Cử chỉ yêu thương
6.4 Thứ Năm Tuần Thánh
Is 61:1-3,6,8-9; Tv 89:21-22,25,27; Kh 1:5-8; Lc 4:16-21; Xh 12:1-8,11-14; Tv 116:12-13,15-16,17-18; 1 Cr 11:23-26; Ga 13:1-15
Cử chỉ yêu thương
Hôm nay, Chúa Giêsu quy tụ các Tông đồ là những người thân tín với Ngài trong suốt chặng đường rong ruổi loan báo Tin Mừng. Ngài quy tụ họ, để trao lại cho họ một tặng phẩm thần linh là Bí tích Thánh Thể và truyền cho các ông hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Ngài.
Qua đó, như một sự hiện hữu sau khi chết, để khi còn sống, Chúa Giêsu ở cùng với các ông thế nào, thì ít ngày nữa thôi, Ngài cũng hiện diện và ở lại với các ông cách vô hình nhưng trọn vẹn nơi Bí tích cao trọng là chính Thánh Thể Ngài. Mặt khác, qua bữa tiệc này, phần cuối cùng của bữa tiệc, Chúa Giêsu hành động và trăng trối những lời tâm huyết để xây dựng cộng đoàn Giáo Hội đó là: “Luật yêu thương”.
Tiệc ly được thánh Gioan ghi lại tỉ mỉ và gợi hình. Chúa Giêsu làm bảy cử điệu rõ ràng: đứng dậy, cởi áo, lấy khăn, thắt lưng, đổ nước, rửa chân và lau lọt. Khi cởi áo choàng ngoài Chúa Giêsu đã làm cử chỉ của một người nô lệ hay ít ra của một người thợ bắt tay vào việc. Thời đó, phận sự của nô lệ, đặc biệt các nô lệ không phải là người Do thái có nhiệm vụ rửa chân cho khách tới nhà (1 Sm 25,41).
Đây là một việc làm hoàn toàn tự nguyện của Chúa. Ngay cử chỉ Chúa cởi áo và tự lấy mặc lại (c.12) làm chúng ta liên tưởng đến những lời Chúa đã nói (Gio 10,17-18) để nói đến cái chết hoàn toàn tự nguyện và sự sống lại uy quyền của riêng Ngài. Khi Chúa Giêsu vừa làm xong công việc của một nô lệ, thì Chúa muốn nhấn mạnh đến sự bất tương xứng tự nhiên giữa công việc ấy đối với một vì Thiên Chúa (c.14), là họ thực sự là những môn đệ phục vụ hoàn toàn cho nước Trời, phục vụ cho đến chết, như lời Chúa nói “Tôi tớ không lớn hơn chủ, kẻ được sai không lớn hơn kẻ sai mình” (Mt 10,14 Lc 6,40. Ga 15,20). Đấy chúng ta thấy một vì Thiên Chúa thực hiện câu “Ta đến để phục vụ…” (Mt 20,28). Rất có thể có một ông vua trần thế làm công việc khiêm tốn ấy cho bầy tôi trước khi từ giã rút lui khỏi ngai vàng của mình.
Nhưng khó và rất khó mà tin được có một nhà vua làm như thế khi sắp trở lại kinh đô chiến thắng huy hoàng của mình. Còn Chúa đã làm gương trước khi về trời với Thiên Chúa Cha, Ngài đã cúi gồng mình rửa chân cho từng môn đệ kể cả Giuda Iscario. Có vậy chúng ta mới hiểu được câu “Vốn dĩ là một Thiên Chúa song chẳng coi mình bằng Thiên Chúa. Người tự ha ïvâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Ph 2,6).
Chúng ta hiểu thế nào về một vì Thiên Chúa chỉ vì tình yêu nhân loại đã bỏ vinh quang trời cao đến giữa loài người, thân phận khổ lụy bèo mây. Ngài đã bằng lòng nhận những đau khổ lầm than nơi thân xác mình để làm gánh nhẹ nhàng cho mọi người. Ngài đã lấy tinh thần là phần bất tử một hủy diệt sự chết đã giết chết loài người.
Ngài bị điều đi như con chiên và bị giết như con cừu. Ngài đã cứu chúng ta ra khỏi tà đạo như cứu khỏi Ai cập, khỏi tay Pharaon. Ngài đã làm cho thần chết phải bẽ bàng và khiến cho ma quỉ phải tru trếu khóc lóc, như Maisen làm cho Pharaon. Chính Chúa đã đón muôn khổ lụy trong muôn người. Ngài là Đấng bị giết trong con người Abel, bị trói chân tay trong con người Isaac,bị lưu lạc trong con người của Gicop, bị bắn trong con người của Giuse, bị bỏ trôi sông như Maisen, bị bách hại nơi con người David và bị nhục nhã trong các vì tiên tri. Chính Chúa là Đấng nhập thể trong cung lòng trinh nữ Maria, bị treo trên cây gỗ, bị chôn vùi dưới đất, chính Ngài từ trong nấm mồ kẻ chết sống lại và lên trời cao thẳm.
Vâng, đấy là giá trị của phục vụ. Phục vụ trong tình yêu vô vị lợi, không điều kiện, không ơn huệ. Chúa Giêsu là Chúa, là thầy nhưng cũng là tôi tớ. Đã yêu những kẻ thuộc về mình cho đến cùng, đến thí mạng sống, Ngài thanh tẩy vết nhơ của họ. Ngài phục vụ tất cả, kể cả Phêrô và Giuda. Nhờ ánh sáng gương lành của Chúa, Giáo hội khám phá ra ơn kêu gọi của mình là phục vụ anh em không trừ ai trong tình yêu với tư cách là một tôi tớ khiêm cung.
Cử chỉ yêu thương mà Chúa Giêsu đã làm cho các Tông đồ là một quyết tâm sống trọn ý nghĩa yêu thương của Ngài, cũng như người tôi tớ không sống cho mình mà cho người khác. Nhưng Ngài chưa lấy làm đủ, Ngài còn biểu lộ tình yêu qua hình ảnh một miếng bánh trao ban để ở mãi với con người. Bị bẻ ra và tiêu tan, Chúa Giêsu đã sống đến cùng những đòi hỏi của yêu thương.
Thánh Gioan đã tóm gọn cuộc sống Chúa Giêsu qua câu : “Ngài đã yêu các kẻ thuộc về Ngài và đã yêu đến cùng”, nghĩa là sẵn sàng sống chết cho người mình yêu. Tình yêu đến cùng ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện qua cái chết trên Thập giá, và Ngài còn muốn tái diễn hàng ngày dưới hình dạng Bánh và Rượu trong bí tích Thánh Thể. Cũng như tôi tớ chỉ sống và chết cho người khác, chiếc bánh chỉ hiện hữu để được ăn, được hao mòn, được tiêu tán. Dưới hình thức lương thực, Chúa Giêsu muốn thể hiện tình yêu của Ngài đối với chúng ta; tiếp nhận Ngài qua Bí tích thánh thể, chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài, ăn uống Ngài, chúng ta cũng được mời gọi nên giống Ngài và san sẻ sự sống của Ngài cho người khác.
Sống và chết cho người khác, nên một với Ngài là thực hiện sứ mệnh của Ngài tức là phục vụ và phục vụ cho đến cùng. Sứ mệnh phục vụ ấy Chúa Giêsu truyền lại cho chúng ta qua Bí tích Truyền chức. Linh mục là người được ủy thác để lặp lại lời của Chúa Giêsu. “Các con hãy làm việc này, mà nhớ đến Ta”. Làm việc này không những là cử hành Bí tích Thánh Thể để Chúa Giêsu luôn ở mãi giữa nhân loại, mà con chu toàn sứ mệnh phục vụ của Ngài. Không chỉ riêng linh mục, nhưng tất cả những ai nhờ phép rửa được tháp nhập vào sự sống Đức Kitô, nghĩa là mọi kitô hữu trong lời nói và hành động cũng yêu thương và chết để nhớ đến Ngài. Mỗi cử chỉ và hành vi bác ái đều là một nghĩa cử tưởng nhớ đến Chúa Giêsu, đều là một tiếp tục, hay đúng hơn là một hiến lễ được dâng trên bàn thờ.
Tưởng nhớ việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể và truyền chức linh mục trong ngày thứ năm tuần thánh, chúng ta nhớ đến cách đặc biệt các linh mục. Xin chúa ban cho các ngài luôn trung thành với sứ mệnh phục vụ. Xin cho tình yêu Chúa luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta để chúng ta cũng sống yêu thương và phục vụ.