2020
Giới thiệu Quỹ “Chúa Giêsu Lao động” do Đức Thánh Cha thành lập
Sáng ngày 12/06 vừa qua, tại Tòa Giám quản Roma đã có buổi giới thiệu Quỹ “Chúa Giêsu Lao động” do Đức Thánh Cha Phanxicô thành lập để giúp đỡ các gia đình ở Roma gặp khó khăn kinh tế do đại dịch virus corona.
Hiện diện tại buổi giới thiệu có Đức Hồng y Angelo De Donatis, Giám quản Roma; bà Virginia Raggi, Thị trưởng Roma; và ông Nicola Zingaretti, Chủ tịch miền Lazio. 3 vị đã ký vào quyết nghị “Liên minh vì Roma”.
Đức Thánh Cha đã đóng góp một triệu euro đầu tiên cho quỹ này. Đồng thời, miền Lazio và thành phố Roma cùng tham gia với 500.000 euro. Nhưng mục tiêu của quỹ là tăng nguồn tài trợ với sự tham gia của các tổ chức khác và với chiến dịch liên đới để hỗ trợ các đơn vị gia đình, do đại dịch Covid-19, không thể duy trì mức sống xứng đáng và có thể chấp nhận. Đây là sự giúp đỡ và gần gũi để mỗi người có thể là nhân vật chính của sự tái sinh của cộng đồng.
Giúp đỡ cho 1.800 gia đình ở Roma
Quỹ “Chúa Giêsu Lao động” nhằm mục đích đồng hành cùng 1.800 gia đình có thu nhập bị giảm mạnh. Các gia đình gặp khó khăn về kinh tế và các biện pháp ngoại thường được thúc đẩy bởi các tổ chức là không đủ giúp họ. Quỹ này được tổ chức như sau: giải ngân đóng góp kinh tế để vượt qua giai đoạn khẩn cấp; thực hiện các khóa đào tạo công việc, trợ cấp công việc và tài trợ cho các dự án khởi nghiệp vi mô. Hỗ trợ có thời hạn tối đa sáu tháng cho mỗi người nhận hỗ trợ và cho mỗi biện pháp được kích hoạt.
Điều kiện nhận hỗ trợ
Để nhận được hỗ trợ từ quỹ này, cần cư ngụ trong giáo phận hay thành phố Roma; thu nhập gia đình không quá 600 euro một tháng, và tăng thêm 100 euro cho mỗi người chung sống; giảm đáng kể cơ hội làm việc do đại dịch; thể hiện ý muốn cộng tác tích cực để vượt qua hoàn cảnh khẩn cấp. Mỗi gia đình được chấp thuận sẽ được nhận từ 300 đến 600 euro một tháng trong 3 tháng, sau đó có thể gia hạn tùy theo tình hình khủng hoảng và khả năng của quỹ.
Khôi phục nhân phẩm
Trong bài phát biểu, Đức Hồng y De Donatis nói rằng “Liên minh vì Roma đang còn được xây dựng” và hôm nay “viên đá đầu tiên được đặt”, là một “thời điểm lịch sử”. Ngài giải thích: “Chúng tôi không chỉ muốn phân phối các khoản đóng góp tài chính, chúng tôi muốn khôi phục nhân phẩm. Mọi người được kêu gọi thực hiện phần của mình: giáo phận Roma, các cộng đồng giáo xứ, các tổ chức và các dòng tu, hiệp hội, phong trào của nhiều tổ chức tình nguyện Công giáo và giáo dân, những người đã thể hiện lòng quảng đại. Các tổ chức đã nỗ lực rất nhiều trong trường hợp khẩn cấp để không có ai thiếu các nhu yếu phẩm cơ bản và các hình thức hỗ trợ khác”.
2020
Toàn văn Sứ điệp của ĐTC nhân Ngày Thế giới Người nghèo lần thứ IV
Trong Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Người nghèo lần thứ IV, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi quan tâm chú ý đến người nghèo, đặc biệt trong đại dịch Covid-19, và cảnh giác chống lại sự thờ ơ dửng dưng.
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA
NHÂN NGÀY THẾ GIỚI NGƯỜI NGHÈO LẦN THỨ IV
CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN
15/11/2020
“Hãy rộng tay cứu giúp người nghèo khó.” (x. Hc 7,32)
“Hãy rộng tay cứu giúp người nghèo khó” (x. Hc 7,32). Sự khôn ngoan lâu đời đã đề xuất những lời này như một quy tắc thánh thiêng để thực hành trong cuộc sống. Ngày nay những lời này vẫn còn hợp thời hơn bao giờ hết. Chúng giúp chúng ta chú tâm vào những gì là thiết yếu và vượt qua những rào cản của sự thờ ơ. Sự nghèo khổ luôn xuất hiện dưới nhiều hình thức, và kêu gọi chú ý đến từng tình huống cụ thể. Trong tất cả những điều này, chúng ta có cơ hội gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng đã tỏ cho biết Người hiện diện nơi những người thấp bé nhất trong số các anh chị em của Người (x. Mt 25,40).
- Chúng ta hãy cầm lấy cuốn sách Huấn Ca trong Cựu Ước, trong đó chúng ta tìm thấy những lời của một nhà hiền triết sống khoảng hai trăm năm trước Chúa Kitô. Ông tìm kiếm sự khôn ngoan giúp cho con người có khả năng hiểu tốt và sâu sắc hơn về các vấn đề của cuộc sống. Ông đã làm điều này vào thời điểm khi dân Israel gặp thử thách nghiêm trọng, vào thời kỳ đau khổ, đau buồn và nghèo đói do sự thống trị của các thế lực ngoại bang. Là một người có đức tin mạnh mẽ, được đâm rễ sâu từ các truyền thống của các bậc tiền bối, suy nghĩ đầu tiên của ông là chạy đến với Chúa và cầu xin Người ban cho ơn khôn ngoan. Chúa đã không từ chối giúp đỡ ông.
Từ những trang đầu tiên của cuốn sách, tác giả trình bày lời khuyên của mình về nhiều tình huống cụ thể trong cuộc sống, một trong số đó là sự nghèo khổ. Ông khẳng định rằng ngay cả khi gặp khó khăn, chúng ta phải tiếp tục tin tưởng vào Chúa: “Đừng bấn loạn khi con gặp khốn khổ. Hãy bám lấy Người chứ đừng lìa bỏ, để cuối đời, con được cất nhắc lên. Mọi chuyện xảy đến cho con, con hãy chấp nhận, và trải qua bao thăng trầm, con hãy cứ kiên nhẫn. Vì vàng phải được tôi luyện trong lửa, còn những người sáng giá thì phải được thử trong lò ô nhục. Hãy tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người. Hỡi ai kính sợ Đức Chúa, hãy trông đợi lòng lân tuất của Người, đừng lìa xa Người kẻo ngã. (2,2-7)
- Hết trang này sang trang khác, chúng ta khám phá ra một bản tóm tắt lời khuyên quý giá về cách hành động dưới ánh sáng của mối quan hệ mật thiết với Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và yêu thương công trình sáng tạo, Đấng công bình và quan phòng cho tất cả con cái của mình. Tuy nhiên, việc không ngừng đề cập đến Thiên Chúa này không có nghĩa là không quan tâm cụ thể đến nhân loại. Trái lại, cả hai khía cạnh được kết nối chặt chẽ.
Điều này được thể hiện rõ ràng qua đoạn sách mà chủ đề của Sứ điệp năm nay được trích dẫn (x. 7,29-36). Cầu nguyện với Thiên Chúa và liên đới với người nghèo và người đau khổ không thể tách rời nhau. Để thực hiện một hành vi thờ phượng được Thiên Chúa chấp nhận, chúng ta phải nhận ra rằng mỗi người, ngay cả những người nghèo nhất và bị coi thường, đều được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Phúc lành của Thiên Chúa đến từ nhận thức này; nó được ban nhờ sự quảng đại của chúng ta đối với người nghèo. Thời gian dành cho cầu nguyện không bao giờ có thể trở thành cái cớ để phớt lờ người lân cận nghèo khổ. Trong thực tế điều ngược lại rất đúng: phúc lành của Thiên Chúa ban xuống trên chúng ta và việc cầu nguyện đạt được mục tiêu khi đi kèm với việc phục vụ người nghèo.
- Giáo huấn cổ xưa này cũng thật hợp thời với chúng ta! Thật vậy, lời của Thiên Chúa vượt qua không gian và thời gian, tôn giáo và văn hóa. Sự quảng đại trong việc giúp đỡ những người yếu đuối, an ủi những người đau khổ, xoa dịu đau khổ và phục hồi phẩm giá cho những người bị tước mất phẩm giá, là điều kiện cho một cuộc sống tràn đầy của con người. Quyết định chăm sóc người nghèo, vì nhiều nhu cầu khác nhau của họ, không thể bị lệ thuộc bởi thời gian rảnh rỗi hoặc bởi lợi ích riêng tư, hoặc bởi các dự án xã hội hoặc mục vụ vô hồn, không thích ứng với thực tế. Sức mạnh của ân sủng của Thiên Chúa không thể bị kìm hãm bởi khuynh hướng ích kỷ luôn đặt bản thân lên hàng đầu.
Luôn đặt quan tâm vào người nghèo là điều khó khăn, nhưng việc chúng ta định hướng đúng đắn cho cuộc sống cá nhân và cuộc sống của xã hội thì cần thiết hơn bao giờ hết. Đó không phải là vấn đề của những lời nói tốt đẹp nhưng là một cam kết cụ thể được truyền cảm hứng từ đức ái của Thiên Chúa. Mỗi năm, vào Ngày Thế giới Người nghèo, tôi nhắc lại sự thật cơ bản này trong đời sống của Giáo hội, vì người nghèo đang và sẽ luôn ở bên chúng ta để giúp chúng ta chào đón sự hiện diện của Chúa Kitô vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta (x. Ga 12,8 ).
- Việc gặp gỡ người nghèo và những người khốn khổ không ngừng thách thức chúng ta và buộc chúng ta phải suy nghĩ. Làm thế nào chúng ta có thể giúp loại bỏ hoặc ít nhất là làm giảm bớt sự thiệt thòi và đau khổ của họ? Làm thế nào chúng ta có thể giúp họ trong nhu cầu tâm linh của họ? Cộng đồng Kitô giáo được kêu gọi tham gia vào loại chia sẻ này và nhận ra rằng việc này không thể được ủy thác cho người khác. Để giúp đỡ người nghèo, chính chúng ta cần phải sống kinh nghiệm về nghèo khó theo Tin Mừng. Chúng ta không thể cảm thấy bình an, thoải mái khi bất kỳ thành viên nào trong gia đình nhân loại bị bỏ lại phía sau và trong bóng tối. Mọi nơi và mọi lúc, Dân Chúa phải đáp lại tiếng khóc thầm lặng của rất nhiều người nghèo, các phụ nữ và trẻ em nghèo, bằng nỗ lực mang lại cho họ tiếng nói, để bảo vệ và hỗ trợ họ khi đối mặt với sự giả hình và rất nhiều lời hứa không được thực hiện, và mời họ chia sẻ vào đời sống của cộng đồng.
Giáo hội chắc chắn không có giải pháp toàn diện để đề nghị, nhưng nhờ ân sủng của Chúa Kitô, Giáo hội có thể đưa ra chứng tá và cử chỉ bác ái của mình. Giáo hội cũng cảm thấy buộc phải lên tiếng thay cho những người thiếu nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Nhắc nhở mọi người về giá trị to lớn của lợi ích chung là một dấn thân sống còn của các Kitô hữu; nó được thể hiện trong nỗ lực không lãng quên bất cứ người nào trong số những người mà nhân phẩm bị xúc phạm trong các nhu cầu cơ bản.
- Khả năng đưa tay cứu giúp của chúng ta cho thấy chúng ta có một khả năng bẩm sinh để hành động theo những cách mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Chúng ta nhìn thấy bao nhiêu bàn tay đưa ra mỗi ngày! Đáng buồn thay, ngày càng có nhiều trường hợp mà tốc độ điên cuồng của cuộc sống khiến chúng ta rơi vào một cơn lốc thờ ơ, đến mức chúng ta không còn biết cách nhận ra những điều tốt đẹp được thực hiện cách âm thầm mỗi ngày và với sự quảng đại tuyệt vời xung quanh chúng ta. Chỉ khi điều gì đó xảy ra làm đảo lộn cuộc sống của chúng ta, đôi mắt của chúng ta mới có khả năng nhìn thấy sự tốt lành của các vị thánh “ở nhà bên cạnh”, của “những người sống ở giữa chúng ta, họ phản chiếu sự hiện diện của Thiên Chúa” (Gaudete et Exsultate, 7), nhưng không phô trương. Các tin xấu lấp đầy các trang báo, trang web và màn hình Tivi, đến mức sự ác dường như thống trị. Nhưng không phải như thế. Chắc chắn rằng cuộc sống bị bao bọc bởi sự ác và bạo lực, lạm dụng và tham nhũng, nhưng nó cũng được đan xen với những hành động tôn trọng và quảng đại; những điều này không chỉ bù đắp cho sự ác, mà còn truyền cảm hứng cho chúng ta bước thêm một bước và lấp đầy trái tim với hy vọng.
- Một bàn tay được đưa ra là một dấu hiệu; một dấu hiệu ngay lập tức nói lên sự gần gũi, liên đới và tình yêu. Trong những tháng này, khi cả thế giới là con mồi của một loại virus mang đến nỗi đau và cái chết, tuyệt vọng và hoang mang, chúng ta đã thấy bao nhiêu bàn tay đưa ra! Bàn tay đưa ra của các bác sĩ, người quan tâm đến từng bệnh nhân và cố gắng tìm ra phương pháp chữa trị phù hợp. Bàn tay đưa ra của những y tá, những người làm thêm giờ, hàng giờ liền để chăm sóc người bệnh. Bàn tay đưa ra của các quản trị viên, những người đưa ra cách thức để cứu nhiều người nhất có thể. Bàn tay đưa ra của các dược sĩ, những người liều bản thân để đáp ứng nhu cầu khẩn thiết của mọi người. Bàn tay đưa ra của các linh mục, những người với trái tim đau khổ khi họ ban phước lành. Bàn tay đưa ra của những tình nguyện viên giúp đỡ những người sống trên đường phố và những người có nhà cửa nhưng không có gì để ăn. Bàn tay đưa ra của những người nam nữ, những người tiếp tục làm việc để cung cấp các dịch vụ thiết yếu và an ninh. Chúng ta có thể tiếp tục nói về rất nhiều bàn tay đưa ra khác, tất cả chúng tạo thành một danh sách tuyệt vời của các hành động tốt. Những bàn tay đó đã bất chấp sự lây lan và sợ hãi để đưa ra sự hỗ trợ và an ủi.
- Đại dịch này đến bất ngờ khi chúng ta không chuẩn bị, gây ra cảm giác hoang mang và bất lực mạnh mẽ. Tuy nhiên, các bàn tay không bao giờ ngừng đến với người nghèo. Điều này làm cho tất cả chúng ta nhận thức hơn về sự hiện diện của người nghèo ở giữa chúng ta và nhu cầu được giúp đỡ của họ. Các tổ chức bác ái, các công việc của lòng thương xót, không thể ngẫu hứng. Cần tổ chức và đào tạo không ngừng, dựa trên việc nhận ra nhu cầu của chính chúng ta là cần một bàn tay đưa ra.
Kinh nghiệm hiện tại đã thách thức nhiều giả định của chúng ta. Chúng ta cảm thấy nghèo hơn và kém tự chủ hơn vì chúng ta đã nhận ra những giới hạn của mình và sự hạn chế của tự do của chúng ta. Việc mất việc làm và cơ hội để gần gũi với những người thân yêu và những người quen biết thường gặp của chúng ta đã đột ngột mở mắt chúng ta trước những chân trời mà từ lâu chúng ta đã cho là điều hiển nhiên. Câu hỏi về các nguồn lực tinh thần và vật chất của chúng ta được đặt ra và chúng ta thấy mình đang trải qua nỗi sợ hãi. Trong sự im lặng của ngôi nhà của chúng ta, chúng ta đã khám phá lại tầm quan trọng của sự đơn giản và luôn để ý những điều thiết yếu. Chúng ta nhận ra rằng chúng ta cần một ý nghĩa mới về tình huynh đệ mới biết bao nhiêu, để giúp đỡ và quý trọng lẫn nhau. Bây giờ là thời điểm tốt để khôi phục lại niềm tin rằng chúng ta cần nhau, rằng chúng ta có trách nhiệm chung với những người khác và thế giới. Chúng ta đã có đủ sự vô đạo đức và sự nhạo báng về đạo đức, lòng tốt, đức tin và sự trung thực. Khi nền tảng của đời sống xã hội bị xói mòn, những gì xảy ra là những cuộc chiến vì những xung đột lợi ích, những hình thức bạo lực và tàn bạo mới, và những trở ngại cho sự phát triển của một nền văn hóa thực sự chăm sóc cho môi trường (Laudato Si’, 229). Nói một cách dễ hiểu, bao lâu chúng ta chưa ý thức lại trách nhiệm của mình đối với người lân cận và đối với mỗi người, các cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính và chính trị nghiêm trọng sẽ vẫn tiếp tục.
- Do đó, chủ đề của năm nay – “Hãy rộng tay cứu giúp người nghèo” – mời gọi trách nhiệm và sự dấn thân của những người nam nữ, những người là thành phần của gia đình nhân loại của chúng ta. Nó khuyến khích chúng ta vác đỡ gánh nặng của những người yếu đuối nhất, theo lời của thánh Phaolô: “Hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… Anh em hãy vác đỡ gánh nặng cho nhau, và như thế là chu toàn lề luật của Chúa Kitô (Gl 5,13-14; 6,2). Thánh tông đồ dạy rằng sự tự do được ban nhờ sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô khiến chúng ta có trách nhiệm cá nhân trong việc phục vụ người khác, đặc biệt là những người yếu đuối nhất. Đây không phải là một lựa chọn, mà là một dấu hiệu của tính xác thực của đức tin mà chúng ta tuyên xưng.
Một lần nữa, sách Huấn ca có thể giúp chúng ta. Nó đề nghị những cách cụ thể để hỗ trợ những người dễ bị tổn thương nhất và nó sử dụng những hình ảnh đánh động. Đầu tiên, nó yêu cầu chúng ta cảm thông với những người đang đau buồn: “Đừng ngoảnh mặt không nhìn những ai đang than khóc (7,34). Thời gian đại dịch buộc chúng ta sống trong tình trạng cô lập nghiêm ngặt, thậm chí không thể nhìn thấy và an ủi bạn bè và người quen đau buồn về sự mất mát những người thân yêu của họ. Tác giả sách thánh cũng nói: “Đừng ngại thăm nom người đau yếu” (7,35). Chúng ta đã không thể gần gũi với những người đau khổ, đồng thời chúng ta đã nhận thức rõ hơn về sự mong manh của sự sống của chính chúng ta. Lời Chúa không cho phép tự mãn; nó liên tục thúc đẩy chúng ta thực hiện những hành động của tình yêu.
- Đồng thời, mệnh lệnh: “Hãy rộng tay giúp đỡ người nghèo” thách thức thái độ của những người thích giữ tay trong túi và không bị lay chuyển bởi những tình cảnh nghèo khó mà họ thường đồng lõa. Sự thờ ơ và yếm thế là lương thực hàng ngày của họ. Thật là một sự khác biệt so với đôi tay quảng đại mà chúng ta đã mô tả! Nếu họ đưa tay ra, là để chạm vào bàn phím máy vi tính để chuyển các khoản tiền từ bên này thế giới sang phía bên kia, và bảo đảm sự giàu có của một số ít người ưu tú và sự nghèo đói khủng khiếp của hàng triệu người và sự hủy hoại của toàn thể các quốc gia. Một số bàn tay được đưa ra để tích lũy tiền bằng cách bán vũ khí mà những người khác, bao gồm cả những đứa trẻ, sử dụng để gieo rắc cái chết và nghèo đói. Những bàn tay khác đưa ra để giải quyết những cái chết trong những con hẻm tối để làm giàu và sống xa hoa và dư thừa hoặc để lặng lẽ chuyển hối lộ để tìm lợi ích nhanh chóng và tham nhũng. Còn có những người khác, bằng cách trưng ra một sự tôn trọng giả tạo, họ đặt ra những luật lệ mà chính họ không tuân theo.
Giữa tất cả các hoàn cảnh này, “những người bị loại trừ vẫn đang chờ đợi. Để duy trì một lối sống loại trừ người khác, hoặc để duy trì sự nhiệt tình cho lý tưởng ích kỷ đó, một sự toàn cầu hóa thờ ơ đã phát triển. Nếu như không nhận thức được điều đó, chúng ta sẽ đi đến chỗ không có khả năng cảm thấy thương cảm trước sự phẫn nộ của người nghèo, không có khả năng khóc vì nỗi đau của người khác và không cảm thấy cần phải giúp đỡ họ, như thể tất cả điều này là trách nhiệm của người khác chứ không phải của chính chúng ta ( Evangelii Gaudium, 54). Chúng ta không thể hạnh phúc cho đến khi những đôi tay gieo cái chết được biến thành công cụ của công lý và hòa bình cho toàn thế giới.
- “Trong mọi lời ăn tiếng nói, hãy nghĩ đến đời con chung cuộc thế nào” (Hc 7,36). Đây là những từ cuối cùng của chương này của sách Huấn ca. Chúng có thể được hiểu theo hai cách. Trước tiên, cuộc sống của chúng ta sớm hay muộn cũng sẽ kết thúc. Ghi nhớ số phận chung của chúng ta có thể giúp dẫn đến một cuộc sống quan tâm đến những người nghèo hơn chúng ta hoặc không có những cơ hội như chúng ta. Thứ hai, cũng có một kết thúc hoặc mục tiêu mà mỗi chúng ta đang hướng đến. Và điều này có nghĩa là cuộc sống của chúng ta là một dự án và một quá trình. Mục tiêu của mọi hành động của chúng ta chỉ có thể là tình yêu. Đây là mục tiêu cuối cùng của hành trình của chúng ta và không có gì có thể làm chúng ta không chú tâm đến nó. Tình yêu này là tình yêu chia sẻ, cống hiến và phục vụ, được nảy sinh từ nhận thức rằng chúng ta được yêu thương trước và được thức tỉnh để yêu thương. Chúng ta thấy điều này trong cách trẻ em đón nhận nụ cười của người mẹ và cảm thấy được yêu thương, chỉ đơn giản bằng cách sống. Một nụ cười mà chúng ta có thể chia sẻ với người nghèo cũng là nguồn tình yêu và cách lan truyền tình yêu. Tiếp đến, một bàn tay đưa ra có thể luôn được phong phú thêm bởi nụ cười của những người đưa ra sự giúp đỡ, âm thầm và không khoe khoang, nhưng chỉ được truyền cảm hứng từ niềm vui sống như một môn đệ của Chúa Kitô.
Trong hành trình gặp gỡ hàng ngày với người nghèo này, Mẹ Thiên Chúa luôn ở bên chúng ta. Hơn ai hết, Mẹ là Mẹ của Người Nghèo. Đức Trinh Nữ Maria biết rõ những khó khăn và đau khổ của những người bị gạt ngoài lề, vì chính Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa trong một chuồng thú vật. Do mối đe dọa của vua Hêrôđê, Mẹ đã trốn sang một quốc gia khác cùng với thánh Giuse, người phối ngẫu của Mẹ, và với Hài Nhi Giêsu. Trong nhiều năm, Thánh Gia sống như những người tị nạn. Xin cho lời chúng ta cầu nguyện với Mẹ Maria, Mẹ của Người Nghèo, hợp nhất những người này, những đứa con yêu dấu của Mẹ, với tất cả những người phục vụ họ nhân Danh Chúa Kitô. Và xin cho lời cầu nguyện đó làm cho những bàn tay đưa ra trở thành một vòng tay của tình huynh đệ được chia sẻ và tái khám phá.
Roma, đền thờ thánh Gioan Laterano, ngày 13/06/2020
Lễ nhớ thánh Antôn thành Padua.
Bản dịch của Hồng Thủy
2020
HY Turkson kêu gọi Giáo hội quan tâm đến những nhu cầu mục vụ của tín hữu
Đức Hồng Y Peter Turkson đã kêu gọi các mục tử của Giáo hội và các cộng tác viên của các ngài chú ý đến các nhu cầu mục vụ tinh tế của cộng đoàn của mình.
Sự kỳ thị vì Covid-19
Phát biểu tại một cuộc họp báo với Vatican Media được tổ chức hồi đầu tuần này, có chủ đề “Chuẩn bị tương lại thông qua các Giáo hội địa phương vào thời điểm của dịch Covid-19”, Đức Hồng Y Peter Turkson, Tổng trưởng Bộ Phục vụ và Phát triển Con người toàn diện, đã nói: “Ngoài việc phân phát lương thực cho những người dễ bị tổn thương, còn có những vấn đề tinh tế khác (liên quan đến Covid-19) như sự kỳ thị. Nó không được nói đến nhiều, nhưng ví dụ, ở Nam Phi, nó là một mối quan tâm. Người dân bị đuổi ra khỏi nhà vì họ bị nghi ngờ nhiễm Covid-19, và người ta sợ rằng họ sẽ lây nhiễm cho người khác. Sự kỳ thị cũng là điều mà Bộ của chúng tôi đang bàn đến.”
Thông tin chính xác của truyền thông
Đức Hồng Y Turkson nhấn mạnh rằng trong khi tất cả các công việc từ thiện mà Giáo hội tham gia là cần thiết, thì đại dịch Covid-19 là một hiện tượng toàn cầu gây nên các hậu quả về xã hội. Ngài nói rằng Giáo hội phải tìm ra những cách sáng tạo để phổ biến thông tin chính xác khi đề cập đến các bài phát biểu phân biệt đối xử, thù hận và thực sự kỳ thị.
Gần gũi với nỗi đau của các gia đình
Tiếp đến, nói về nhiều gia đình đã mất người thân và không thể đồng ý về việc từ biệt hay chôn cất người thân theo cách thích hợp, Đức Hồng y muốn Giáo hội cần phải gần gũi những gia đình như vậy. Ngài nói: “Cảm thông với những người mất người thân… Việc an táng trong những ngày này được làm trong hoàn cảnh khủng khiếp. Những người thân không có cơ hội gần người thân yêu ngay cả khi họ qua đời và được an táng.”
Sự kỳ thị tại châu Phi
Trong cuộc phỏng vấn mới đây, Đức cha Joseph Kizitko của giáo phận Aliwal ở Nam Phi đã nói về việc Giáo hội chống lại sự kỳ thị liên quan đến virus corona. Sự kỳ thị không chỉ là vấn đề của Nam Phi. Ở nhiều quốc gia, đã có những sự cố về những người khỏi bệnh được nêu tên trên phương tiện truyền thông xã hội, khiến họ bị xã hội xa lánh. Nhân viên y tế làm việc với bệnh nhân Covid-19 cũng phải đối mặt với sự phân biệt đối xử. Hồng Thủy
2020
Viết Cho Người Bệnh
Thân phận con người là hữu hạn: “Hữu sinh, hữu tử”. Nghĩa là có sinh ắt phải có tử. Nhưng ngày sinh thì biết, ngày tử thì không. Chết ở đâu, khi nào và chết bằng cách nào chúng ta không hề hay biết. Chỉ biết rằng sinh ra trong cõi đời này, sống trong cõi tạm này và ngày nào đó ta sẽ phải buông bỏ tất cả để chấm dứt cuộc đời chóng qua này. Như thế, đời người được ví như một chuyến đi, một hành trình có khởi đầu và kết thúc như một “cuộc chơi” mà không ai thoát khỏi.
‘Sinh, Lão, Bệnh, Tử’ đã trở thành quy luật của một đời người và là định mệnh của con người. Quan niệm ấy không chỉ đúng với Phật giáo nhưng còn đúng với nhiều người. Với Kitô Giáo thì bệnh tật và tội lỗi là do con người. Bởi, hệ lụy này chính là sự đổ vỡ tương quan giữa Nguyên tổ với Thiên Chúa khi ông bà bất tuân lệnh Chúa truyền và họ phải chuốc lấy khổ đau, bệnh tật và sự chết (x. St 2, 7-8; 3, 1-7).
Ý thức giới hạn nơi phận người, chúng ta mới hiểu rõ hơn về sự mong manh của kiếp người. Bệnh tật là một hiện tượng hiển nhiên trong cuộc đời mỗi người. Vì thế, chúng ta không thể nói tôi không có bệnh. Hay tôi bệnh mà người khác không có. Qua đó, giúp cho mỗi người hiểu được cuộc đời này là món quà quý giá được Thiên Chúa tặng thưởng. Chúng ta hãy biết sử dụng tốt với thời gian Chúa ban, nhất là biết tương thân tương ái với nhau trong tình thương của Thiên Chúa mà nhận ra ý nghĩa mỏng dòn của cuộc đời mình.
Bệnh luôn gắn liền với con người. Xét cho cùng, ai trong chúng ta cũng trở nên người bệnh. Bệnh nói lên sự bất toàn và giới hạn của con người. Chúng ta có thể đã trải qua một hay nhiều lần ngã bệnh, không lúc này thì lúc khác, không nặng thì nhẹ. Người bệnh luôn gắn với đau khổ, buồn chán, thất vọng, đau đớn… Hiếm thấy ai nói rằng, tôi hạnh phúc vì mang bệnh trong mình.
Nói đến bệnh, ai trong chúng ta lại không cảm nghiệm được sự đau đớn, khó chịu, buồn bực, âu lo, sợ hãi,… Có nhiều người đã chán nản, thất vọng, buông xuôi, hụt hẫng, khi được tin bản thân có bạo bệnh. Điều này không ai phủ nhận và chê cười. Nhưng điều quan trọng là làm thế nào, dù đau buồn với căn bệnh nơi thân xác nhưng chúng ta vẫn phải giữ được trạng thái của mình mà sống bình an, phó thác; sống lạc quan và yêu đời, mới mong có thêm tuổi thọ.
Với bài viết này, xin được chia sẻ một vài tâm tình cho người bệnh và những điểm tích cực dựa trên một vài câu chuyện của Tin Mừng, khi chúng ta phải sống chung với bệnh tật hoặc đang thấy mình sẽ có bệnh.
Người bệnh nhìn lên Đấng Chí Tôn
Phận người gắn với bệnh tật. Qua bệnh, giúp mỗi người nhận ra sự yếu đuối của thân xác. Người xưa đã nói: “Thất thập cổ lai hy”: bảy mươi tuổi cho là hiếm, tám mươi tuổi cho là thượng thọ, trăm tuổi cho là kỳ lạ. Hay lời thơ Cung Oán Ngâm Khúc của tác giả Nguyễn Gia Thiều đã miêu tả về đời người ngắn ngủi chóng tàn: “Trăm năm nào có gì đâu! Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”.
Còn Thánh Kinh dạy chúng ta ý nghĩa cuộc đời này là cõi tạm để bước vào đời sống vĩnh hằng:
“Đời chúng con tàn tạ, kiếp sống thoảng qua, một tiếng thở dài.
Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi” (Tv 90,9-10).
Thánh vịnh 90 dạy cho ta biết, cuộc đời mai sau mới là chốn để chúng ta hướng đến và đi tới. Vì thế, bệnh là cơ hội để chúng ta đến gần sự chết và qua cái chết để mỗi người bước vào ngưỡng cửa của đời sống vĩnh hằng. Cái chết không là ngõ cụt hay tận cùng, nhưng là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Chúa Kitô và cùng với Ngài trong cõi Thiên Quốc. Thánh Phaolô đã có lý khi nói: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1,21).
Chúng ta ý thức cuộc đời này là cõi tạm để sống tỉnh thức và khôn ngoan với năm tháng Chúa ban mà hướng về đời sống vĩnh cửu mai sau. Khi đặt niềm tin vào Thiên Chúa, thì dù bệnh tật hay khổ đau chúng ta vẫn được Thần Khí hướng dẫn, ban sức mạnh để vác lấy thập giá khổ đau. Qua thập giá chúng ta sẽ nhận ra được sự khôn ngoan đích thực của Thiên Chúa nơi phận người. Vì thế, chúng ta luôn xác tín vào Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv. 90,12).
Thiên Chúa nhìn xuống người bệnh
Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa làm Người và ở giữa chúng ta. Ngài đến với nhân loại để chia sẻ phận người và cứu độ chúng ta. Ngài không chỉ đến với tội nhân nhưng Ngài đến với những con người khổ đau và bệnh tật. Chính Ngài đã trở nên, như Vị Lương Y để chữa lành và ban lại sự sống cho những người ốm đau bệnh tật.
Câu chuyện anh Lazarô được sống lại: Ga 11, 1-45
Tin Mừng theo thánh Gioan, chương 11, từ câu 01 đến câu 45 giúp chúng ta dễ nhận ra: Thiên Chúa không chỉ nhìn đến người bệnh và sự chết chóc, nhưng còn nhìn đến nỗi thống khổ và sự đau buồn trong tiếng khóc và lời than vãn của người thân đang sống. Đứng trước sự bi đát của con người, Thiên Chúa đã ra tay cứu chữa bằng lòng thương xót và quyền năng của Ngài.
Chị Martha nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con sẽ không chết, nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Câu nói của Martha cho ta hiểu thêm, Đức Giêsu có khả năng đem lại sự sống và chữa lành bệnh cho anh Lazarô, em của chị dù căn bệnh đó rất hiểm nghèo. Tuy nhiên, bây giờ em chị đã chết, Đức Giêsu chỉ có thể làm cho em chị sống lại nếu Ngài cầu xin cùng Thiên Chúa điều đó. Đức Giêsu đã nói với chị “Em chị sẽ sống lại”. Điều này Đức Giêsu đã nói rất rõ: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để tỏ bày vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”.
Dù Lazarô được an táng trong mồ đã bốn ngày, nhưng Đức Giêsu vẫn có khả năng làm cho anh sống lại. Nhất là vì tình thương dành cho Lazarô, Martha và Maria, Đức Giêsu đã truyền cho anh chỗi dậy ra khỏi mồ, trả lại cho anh sự sống và cho Lazarô trở về với cuộc sống bình thường. Không một ai trong chúng ta có khả năng làm cho kẻ chết sống lại, cùng lắm một bác sĩ giỏi chỉ có thể chữa lành cho bệnh nhân khi đang nguy kịch mà thôi.
Đức Giêsu đã dùng quyền năng Thánh Thần của Thiên Chúa và Ngài đã dùng quyền năng của chính mình là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa ở giữa nhân loại để thực hiện dấu lạ và ban lại sự sống cho con người. Vinh quang của Thiên Chúa được bày tỏ nơi Người Con là Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta.
Câu chuyện người đàn bà bị băng huyết: Mc 5, 25-43
Đức Giêsu chữa lành bệnh nhân trước hết là do lòng tin của họ. Người phụ nữ trong Tin Mừng là một bằng chứng. Dù bà bị băng huyết đã 12 năm, dù bà đã đi nhiều nơi, đến nhiều bác sĩ và đã tán gia bại sản vẫn tiền mất tật mang (x. Mc 5,25). Nỗi buồn và cái nhìn của người khác với bà như kẻ bị ô uế ngày càng sầu nặng trong tâm hồn bà. Nhưng chính bà đã nghĩ đến Đức Giêsu có thể chữa lành. Giờ đây, bà tin chắc rằng, nếu bà gặp được Đức Giêsu và nếu bà tìm cách sờ vào áo của Người: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu” (x. Mc 5, 27-28). Đức Giêsu đã thấy lòng tin của bà nên đã ra tay cứu chữa, khi Ngài nói: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34).
Thực tế trong đời thường, Thiên Chúa vẫn làm phép lạ mỗi ngày trong những cơn bệnh nguy khốn, khi các thầy thuốc bó tay hay từ chối. Những bệnh nhân và người thân đã cảm nghiệm được nhờ lòng tin, nhờ quyền năng và nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa mới có thể được chữa lành cho họ.
Câu chuyện đầy tớ của viên đại đội trưởng: Mt 8, 5-17
Chúa Giêsu là Đấng đầy lòng xót thương. Ngài yêu thương tất cả mọi người, không phân biệt: tôn giáo, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, giai cấp nhưng Ngài đến với con người để đem ơn cứu độ. Tình thương của Chúa Giêsu thông ban sự sống, đem lại ơn chữa lành cho con người. Nhưng đôi khi con người đã xây nên những bức tường để làm rào cản ngăn cách với anh em đồng loại.
Đức Giêsu đến chữa lành cho một đầy tớ thân tín của viên đại đội trưởng, dù ông là người ngoại giáo. Ông đã cảm nhận được nỗi đau của đầy tớ như nỗi đau của chính mình. Ông đã nói: “Đầy tớ của tôi bị liệt nằm ở nhà, đau đớn kinh khủng” (Mt 8,6). Và ông đã đến gặp Chúa Giêsu để xin Ngài chữa lành cho đầy tớ mình.
Chúa Giêsu nói: “Tôi sẽ đến chữa nó”. Chứng tỏ Ngài luôn sẵn sàng đến để thông ban sự sống và yêu thương. Ngài đem cả con người và tình thương để phục vụ, yêu thương, chữa lành cho tất cả mọi người. Với lòng tin của viên đại đội trưởng khiến Chúa Giêsu đã cảm nhận ra lời tuyên xưng đầy chân chính và khiêm nhu: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh” (Mt 8,8). Ông còn tin rằng, Chúa Giêsu chỉ cần phán một lời, thì đầy tớ của ông, dù có ở xa đến đâu cũng sẽ được lành. Trước lòng tin ấy, Chúa Giêsu đã khen ngợi: “Tôi không thấy một người Israel nào có lòng tin như thế” (Mt 8,10).
Lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng là kết quả của sự nhận biết đúng đắn về bản thân và quyền năng của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu. Ðể có sự hiểu biết đúng đắn cần phải có thái độ khiêm tốn. Mỗi người trong chúng ta cần học nơi ông về cách đến với Chúa Giêsu qua thái độ khiêm tốn và lòng tin vững mạnh nơi Ngài.
Lòng tin ấy được Mẹ Hội Thánh dạy cho chúng ta trong sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo: “Đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, được trao ban cho tất cả những ai cầu xin với lòng khiêm hạ; đó là nhân đức siêu nhiên cần thiết để được cứu độ. Hành vi đức tin là một hành vi nhân linh, nghĩa là một hành động của lý trí con người, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Ngoài ra, đức tin còn có đặc tính chắc chắn, vì được đặt trên nền tảng Lời Chúa; đức tin có đặc tính năng động “nhờ Đức mến” (Gl 5,6); đức tin luôn tăng triển là nhờ lắng nghe Lời Thiên Chúa và cầu nguyện luôn. Trong hiện tại, đức tin cho chúng ta như được nếm trước niềm hoan lạc và ánh sáng vinh quang trên Thiên Quốc” (x. GLCG. Số 160,162,163).
Ngày nay, Chúa Giêsu cũng cần lòng tin của chúng ta để chữa lành cho thế giới. Lòng tin ấy được thể hiện bằng những hành động cụ thể như: an ủi, cảm thông, giúp đỡ, động viên, sẻ chia. Lòng tin ấy chính là một thể hiện tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Mỗi người chúng ta liên đới với những người đau khổ, những bệnh nhân của những căn bệnh hiểm nghèo. Người Kitô hữu luôn lấy đức tin để nhìn vào những đau khổ của mình và tha nhân hiệp với đau khổ của Đức Kitô trên Thánh Giá.
Người bệnh luôn cần đến người mạnh khỏe. Lúc bệnh ai cũng có cảm giác đau khổ, cô đơn, buồn tủi và sức lực yếu đi. Lúc ấy họ muốn buông xuôi và sợ hãi trước cái chết, nếu biết cái chết gần kề với căn bệnh hiểm nghèo. Vì thế, họ cần lắm bàn tay nâng đỡ, ủi an và yêu thương. Họ cần lòng nhân ái và sự bao dung của người mạnh khỏe. Họ cần lời động viên khích lệ của y bác sĩ và người thân hơn là cho họ món quà vật chất.
Một chút suy tư như thế về người bệnh dưới ánh sáng của Lời Chúa, thiết nghĩ mỗi người chúng ta luôn biết quan tâm đến người khác, nhất là với người bệnh, bằng việc: cảm thông, yêu thương, nâng đỡ, chia sẻ. Ước gì mỗi người chúng ta luôn có được đôi mắt nhân từ, trái tim thương cảm, vòng tay rộng mở của Chúa để nhạy bén với những nhu cầu, nỗi đau, thất vọng, mệt mỏi của bệnh nhân. Từ đó, chúng ta thông hiệp khổ đau và bệnh tật của người khác vào trong lời cầu nguyện với lòng tin được chữa lành qua sự chuyển cầu từ mẫu của Mẹ Maria và lòng thương xót của Thiên Chúa. Lm. Phêrô Nguyễn Trọng Đường, SVD