2020
Giáo hội Philippines nói “Không” đối với luật chống khủng bố mới
Trước việc Quốc hội Philippines phê chuẩn luật chống khủng bố mới hôm 03/06, một quyết định gây nhiều tranh cãi, các vị lãnh đạo Công giáo cùng với các nhà hoạt động nhân quyền đã phát động một chiến dịch phản đối luật trên.
Tại Hạ viện, luật này đã nhận được 173 phiếu ủng hộ, 31 phiếu chống và 29 phiếu trắng. Để có hiệu lực, dự luật cần chữ ký của tổng thống Rodrigo Duterte. Thực tế đây chỉ là thủ tục vì chính phủ của tổng thống đã quảng bá cho luật này. Trước khi Quốc hội bỏ phiếu, tổng thống Duterte đã phát biểu: “Luật này rất khẩn cấp. Luật có mục đích ngăn chặn các mối đe dọa do hành động khủng bố, bảo vệ an ninh quốc gia và thúc đẩy phúc lợi chung”.
Theo các nhà hoạt động nhân quyền, luật mới này mở rộng thuật ngữ “khủng bố” và nó có thể được áp dụng để bịt miệng bất kỳ sự bất đồng nào đối với chính phủ và làm giảm mạnh quyền tự do của nhân quyền và dân sự, đàn áp các đối thủ chính trị. Theo luật mới, một công dân có thể bị bắt không cần lệnh tư pháp và phải chịu biện pháp giam giữ 14 ngày theo lệnh của “Hội đồng chống khủng bố”, một cơ quan mới được thành lập theo luật mới. Các nhà hoạt động cho rằng cơ chế này tương tự như các hành vi được thực hiện trong thời của nhà độc tài Ferdinando Marcos.
Trong một tuyên bố công khai gửi tới Hãng tin Fides, một số vị lãnh đạo Kitô giáo lo ngại về sự xói mòn nhân quyền, lưu ý rằng “luật mới có thể bị lạm dụng bởi những người muốn thống trị người dân, xóa bỏ phe đối lập và đàn áp những ai bất đồng chính kiến. Dự luật này sẽ thu hẹp không gian dân chủ, làm suy yếu cuộc tranh luận công khai và sẽ gây hại cho quốc gia”. Các nhà lãnh đạo Kitô giáo cho rằng luật mới không cần thiết, bởi vì luật hiện hành đã đủ hiệu quả trong việc đối phó tội phạm và khủng bố. Các vị nói thêm: “Người nghèo đã phải chịu gánh nặng của nghèo đói và đau khổ dưới mọi hình thức. Họ cần luật tích cực để giúp họ sống xứng nhân phẩm và hòa bình”.
Ký tên trong bản tuyên bố bao gồm Đức cha Broderick Pabillo, Giám quản Tông tòa Manila, Đức cha Gerardo Alminaza, Giám mục San Carlos, Đức cha Reuel Norman Marigza của Hội đồng các Giáo hội Quốc gia Philippines và Đức cha Rhee Timbang của Giáo hội Độc lập Philippines. (Fides 04/6/2020)
Ngọc Yến – Vatican News
2020
Coronavirus: Cả một thế hệ trí thức công giáo Pháp biến mất
Khai mạc Công đồng Vatican II 11 tháng 10-1962
Đại dịch Covid-19 đã cuốn đi nhiều tư tưởng gia và thần học gia công giáo, những người đã thực hiện Công đồng Vatican II vào những năm 1970. Nếu họ đã phát triển đối thoại giữa Giáo hội và tôn giáo thì các người kế thừa họ đang đi tìm ngày nay.
Chúng ta chưa thấy họ già, các vị ngoài tám mươi này đã suy nghĩ về Giáo hội và thế giới từ năm mươi năm nay. Và bây giờ Covid-19 đặc biệt nhắm đến họ, mang cả một thế hệ các nhà trí thức kitô giáo đánh dấu tư duy hậu Công đồng Vatican II ra đi.
Những cái chết trong các tuần vừa qua đã tạo một cảm xúc sâu đậm, đã mang các cha Henri Madelin, Michel Lelong, André Manaranche, Philippe Lécrivain, các sử gia Francis Rapp, Jacques Le Brun ra đi, đó là chỉ kể tên một vài trong số họ. Họ là chứng nhân của một thời, của một dấn thân đáng kể trong lịch sử gần đây của Giáo hội và xã hội.
Chắc chắn không phải đại dịch mới cuốn đi lứa tuổi này, chúng ta còn nhớ các cha vừa qua đời trong những năm gần đây như cha Maurice Bellet (90 tuổi, qua đời năm 2018), cha Dòng Đa Minh Claude Geffré (91 tuổi, qua đời năm 2017) và sử gia Jean Delumeau (97 tuổi, qua đời ngày 13 tháng 1 năm 2020). Điểm chung của các vị là họ ở trọng tâm của một thời kỳ rất đặc biệt, đánh dấu bởi ba sự kiện lớn: Công đồng Vatican II mà các trí thức Pháp đã đóng góp rất nhiều, vụ nổi dậy Tháng Năm 68 tại Pháp và cuộc khủng hoảng của Giáo hội với một số lớn linh mục ra đi.
Hậu công đồng
Sử gia Charles Mercier nêu bật: “Đó là những năm rắc rối trong lịch sử Giáo hội, nhất là trong lãnh vực tư duy trí thức. Trong đường hướng tiếp nối của linh mục Dòng Tên Michel de Certeau (1925-1986), tất cả đều mang ảnh hưởng của khoa học nhân văn, đối đầu thần học với xã hội học, với khoa học chính trị, mà vẫn ở trong thể chế giáo hội.” Các khuôn mặt trí thức của hàng giáo sĩ là những người đưa đò, một gắn kết đúp, bám rễ trong xã hội và trong Giáo hội, ngay cả các nhà trí thức và học giả thế tục cũng không dám nói đến đức tin, ngoại trừ sử gia đáng kể René Rémond (1918-2007).
Sử gia Charles Mercier giải thích: “Hình ảnh trí thức công giáo thế tục như François Mauriac hay Maritain đã chấm dứt, điều này thậm chí giải thích cả việc giải thể Trung tâm trí thức công giáo năm 1977, một trung tâm được thành lập năm 1941.” Khi đó các trí thức công giáo được yêu cầu chọn lựa, và đa số họ cống hiến vào lịch sử kitô giáo, xã hội học trong môi trường đại học mà không được thể chế giáo hội công nhận, như sử gia Jean Delumeau hay Jacques Le Brun.
Một thế hệ trong thế giới
Các lựa chọn của họ đôi khi rất khác nhau, thậm chí còn ngược nhau. Các tu sĩ Dòng Đa Minh trung thành với tự do đặc nét của họ, họ có các dấn thân chống đối mạnh mẽ như Marie-Dominique Chenu, các tu sĩ Dòng Tên thì xa cách hơn, và dưới ảnh hưởng của các nhân vật giảng dạy như Henri de Lubac (1896-1991), Jean Daniélou (1905-1974) hay Henri Bouillard (1908-1981). Các vị lớn tuổi này đã làm việc cho sự phát triển Công đồng Vatican II, các nhà trí thức Pháp đúng là các kiến trúc sư của tinh thần phóng khoáng, mở ra. Và thế hệ tiếp theo – thế hệ bị Covid-19 tấn công trực diện – thế hệ này thực hiện công đồng.
Nhà xã hội học và nhà xuất bản Jean-Louis Schlegel giải thích: “Họ đã sống mãnh liệt trong tinh thần đối thoại với thế giới, với nét hơi ngây ngô và tham vọng, họ muốn chia sẻ “niềm vui, nỗi buồn của những người thời này” theo công thức của công đồng. Thật ra tiến trình của họ bao gồm đức tin vào lịch sử con người.” Sự đảo lộn do công đồng được nhiều người xem là “một ngạc nhiên thần thánh”: “Đó là công đồng đầu tiên không lên án. Đối với cả một thế hệ, đó là sự nhẹ nhõm và một lời kêu gọi táo bạo,” nhà xã hội hoặc Jean-Louis Schlegel nhấn mạnh.
Các nhà trí thức tranh cãi
Sự dấn thân của linh mục Michel Lelong trong đối thoại hồi giáo-kitô giáo là một trong các khuôn mặt mở ra này. Nhưng sau này, có hơi trễ hơn, có một phong trào tái tập trung, đặc biệt dưới thời Đức Gioan-Phaolô II. Linh mục Dòng Tên André Manaranche là một trong các nhân vật này. Bà Brigitte Cholvy, thần học gia của Viện công giáo Paris ghi nhận: “Dòng Tên là câu chuyện của một gia đình phức tạp. Điều đáng kể là sự dấn thân mục vụ của các tu sĩ trí thức, họ có thể điều khiển nhiều mặt, nuôi dưỡng cuộc tranh luận với văn hóa đương đại.”
Năm 1971, các tu sĩ Dòng Đa Minh đã rời Saulchoir để về Saint-Jacques ở Paris. Với việc đóng cửa các chương trình học ở Lyon và Chantilly, các nơi đào tạo tu sĩ Dòng Tên, họ phải về thủ đô, họ hiện diện nhiều hơn ở Trung tâm công giáo Pháp và sau đó trong những năm 1970 họ thành lập Trung tâm Sèvres – các phân khoa Dòng Tên Pháp Paris.
Địa lý này làm cho gốc rễ của họ mạnh hơn trong thế giới, đặc biệt đối thoại với các trường đại học và các phương tiện truyền thông.
Chúng ta vẫn còn nói về các nhà trí thức trong độ tuổi ba mươi này của những năm 1970, chính xác là vì họ đã “tiếp xúc” với các giáo hội địa phương, các giáo dân, vì họ đã để lại các bài viết, đã tiếp tục làm việc đến cùng. Sử gia Étienne Fouilloux nhận xét: “Độ bền lâu tiến trình của họ có thể giải thích vì thiếu một thế hệ, những người rời chức thánh sau năm 68. Có thể cũng vì không có hậu duệ thực sự cho tinh thần thiết tha dấn thân vào thế giới, thậm chí còn tranh cãi với thể chế giáo hội. Các nhà nghiên cứu ngày nay là các chuyên gia, các kỹ thuật viên.”
Tìm kiếm người thừa kế
Không liên tục cũng không cắt đứt… Những người suy nghĩ về các vấn đề của năm 2020 một phần vẫn được nuôi dưỡng bởi công việc của các nhà trí thức lớn tuổi này. Dù họ ở Dòng Tên (Christoph Theobald, Gael Giraud) hay Dòng Đa Minh (Adrien Candiard), và bây giờ cũng từ các dòng khác, họ kết hiệp với các trường đại học công giáo, với Học viện Bernardin và tiếp xúc với các giáo dân, các triết gia (Rémi Brague, Jean-Luc Marion), các giáo sư (Charles Mercier, Yann Raison du Cleuziou) và nữ thần học gia Anne-Marie Pelletier, Marie-Jo Thiel).
Các nhà trí thức bị Covid-19 đánh gục hôm nay đã viết nên lịch sử Công đồng Vatican II. Một trang mới được lật qua; có lẽ đã đến lúc để khám phá giai đoạn bản lề hậu-công đồng của những năm 1970, mà nhiều khía cạnh giống như cuộc khủng hoảng mà Giáo hội công giáo đang trải qua ngày nay.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2020
Các Giám mục châu Phi kêu gọi các công ty lớn giúp người dân vượt khủng hoảng
Trong một Hội nghị chuyên đề của các Hội đồng Giám mục châu Phi và Madagascar (SECAM), các Giám mục châu Phi đã tuyên bố rằng đại dịch Covid-19 đang gây những tác động tàn phá với những hậu quả bi thảm cho những người nghèo. Đồng thời, các vị lãnh đạo Giáo hội kêu gọi các công ty lớn đang khai thác tài nguyên châu Phi giúp người dân vượt khủng hoảng.
Tuyên bố của các Giám mục được gửi đến Hãng tin Fides nhấn mạnh rằng, tại châu lục này điều hiển nhiên đã thấy: suy thoái kinh tế do phải ngưng các hoạt động kinh tế, đặc biệt là trong các lĩnh vực sản xuất chính, lĩnh vực du lịch, trong vận tải hàng không và trong ngành khách sạn. Các Giám mục lo ngại “sẽ có một sự bùng nổ xã hội ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở châu Phi, nơi đã phải gánh chịu nợ nần và tình trạng thất nghiệp. Hậu quả sẽ là gia tăng tình trạng nghèo đói của dân chúng”.
Hội nghị chuyên đề của các Hội đồng Giám mục châu Phi và Madagascar yêu cầu các công ty đa quốc gia lớn có mặt ở châu Phi, đóng góp giúp các quốc gia của lục địa trong thời điểm khó khăn này. “Châu Phi cung cấp nguyên liệu quan trọng cho các nước công nghiệp. Vì lẽ đó, chúng tôi kêu gọi các công ty lớn khai thác các tài nguyên này đóng góp tích cực cho các nước châu Phi để người dân có thể hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản như bệnh viện, trường học, nhà ở đầy đủ và giá cả phải chăng”.
Các Giám mục châu Phi cũng yêu cầu “trong cuộc chạy đua với thời gian ở các nước phát triển để tìm ra thuốc chữa trị hiệu quả cho Covid-19, cộng đồng doanh nghiệp và các công ty dược phẩm không lợi dụng hoàn cảnh để thu lợi nhưng tham gia vào các nỗ lực hỗ trợ cho những người dễ bị tổn thương”.
Hội nghị kêu gọi Liên minh châu Phi biến cuộc khủng hoảng sức khỏe thành cơ hội mang lại một thay đổi trong việc chăm sóc sức khỏe cho lục địa. Cụ thể, cùng nhau tìm cách thức và phương tiện để loại bỏ các bệnh như sốt rét và bệnh lao, vẫn đang gây đau khổ cho người châu Phi. Các Giám mục viết: “Chúng tôi yêu cầu Liên minh châu Phi nâng cao nhận thức các nước thành viên trong việc đóng góp tạo dựng một quỹ liên đới, giúp cải thiện sức khỏe cho người dân”.
Các Giám mục mời gọi “các nhà lãnh đạo châu Phi phải đảm bảo rằng một số ít tài nguyên sẽ được sử dụng để giúp đỡ những người thực sự cần giúp đỡ, đặc biệt là những người nghèo, chứ không chỉ rơi vào túi của các chính trị gia tham nhũng, tích lũy cho chính họ”. (Fides 4/6/2020)
Ngọc Yến – Vatican News
2020
Covid-19: Chúng ta quên rằng câu chuyện thật bi thảm
Covid-19: Chúng ta quên rằng câu chuyện thật bi thảm
Linh mục Christian Gouyaud, tiến sĩ thần học, cha xứ trong giáo phận Strasbourg, là tác giả của nhiều tác phẩm thiêng liêng.
Đại dịch Covid-19 đã làm nảy sinh rất nhiều bình giải và câu hỏi, từ cổ điển nhất đến lập dị nhất, đáng chú ý là ý tưởng “hình phạt thần thánh”. Chúng ta quay về một chút với cha xứ Christian Gouyaud trên trang mạng “La Nef”:
“Cần có thời gian của một độ lùi để phân tích chuỗi kỳ lạ đại dịch và cách ly này. Các kitô hữu đã trải qua giai đoạn thiếu Mình Thánh Chúa, họ khao khát hoặc bực tức, khi Mùa Chay chưa xong, khi một Thứ Bảy Tuần Thánh không lối thoát, khi sáng Phục Sinh vẫn bị giam cầm, không có ai đến lăn tảng đá. Giữa, một mặt là thận trọng với các biện pháp vệ sinh, mặt kia là thư giãn tối thiểu hóa tầm mức lây lan rộng lớn; giữa, với một số người là phẫn nộ trước việc cấm đoán các buổi lễ thờ phượng có dân chúng, và với người khác là nghiện các buổi lễ trực tuyến, mỗi người với con chuột có thể ngừng ở đoạn mình thích đặc biệt. Về phần các mục tử, họ mãi sửng sốt với các thánh lễ không có giáo dân và bị các con chiên xa đồng cỏ Thánh Thể chất vấn một cách hợp pháp. Chắc chắn, một cách sâu đậm, thực tế nhắc chúng ta nhớ rằng lịch sử thật bi thảm.
Thay vì cậy đến thể loại “thời cuối” – vì theo triết gia Agamben, kể từ khi Nhập Thể, chúng ta rõ ràng ở trong “thời kỳ cuối” -, hiện tượng đại dịch lớn lao đã đưa chúng ta đứng trước cái mà hồng y Ratzinger gọi là “sự suy đồi trong nội tình lịch sử”.
Chúng ta biết có hai đường hướng đọc khác nhau trong Tân ước: đường hướng thứ nhất phủ nhận tất cả tiên lượng nào cho rằng sự xuất hiện của Chúa Kitô là một tự tại lịch sử, vào cuối quá trình chín muồi tối thượng hoặc, ngược lại, là sự đơn hóa biện chứng; đường hương thứ hai nói đến việc cảnh giác các dấu hiệu báo trước của sự Ngự Đến, trong số đó sẽ xuất hiện các tình huống giao nhau. Trong thực tế, ngay cả khi chúng ta đã quên, mỗi thế hệ đều trải qua các biến động như vậy, từ các vụ rung chuyển vũ trụ cho đến các tình huống tội đày. Lịch sử bi thảm vì cấu trúc chưa hoàn tất. Tất cả các thiên niên kỷ đều lẫn lộn: chủ nhân của lịch sử chỉ nảy sinh sự quay về của mình từ bên ngoài lịch sử. Và vì thế luôn cần tinh thần sẵn sàng về mặt cánh chung của tín hữu và nghịch lý thay, việc cách ly hướng chúng ta hướng đến siêu việt.
Cái ác trong lịch sử đặt câu hỏi về sự tồn tại của công lý vô thường dưới hình thức của trừng phạt trong nội tình thế giới. Vấn đề tế nhị vì Thánh Kinh chứa những hình ảnh như vậy và vì tai ương thần thánh cũng đánh vào những người vô tội. Chúng ta phải nói ở đây và cần nhắc lại, Chúa không phải là Đấng chỉ tạo những gì “là tốt”, rằng, trong số những gì gọi là tốt, Chúa, nguyên nhân đầu tiên duy nhất, đã cho con người có địa vị cao cả là nguyên nhân chính thứ nhì, có nghĩa là người có trách nhiệm, mà Chúa chỉ đặc biệt không áp dụng trong quá trình mọi việc bằng cách tạo ra hậu quả ngay lập tức mà không có nguyên nhân thứ hai hoặc vượt nguyên nhân thứ hai – và chính xác đây là phép lạ–, mà phán xét cuối cùng sẽ quay về vinh quang của Chúa Kitô, có nghĩa vào cuối lịch sử.
Do đó, nghiêm túc mà nói, không có “công lý vô thường”, ngoại trừ theo nghĩa kép, nơi Thiên Chúa cho phép điều ác được thực hiện bởi nguyên do thứ hai cố tình, và nơi mà điều ác này tác động đến bản chất môi trường cũng như con người – bởi vì chúng ta không thể đo lường cho đủ khả năng tác hại môi sinh của tội. Sự trừng phạt thần thánh, được hình thành khác hơn là do hậu quả tự động của chính hành vi chúng ta, tương ứng với hình ảnh thoái bộ của Chúa và tạo một thể loại khá thích ứng để làm cho chúng ta khỏi bị lương tâm dày xéo, yếu tố duy nhất có khả năng cải cách lối sống của chúng ta và chiến đấu chống “các cấu trúc tội lỗi” ăn mòn xã hội. Vì một Thiên Chúa tự trừng phạt chính mình trong nội tình lịch sử đã giải phóng chúng ta khỏi công lý.
Nhưng nếu lịch sử là bi thảm – vì tự chính nó chưa hoàn tất, chứ không phải vì Thiên Chúa ngang nhiên thường xuyên đến khôi phục lại thứ trật -, đó chính là nhận thức về sự bi thảm của lịch sử – hoặc nếu chúng ta thích, đó là sự suy yếu của thế giới – là điều kiện tiên quyết của hy vọng đối thần. Chúng ta đã thoáng thấy trong thời gian cách ly này, dù chúng ta có thể chịu đựng đau khổ do sự chung tạp vì nơi cách ly nhỏ hẹp, rằng địa ngục không phải là người khác, nhưng là giãn cách xã hội đạt thực hiện được công việc tối thượng là chúng ta tự thu mình. Khi một hạt siêu nhỏ thách thức các quá đổi của chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi quy luật của tạo dựng thì khi đó chúng ta hiểu cuối cùng “bộ mặt thế giới này đang biến đi” (1 Co 7, 31) và, cuối cùng, sẽ đến lúc nhìn vào vĩnh cữu.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch