc sống chúng ta hôm nay dễ làm cho chúng ta quên Chúa, chúng ta không chối Chúa cách công khai như Thánh Phêrô xưa, nhưng những chi phối trong đời sống, chúng ta đã và đang trên đà chạy theo danh vọng, chức quyền, và chạy theo những nhu cầu trong cuộc sống, vì đồng tiền, vì công việc, và những thú vui trần gian, những trào löu trong xã hội, đã đang lôi cuốn chúng ta tất cả như một cơn gió lốc đang xoáy và cuốn tròn lại cuộc đời chúng ta trong cơn lốc trần thế này.
Đứng trước những cám dỗ của thời đại này, cũng có những lúc, chúng ta cũng có những lần chối Chúa, cũng có những lúc chúng ta như bỏ đạo, khi chúng ta lao mình vào trong những cuộc vui chơi giải trí với bạn bè, mà quên đi ngày lễ Chúa Nhật, thậm chí quên đi mình là một Kitô hữu, khi tôi bán rẻ lương tâm trong việc tham nhũng, khi lỡ lầm mà đã đi đến chỗ hủy hoại đi một mầm sống, và cũng có những lúc chúng ta bon chen vào những việc làm tội lỗi, vì có tiền và kiếm được nhiều tiền mà tôi đã quên hẳn đi tôi là môn đệ của Đức Kitô “người môn đệ công chính”. Trong hoàn cảnh như thế tôi như đã và đang làm đảo lộn đi chân tính người mộn đệ của Chúa. Đúng ra tôi phải tuyên xưng Chúa trong mọi nơi mọi lúc, thì thay vào đó tôi đã để Chúa bị quên lãng, mặc dù đã bao nhiêu lần tôi được nghe Chúa Giêsu bảo đảm và hứa ban phần thưởng trọng hậu cho ai tuyên xưng Ngài bằng cách trung thành với Ngài trong cuộc sống hôm nay.
“Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, và phải nói gì, vì ngay trong giờ đó Thánh Thần sẽ dạy cho anh cho anh em biết những điều phải nói” (Lc 12, 11-12). Lời Chúa ngày hôm nay chúng ta nghe đọc, được tiếp nối với Lời Chúa ngày hôm qua có cùng một “chủ đề”: Chúa Giêsu khuyên các môn đệ hãy mạnh dạn sống và rao giảng Tin Mửng. Đừng sợ! Ngài trấn an các môn đệ vì biết chắc rằng, trong hành trình rao giảng của các ngài còn có Thiên Chúa, Đấng luôn quan phòng và nhờ Chúa Thánh Thần cùng đồng hành. Tình thương Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc con người và bao bọc con người, bảo vệ cho con người được an toàn và luôn vui hưởng hạnh phúc, hãy luôn tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, người luôn gìn giữ chở che.
Vậy được sống trong ân tình của Thiên Chúa, người Kitô hữu cố gắng sống sao cho xứng danh là người môn đệ: không gian tham, không bóc lột, không tham nhũng, nhưng luôn sống bác ái, khiêm nhường tha thứ thay vì báo thù. Người môn đệ của Chúa luôn sống theo tinh thần của Chúa trong mọi hoàn cảnh, dù phong ba bão tố của cuộc đời, dù an bình thư thái, người môn đệ luôn biết tuyên xưng Chúa Giêsu là Thầy và là Đấng Cứu Độ.
2022
Sám hối
10/10 Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi-Tám Mùa Quanh Năm
Gl 4:22-24,26-27,31; Gl 5:1; Tv 113:1-2,3-4,5,6-7; Lc 11:29-32
Sám hối
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trình bày hai câu chuyện trong qua khứ: ông tiên tri Giôna và Nữ Hoàng Phương Nam, và chuyển đổi câu chuyện này thành hình ảnh trong cách mà người ta có thể khám phá ra trong đó Chúa kêu gọi việc hối cải.
Niềm tin vào Chúa thật sự là một niềm tin do ân huệ Chúa ban cách nhưng không, cho những ai thành tâm tìm kiếm Ngài, chứ không phải do điều kiện mà có được niềm tin ấy. Người thành tâm như thế, sẽ nhận ra Chúa ở mọi nơi, mọi lúc qua các dấu chỉ trong đời thường, cũng như lúc cầu nguyện, làm các việc đạo đức, khi gặp gỡ người khác, hay khi làm việc tông đồ. Từ đó, họ sẽ có kinh nghiệm về Chúa, tin Chúa, đón nhận những tác động của Chúa mà sám hối, hoán cải trở về với Chúa. Biết được ý Chúa mà thi hành như một sứ mạng Chúa trao, đem lại cho họ một niềm vui thiêng liêng trong đời sống làm người Kitô hữu.
Ta thấy các Luật Sĩ và Biệt Phái cứng lòng tin, dù họ đã nghe Chúa Giêsu giảng dạy, thấy những phép lạ Chúa làm, họ còn đòi Chúa các dấu lạ trên trời, như họ đã đọc thấy trong sách khải huyền Dothái: Nước trời đến kèm theo dấu lạ trên không trung, và họ quan niệm đó là kỳ công của Thiên Chúa như trong thời xuất hành, thời ngôn sứ Êlia. Chúa Giêsu nói với họ thật nghiêm khắc: Ôi thế hệ gian ác và ngoại tình chúng đòi dấu lạ, thay vì tin và sám hối.
Dòng giống gian ác đòi hỏi một điềm lạ. Chúa Giêsu gọi họ là dòng giống gian ác, bởi vì họ không muốn tin vào Chúa Giêsu và tiếp tục đòi hỏi dấu lạ có thể chỉ ra rằng Chúa Giêsu đã được Chúa Cha sai đến. Nhưng Chúa Giêsu từ chối đưa ra những dấu chỉ này, bởi vì một cách dứt khoát, nếu họ đòi hỏi một điềm lạ thì đó là vì họ không tin. Điềm lạ duy nhất được cho thấy là tiên tri Giôna.
Điềm lạ về tiên tri Giôna. Điềm lạ về tiên tri Giôna có hai khía cạnh khác nhau. Khía cạnh thứ nhất là những gì mà văn bản của Luca khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay. Ông tiên tri Giôna đã là một điềm lạ, nhờ vào lời giảng dạy của ông, cho dân thành Ninivê. Nghe theo lời tiên tri Giôna, người ta đã sám hối. Trong cùng một cách, lời giảng dạy của Chúa Giêsu là một dấu chỉ cho dân của Người, thế nhưng người ta đã không cho thấy bất kỳ một dấu hiệu sửa đổi nào. Còn khía cạnh kia là điều mà sách Tin Mừng Mátthêu khẳng định khi Người trích dẫn câu chuyện tương tự: “Quả thật, ông Giôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy” (Mt 12:40). Khi kình ngư mửa ông Giôna ra trên đất liền, ông đã đi công bố Lời Chúa cho dân thành Ninivê. Do đó, trong cùng một cách, sau cái chết và sự sống lại vào ngày thứ ba, Tin Mừng sẽ được công bố cho dân chúng thành Giuđa.
Họ đòi dấu lạ không phải như một bằng chứng để tin, nhưng là để khiêu khích Chúa, những gì họ đã nghe đã thấy chưa đủ cho Chúa thuyết phục họ. Chúa Giêsu từ chối không làm phép lạ theo ý họ, Chúa dùng tích truyện Giona để nói về dấu lạ cả thể nơi chính bản thân Ngài, qua cuộc tử nạn và sau ba ngày Ngài phục sinh, để mời gọi mọi người tin và sám hối. Chúa Giêsu còn lấy gương mẫu dân thành Ninivê sám hối nhờ lời rao giảng của Ông Giôna, Ngài cũng liên tưởng đến Nữ Hoàng Phương Nam tìm nghe lời khôn ngoan của Vua Salômon. Đáng tiếc cho Biệt Phái và Luật sĩ vì Chúa Giêsu trọng hơn Giôna, và khôn ngoan hơn Salômon mà họ chẳng muốn nghe Ngài. Chứng tích sám hối của dân thành Ninivê và của thế hệ Nữ Hoàng Phương Nam như một lời tố cáo nặng nề tội lỗi của Biệt Phái và luật sĩ, vì họ cứng tin đòi dấu lạ và thất trung với giao ước.
Người Biệt Phái luật sĩ đòi dấu lạ, đó cũng là điều thông thường của chúng ta hôm nay, để thỏa mãn tính hiếu kỳ, sự đắc thắng của mình. Phép lạ chỉ có giá trị nâng đỡ niềm tin chứ không phát sinh hay ép buộc niềm tin. Cũng chính vì Chúa tôn trọng tự do con người Chúa không dùng phép lạ làm áp lực con người, nên Chúa đã không làm phép lạ như Biệt Phái và luật sĩ yêu cầu.
Qua lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với Biệt Phái và luật sĩ, chúng ta hãy thức tỉnh lại, chúng ta có gian ác khi đòi Chúa làm phép lạ mới tin, khi chúng ta chai đá trước lời giảng dạy của Hội Thánh. Chúng ta ngoại tình khi chúng ta sống đạo vụ hình thức, hoặc chưa thực sự sống trọn vẹn cho Chúa mà còn để lòng mình quyến luyến thụ tạo hơn Chúa, đam mê các thú vui trần thế hơn việc đạo đức. Có khi chúng ta phản bội tình thương của Chúa, để chạy theo những đam mê xác thịt.
Trong ngày phán xét chúng ta có thể bị kết án nặng nề hơn người khác vì chúng ta đã làm mất ơn Chúa, không dùng ơn Chúa để sinh lợi ích cho linh hồn mình và tha nhân. Phép lạ đã xảy ra hằng ngày trong Thánh lễ, trong các Bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, trong đời sống chúng ta, chúng ta có dùng để nâng cao đời sống đức tin, đi sâu vào đời sống đạo hơn không? Trong bầu khí mùa chay, chúng ta hãy sám hối và trở về với Chúa, tin Chúa và sống đạo chân thật không cần dấu lạ nào hơn là chính Chúa đã chết và sống lại. Chúng ta cũng noi gương Chúa trong việc truyền bá đức tin bằng cách dùng lời Chúa, đời sống của Chúa, những việc Chúa đã làm để yêu thương chúng ta, hơn là áp đảo bằng những việc làm thỏa mãn sự hiếu kỳ đắc thắng của người chúng ta phục vụ.
Xin Chúa ban cho chúng ta biết sám hối về cách sống đạo lệch lạc của chúng ta theo kiểu Biệt Phái, luật sĩ, để tin vào lời Chúa, tin vào sự chết và sống lại của Chúa. Sẵn sàng mở rộng lòng mình đón nhận ơn Chúa qua Hội Thánh để sống đạo tốt và đúng ý Chúa hơn.
2022
Lời tuyên tín
23.9 Thứ Sáu trong tuần thứ Hai Mươi-Năm Mùa Quanh Năm
Gv 3:1-11; Tv 144:1-2,3-4; Lc 9:18-22
Lời tuyên tín
Chúng ta biết rằng thánh sử Luca luôn luôn ghi lại chi tiết Chúa Giêsu cầu nguyện trong những giây phút quan trọng của cuộc đời Chúa. Chúa cầu nguyện khi lãnh nhận phép rửa của Gioan tiền hô để bắt đầu cuộc đời rao giảng Tin Mừng; Chúa cầu nguyện suốt đêm trước khi gọi riêng mười hai tông đồ; rồi Chúa cầu nguyện trước khi hỏi các môn đệ: “Các con nghĩ Thầy là ai?”; Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi dạy các tông đồ kinh Lạy Cha; Chúa Giêsu cầu nguyện nơi vườn cây dầu trước khi bước vào cuộc thương khó và Chúa Giêsu cầu nguyện trên thập giá. Việc Chúa cầu nguyện cho những giây phút quan trọng của cuộc đời Chúa, mời gọi chúng ta tự vấn về đời sống thiêng liêng của mình: “tôi thường cầu nguyện lúc nào và trong những giây phút quan trọng của cuộc đời tôi có cầu nguyện hay không và cầu nguyện như thế nào?”
Biến cố Chúa Giêsu tra hỏi các môn đệ về thực thể Ngài là ai để cuối cùng đi đến lời tuyên xưng đức tin: “Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” là một biến cố quan trọng. Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước khi bắt đầu tra hỏi các môn đệ: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” để theo Chúa trọn vẹn, không cần biết rõ cái chết của Chúa cho bằng có được mối tương quan thân tình mật thiết với Chúa. Chúa Giêsu không hỏi các môn đệ về giáo lý nhưng về chính mình, về chính thực thể Ngài là ai đối với họ.
Và để trả lời được cho câu hỏi này thì cần phải trả lời hai điều: thứ nhất là biết Chúa và thứ hai là yêu mến Chúa. Ðây không phải là vấn đề biết Chúa một cách trí thức qua sách vở, nhưng là biết cảm nghiệm trực tiếp giữa người với người, giữa Chúa và đích thân mỗi người, biết Chúa như biết một người bạn; đây không phải là vấn đề giáo thuyết nhưng là vấn đề cụ thể con người, hoặc trực tiếp tiếp xúc với con người Chúa Giêsu Kitô, là Ðấng hằng luôn luôn hiện diện bên cạnh mỗi người chúng ta. Do đó, cần phải có đức tin và tình yêu thương thì ta mới có thể trả lời đúng cho câu hỏi Chúa Giêsu là ai đối với tôi? Một người không có đức tin hay ít đức tin, sống nguội lạnh thì quả thực là khó để trả lời cho câu hỏi của Chúa.
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ rằng: “Những đám dân chúng bảo Thầy là ai?” Dư luận dân chúng Do Thái chưa nhận rõ Chúa Giêsu là Chúa.
Thật đau lòng về con người thời đại ngày nay, con số những người chưa nhận biết Chúa Giêsu dường như ngày càng gia tăng.
Thật đau lòng, bởi nhiều người trong chúng ta, dù đã được rửa tội, là con cái Chúa và Hội Thánh, đọc kinh cầu nguyện, đi lễ, nghe Lời Chúa,…thế nhưng, qua cách sống của chúng ta, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung và mờ nhạt.
Chúa hỏi lại các môn đệ : “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Hôm nay Chúa cũng hỏi lại chúng ta câu hỏi đó : “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”
Vì thế, việc nhận ra Đức Kitô vẫn còn là một thách đố đối với với con người thời nay, cách riêng từng người tín hữu Kitô.
Phêrô tuyên xưng đức tin “Thầy là Ðấng Kitô” được như thế là nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần mạc khải cho ông.
Chính nhờ lời tuyên xưng về căn tính của Thầy mình như Phêrô, đủ để làm chứng rằng : những ai đi theo Đức Kitô và làm môn đệ của Ngài, mới có thể xác tín được niềm tin của mình một cách chắc chắn, rõ nét; Bởi, niềm tin đó xuất phát từ nội tâm; bắt nguồn từ một cuộc gặp gỡ và khám phá ra Đức Kitô là Chúa và là Thầy; xuất phát từ lòng yêu mến Chúa cách chân thành, sâu xa và hoàn toàn mang tính thánh thiêng tuyệt vời.
Có niềm tin mạnh, chắc chắn Phêrô và kể cả các môn đệ khác mới sẵn sàng đi theo Đức Giêsu cho đến cùng, noi gương bắt chước đời sống của Thầy, sẵn sàng cùng chết với Thầy và cùng sống lại với Ngài trong vinh quang.
Tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô là điểm quan trọng nhất của tất cả các môn đệ.
Nếu chúng ta tin ai, thì chúng ta phải biết rõ về người đó, đi theo người đó, hết lòng yêu mến người đó. Chúng ta thần tượng người đó, bắt chước từng nét từng nét của thần tượng.
Nếu mỗi người tín hữu Kitô hôm nay khi đã tin vào Đức Kitô, hãy cố gắng bắt chước Ngài nhiều hơn.
Chúng ta biết về Chúa, học hỏi nhiều về Chúa, nhưng chưa đủ. Chúng ta còn cần phải đi theo Ngài, sống như Ngài, say mê Ngài, yêu mến Ngài , gắn bó với Ngài.
Thử hỏi chúng ta đã được giống như Chúa Giêsu nhiều hay ít, giống ở những điểm nào.
Sau lời tuyên xưng của Phêrô, Chúa Giêsu bổ nhiệm ông làm người lãnh đạo Hội Thánh và là người gìn giữ chìa khóa Nước Trời.
Nhưng chỉ ngay sau đó, ông đã can ngăn Chúa đừng đi Giêrusalem chịu chết. Phêrô đã tuyên xưng đức tin vào Chúa, nhưng ông còn nhiều yếu đuối, nhiều thiếu sót trầm trọng.
Trên hành trình đức tin của chúng ta, còn nhiều chông gai, khiến chúng ta ngã gục, tội lỗi, sa ngã…chính những lúc sa ngã, Chúa vẫn mời gọi chúng ta “Hãy theo Thầy”.
Chúng ta đi theo Chúa không phải bởi sức mạnh của chúng ta, nhưng nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, và hãy sống cuộc sống của một người môn đệ.
Phêrô tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô”. Mỗi người chúng ta cũng cần phải tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và sống như Ngài.
2022
Giám mục Ấn Độ Jacob Muricken từ bỏ chức vụ của mình để thành… ẩn sĩ
Giám mục Ấn Độ Jacob Muricken từ bỏ chức vụ của mình để thành… ẩn sĩ
Tháng 8 năm nay, giám mục thần học gia Jacob Muricken, giám mục phụ tá giáo phận Pala, thuộc giáo hội Syro-Malabar bang Kerala, miền nam Ấn Độ đã rời nhiệm sở để vào sống trong một ẩn thất.
Giám mục Jacob Muricken, giám mục phụ tá giáo phận Pala, thuộc giáo hội Syro-Malabar bang Kerala, miền nam Ấn Độ, trong một lần Đức Phanxicô tiếp kiến.
Từ giám mục đến ẩn sĩ đôi khi chỉ có một bước. Giám mục Jacob Muricken, 59 tuổi, tháng 8 vừa qua, giám mục đã vượt qua bước này, ngài rời nhiệm sở để đến định cư trong một ẩn thất do ngài xây tại Nallathanni trong giáo phận Kanjirappally, cũng thuộc bang Kerala. Ngày 22 tháng 8, linh mục Joseph Maleparampil của giáo phận trả lời trên trang UCA News: “Từ năm 2017 ngài đã chia sẻ ước mong được là ẩn sĩ, sau khi được Thượng hội đồng Giáo hội Syro-Malabar chấp thuận, ngài đã rời tòa giám mục.” Năm 2016, giám mục Jacob Muricken được mọi người biết đến khi ngài tặng một quả thận cho một tín hữu hinđu bị bệnh.
Theo trang UCA News, giám mục Muricken muốn “đến gần hơn với Thiên Chúa và thiên nhiên, ngài mong dành phần đời còn lại của mình để cầu nguyện và suy gẫm, hướng đến cuộc sống gần gũi với môi trường, tránh xa cuộc sống bận rộn hàng ngày của một giám mục”. Ngài nói: “Khi một người bình thường muốn là tu sĩ hoặc ẩn sĩ, họ không được chú ý nhiều, nhưng khi một giám mục thành ẩn sĩ, điều này thu hút sự chú ý của nhiều người. Có lẽ đến lượt họ, họ sẽ suy nghĩ về ý Chúa.”
Lời cầu nguyện của ngài chắc chắn sẽ thúc đẩy Giáo hội công giáo.
Linh mục Maleparampil nói tiếp: “Giám mục Muricken sống thanh đạm đến mức trước khi làm giám mục, ngài chưa bao giờ đi giày. Ngài bắt đầu đi giày sau khi là giám mục phụ tá. Ngài ăn chay rất đơn sơ, ăn hai lần một ngày. Ngài là nguồn cảm hứng cho tất cả chúng tôi. Đây là trường hợp đầu tiên trong Giáo hội công giáo Ấn Độ, một giám mục trở thành một ẩn sĩ. Lời cầu nguyện của giám mục chắc chắn sẽ thúc đẩy Giáo hội công giáo”.
Marta An Nguyễn dịch