Lắng Nghe và Chiêm Niệm
4/10 Thứ Ba
Thánh Phanxicô thành Assisi, Tu Sĩ
Gl 1:13-24; Tv 139:1-3,13-14,14-15; Lc 10:38-42
Lắng Nghe và Chiêm Niệm
Thánh Phanxicô Assisi là một người nghèo hèn nhưng đã làm bàng hoàng và gây nguồn cảm hứng cho Giáo hội bởi ngài sống sát với Phúc Âm – không trong ý nghĩa cực đoan hẹp hòi, nhưng thực sự sống theo những gì Ðức Giêsu Kitô đã nói và hành động, một cách vui vẻ, không giới hạn và không một chút tự tôn.
Cơn trọng bệnh đã giúp chàng thanh niên Phanxicô nhận ra sự trống rỗng của một đời sống vui nhộn khi còn là người thủ lãnh của nhóm trẻ ở Assisi. Sự cầu nguyện – thật lâu giờ và thật kham khổ -đã giúp ngài trút bỏ mọi sự để theo gương Ðức Kitô, đến độ ngài đã ôm lấy một người cùi mà ngài gặp trên đường. Ðiều đó nói lên sự tuân phục những gì ngài đã nghe được trong khi cầu nguyện: “Phanxicô! Mọi sự con yêu quý và khao khát nơi thân xác con, thì đó chính là điều con phải khinh miệt và ghét bỏ, nếu con muốn biết ý định của Thầy. Và khi con bắt đầu thi hành điều này, tất cả những gì đối với con dường như ngọt ngào và đáng yêu sẽ trở nên quá quắt và cay đắng, nhưng tất cả những gì mà con thường hay tránh né sẽ trở nên thật ngọt ngào và cực kỳ vui sướng.”
Từ Thánh giá trong một nguyện đường bỏ hoang ở San Damiano, Ðức Kitô nói với ngài, “Phanxicô, hãy đi xây dựng nhà của Thầy, vì nó đã gần sụp đổ.” Phanxicô trở nên một người lao động hoàn toàn khó nghèo và thấp hèn.
Chắc chắn ngài đã đoán ra được ý nghĩa sâu xa hơn của câu “xây dựng nhà của Thầy.” Nhưng ngài không bằng lòng chấp nhận việc đi xin từng cục gạch về xây lại nguyện đường hoang phế ấy. Ngài từ bỏ tất cả những gì ngài có, ngay cả đống quần áo ngài cũng trao lại cho cha của mình (là người đòi Phanxicô bồi thường những gì ngài đã cho người nghèo), để ngài hoàn toàn thuộc về “Cha trên trời.” Thời gian ấy, ngài bị coi là một thầy tu quá khích, đi ăn xin từng nhà này sang nhà khác, khi ngài không thể kiếm ra tiền bằng cuộc việc của mình được, khiến các bạn cũ phải buồn rầu và ghê tởm, và bị những người thiếu suy nghĩ nhạo cười.
Nhưng cái gì thật sự chân chính tất phải dần dần tỏ lộ. Người ta bắt đầu nhận ra rằng con người này đang cố gắng trở nên một Kitô hữu đích thực. Ngài thực sự tin vào điều Ðức Kitô dạy: “Hãy đi công bố nước trời! Ðừng mang theo vàng bạc, tiền của trong túi, đừng mang theo bao bị, giầy dép, gậy gộc” (Lc 9, 1-3).
Quy luật đầu tiên của Phanxicô cho những người muốn theo ngài là thu lượm tất cả những lời dạy của Phúc Âm. Ngài không có ý thành lập một dòng tu, nhưng một khi Tu hội thành hình, ngài đã bảo vệ nó và chấp nhận mọi hình thức tổ chức có cơ cấu luật pháp cần thiết để nâng đỡ nó. Sự tận tụy và trung thành với Giáo hội của ngài quả thật là điều tuyệt đối cần thiết và phải được đề cao trong một thời đại mà nhiều phong trào cải cách khác nhau lại dường như nhằm phá vỡ sự hợp nhất của Giáo hội.
Ngài bị xâu xé giữa một đời sống hoàn toàn tận hiến cho sự cầu nguyện và một đời sống tích cực rao giảng Tin Mừng. Và ngài đã quyết định theo đuổi đường rao giảng Tin Mừng, nhưng luôn luôn trở về sự tĩnh mịch bất cứ khi nào có cơ hội. Ngài muốn đến truyền giáo ở Syria và Phi châu, nhưng trong cả hai trường hợp ngài đều bị đắm tàu và đau nặng. Ngài cũng cố gắng hoán cải các vua Hồi giáo ở Ai Cập trong lần Thập tự Chinh thứ năm.
Trong những năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi (ngài từ trần khi 44 tuổi) ngài gần như mù và đau nặng. Hai năm trước khi chết, ngài được in năm Dấu thánh, là những vết thương thực sự của Ðức Kitô ở tay chân và cạnh sườn của ngài.
Trong giờ phút cuối cùng, ngài lập đi lập lại phần phụ thêm của Bài ca anh Mặt Trời, “Ôi lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì người chị tử thần.” Ngài hát Thánh vịnh 141:
Trước thánh nhan Chúa, hỡi địa cầu, hãy rung chuyển,
trước thánh nhan Chúa Trời nhà Giacóp,
Người biến đá tảng thành hồ ao,
và sỏi đá nên mạch nước dồi dào.
Và khi đã đến giờ lìa đời, ngài xin cha bề trên cho ngài cởi quần áo ra để nằm chết trần truồng trên mặt đất, giống như Ðức Giêsu Kitô.
Thánh Phanxicô Assisi trở nên nghèo hèn chỉ vì ngài muốn giống Ðức Kitô. Ngài coi vũ trụ được tạo dựng như là một sự biểu lộ khác của vẻ đẹp của Thiên Chúa. Trong năm 1979, ngài được đặt làm bổn mạng của khoa sinh thái. Ngài hãm mình phạt xác (để rồi sau này ngài phải xin lỗi anh “Thể xác”) để có thể hoàn toàn tuân thủ Thánh ý Chúa. Sự khó nghèo của ngài đi đôi với sự khiêm tốn, mà nhờ đó ngài hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa tốt lành. Nhưng tất cả những điều ấy chỉ để dẫn vào tâm điểm của đời sống tâm linh của ngài: Sống đời sống Phúc Âm, đã được tóm lược nơi lòng bác ái của Chúa Giêsu và được tỏ lộ cách tuyệt hảo nơi Bí tích Thánh Thể.
Tin Mừng hôm nay có thể được lắng nghe và suy niệm với nỗi thao thức ấy. Chúa Giêsu hẳn không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Marta tất bật với việc tiếp đãi khách, và một của Maria ngồi bên chân khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể và tích cực qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên ân cần. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Marta. Ngài chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria đang ngồi dưới chân Ngài để nói lên thái độ cơ bản mà con người phải có đối với Thiên Chúa, đó là thái độ lắng nghe và chiêm niệm.
Hơn bao giờ hết, sự hiện diện của những người hiến dâng cho việc cầu nguyện và chiêm niệm là một trong những kho tàng quí giá nhất của thời đại chúng ta, để nhắc nhở cho thế giới rằng cuộc sống con người không chỉ giản lược vào điều mà thánh Phaolô gọi là chuyện ăn, chuyện uống, tôn thờ cái bụng, và rằng cuộc sống chỉ có giá trị và đứng vững vì chính chiều kích siêu việt, thiêng liêng của nó.
Trong một bài nói chuyện với các nữ tu của một Dòng Kín tại Mêhicô năm 1979, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao sự hy sinh của họ như sau:
“Cuộc sống của chị em quan trọng hơn bao giờ hết; sự hiến thân trọn vẹn của chị em đầy tính thời sự. Trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về thần linh, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất, hỡi các nữ tu thân mến, các chị lại dấn thân vào các tu viện Kín để làm chứng cho những giá trị mà các chị sống cho. Các chị là những chứng nhân của Chúa cho thế giới ngày nay; với lời cầu nguyện, các chị đang thổi một luồng sinh khí mới vào trong Giáo Hội và con người ngày nay”.
Những lời của Ðức Gioan Phaolô II không chỉ đề cao chứng từ của các Tu sĩ chiêm niệm, mà còn nhắc nhở cho các Kitô hữu về chính chứng từ của sự cầu nguyện của họ. Có những người hiến thân trọn vẹn cho sự cầu nguyện, nhưng cầu nguyện không phải là độc quyền của một số người, mà phải là hơi thở cho tất cả những ai có niềm tin. Có những giây phút dành cho việc cầu nguyện đã đành, nhưng người Kitô hữu phải sống thế nào để biến cả cuộc sống của họ thành lời cầu nguyện. Chiêm niệm không chỉ là hoạt động dành riêng cho một số người hay một số giờ hoặc một số nơi nhất định. Chiêm niệm chính là thái độ tìm kiếm, lắng nghe và suy niệm bao trùm mọi sinh hoạt của người Kitô hữu.
Nguyện xin Chúa nung nấu sự khát khao trong tâm hồn chúng ta, để chúng ta luôn hướng về Ngài, tìm kiếm Ngài và kết hiệp với Ngài trong mọi sự. Nguyện xin Mẹ Maria là Ðấng luôn cất giữ và suy niệm mọi sự trong lòng, hướng dẫn chúng ta trong thái độ cầu nguyện và chiêm niệm của Mẹ.