GUIDO D’AREZZO, ĐAN SĨ ĐÃ PHÁT MINH RA CÁC NỐT NHẠC
Thiên tài âm nhạc
Rất ít yếu tố cho phép tái tạo rõ ràng cuộc đời của ông, tuy nhiên đa số các sử gia đều đồng ý rằng ông sinh năm 993 tại làng Pomposa của ý và ông qua đời trong khoảng thời gian từ 1033 đến 1050, tại đan viện Fonte Avellana. Khi còn rất trẻ, ông vào đan viện Biển Đức Pomposa, nơi ông được học nhạc lần đầu tiên và nhanh chóng được chú ý nhờ khả năng hiểu được sự hòa âm của âm thanh và phương pháp sư phạm của nó.
Bị trục xuất khỏi đan viện Pomposa vì những lý do vẫn còn chưa rõ ràng, ông phải đến sống ở Arezzo, nơi ông nhận được sự bảo vệ của Giám mục Teodaldo, người đã bổ nhiệm ông làm giáo sư dạy hát và lý thuyết âm nhạc ở trường của nhà thờ chính tòa Arezzo.
Guido d’Arezzo đã phát triển trong một thời đại mà việc truyền tải âm nhạc chủ yếu bằng miệng. Các nhạc sĩ bắt chước thầy của mình và những người hát lễ khó hát với nhau với sự trợ giúp của các ký hiệu nhỏ được ghi trên các bản văn : các dấu nơm. Bắt nguồn từ ký hiệu âm nhạc Grégorien, các dấu nơm cho phép các nghệ sĩ nhớ lại một giai điệu được ghi nhớ trước đó, nhưng không có chỉ dẫn chính xác về quãng hay cao độ của các nốt nhạc.
Người báo trước việc xướng âm
Do đó, vào thế kỷ 11, người mà chúng ta ngày nay gọi là “cha đẻ của âm nhạc” đã cách mạng hóa hệ thống ký hiệu âm nhạc bằng cách hoàn thiện một phương pháp sư phạm mới giúp các nghệ sĩ không phải học thuộc lòng, bằng tai, các khúc nhạc và bài hát.
Lúc đó, ông đã phát triển một hợp âm lục, một thang âm bao gồm sáu nốt cố định trên năm dòng, tương đương với các bản dàn bè hiện tại của chúng ta. Với mỗi nốt nhạc này, Guido d’Arezzo sẽ gọi một cái tên, ut-ré-mi-fa-sol-la, mỗi tên tương ứng với âm tiết đầu tiên trong các câu của bài Thánh thi kính thánh Gioan Tẩy Giả, một bài hát tôn giáo rất yêu thích của Dòng Biển Đức.
Bài Thánh thi tiếng Latinh này, do Paul Diacre viết, có một điểm đặc biệt: nó tăng cao độ ở mỗi đầu câu. Lúc đó, ông quyết định liên kết một cách lôgíc từng nốt của thang âm với âm tiết đầu tiên của mỗi câu thơ, do đó tạo ra một phương tiện lý tưởng.
UT queant laxis –REsonare fibris – MIra gestorum –FAmili tuorum – SOLve pollutir –LAbii reatum – Sancte Ioannes.
“Để những dây đàn thanh bình trên môi miệng chúng con có thể vang lên những kỳ công trong hành động của ngài, xin cất bỏ tội lỗi của kẻ tôi tớ ô uế của ngài, ôi lạy Thánh Gioan”.
Một ảnh hưởng đặc biệt
Liên quan đến nốt Si, ban đầu không có, nó có được nhờ sự rút gọn của Sancte Ioannes và sẽ được Anselme de Flandres thêm vào vào cuối thế kỷ XVI. Nốt Ut được cho là quá khó để nghe, nên đã được chuyển thành Do bởi nhà soạn nhạc Bononcini vào năm 1673. Nốt Do này được gợi hứng từ “Domine”, có nghĩa là « Chúa ».
Rất nhanh chóng được phổ biến cho toàn bộ thế giới âm nhạc tây Phương, phương pháp của Guido d’Arezzo đã cách mạng hóa việc học và thực hành âm nhạc. Thậm chí ngày nay, ông vẫn được coi là một trong những nhà phát minh ra các nốt nhạc.
Một số nước không sử dụng cách đặt tên mới này và vẫn giữ một hệ thống cũ gọi tên các nốt nhạc bằng các chữ cái đầu tiên của bảng chữ cái, kế thừa từ Hy Lạp cổ đại : A (La), B (Si), C (Do), D (Ré), E (Mi), F (Fa) và G (Sol). Phương pháp này kéo dài lâu hơn nơi các nước Anglo-Saxon và Germanic.