2020
ĐTC Phanxicô: Chúng ta không bao giờ đơn độc khi cầu nguyện với Chúa về cuộc sống của mình
ĐTC Phanxicô: Chúng ta không bao giờ đơn độc khi cầu nguyện với Chúa về cuộc sống của mình
Sáng thứ Tư 24/06, trong buổi tiếp kiến chung được truyền chiếu trực tiếp từ Thư viện Dinh Tông Tòa, Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục loạt bài giáo lý về đề tài cầu nguyện với “Lời cầu nguyện của vua Đa-vít”. Ngài mời gọi cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh, như vua Đa-vít, khi thánh thiện cũng như khi là tội nhân.
Khi còn là cậu bé, Đa-vít hàng ngày ra đồng chăm sóc đàn chiên của cha mình. Cậu bé Đa-vít cũng là người yêu thích âm nhạc và thi ca; chính điều này giúp cậu nhận ra sự nhiệm mầu của thiên nhiên và từ đó phát sinh việc cầu nguyện.
Là mục tử và là vua, Đa-vít là hình ảnh báo trước của Chúa Giê-su Mục tử tốt lành và Vua hoàn vũ; mối quan hệ cầu nguyện với Cha trên trời đã nâng đỡ toàn cuộc sống của Chúa Giê-su.
Đa-vít vừa là thánh nhân vừa là tội nhân, cuộc đời ông đầy những mâu thuẫn; tuy nhiên trong ơn gọi lãnh đạo dân Chúa, ông luôn kiên trì cầu nguyện trò chuyện với Chúa.
Đức Thánh Cha nhận xét rằng cuộc đời của chúng ta cũng ghi dấu bởi những điều mâu thuẫn và những động lực bất nhất. Ngài mời gọi các tín hữu noi gương vua Đa-vít, hãy luôn hiện diện trước Chúa, tín thác nói với Chúa niềm vui và nỗi buồn, khiếm khuyết và đau khổ, tạ ơn về mỗi ơn lành chúng ta nhận được. Khi cảm nhận được Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong mọi hoàn cảnh sống, chúng ta có thể chia sẻ niềm vui này với người khác.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Đức Thánh Cha bắt đầu bài giáo lý với việc giải thích về nhân vật Đa-vít: Được Thiên Chúa yêu quý từ khi còn là một cậu bé, Đa-vít được chọn để thi hành một sứ vụ duy nhất; ông sẽ đảm nhận vai trò trung tâm trong lịch sử của dân Chúa và đức tin của chúng ta. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu được gọi nhiều lần là “con vua Đa-vít”; thật ra, giống như ông, Chúa được sinh ra tại Bê-lem. Theo lời hứa, Đấng Mê-si-a sẽ xuất phát từ dòng dõi của Đa-vít: một vị Vua hoàn toàn theo ý muốn của Thiên Chúa, trong sự vâng phục Chúa Cha hoàn toàn, ông trung thành thực hiện kế hoạch cứu độ của Chúa (x. Giáo lý Giáo hội Công giáo, 2579).
Đa-vít: một mục tử
Câu chuyện của Đa-vít bắt đầu trên những ngọn đồi xung quanh Bê-lem, nơi ông chăm sóc đàn chiên của cha, ông Giê-sê. Đa-vít vẫn là một cậu bé, người em út của nhiều anh em. Đến nỗi khi tiên tri Samuel, theo lệnh của Thiên Chúa, lên đường tìm kiếm vị vua mới, cha của Đa-vít dường như đã quên mất đứa con trai út đó (x. 1 Sm 16,1-13). Cậu làm việc ngoài đồng: chúng ta nghĩ anh ấy là một người bạn của gió, của các âm thanh của thiên nhiên, của những tia nắng mặt trời. Cậu chỉ có một người bạn để an ủi tâm hồn mình, đó là cây đàn, và trong những ngày dài đơn độc, cậu ta thích chơi đàn và ca hát ngợi khen Chúa. Cậu cũng thích chơi với cái ná.
Do đó, Đa-vít trước hết là một mục tử: một người chăm sóc các thú vật, người bảo vệ chúng khi gặp nguy hiểm, người cung cấp thức ăn nuôi dưỡng chúng. Khi theo ý muốn của Thiên Chúa, Đa-vít sẽ phải chăm sóc cho dân Chúa, việc ông làm sẽ không khác lắm với những điều này. Đó là lý do tại sao hình ảnh người mục tử thường xuất hiện trong Kinh Thánh. Chính Chúa Giêsu cũng định nghĩa mình là “mục tử tốt lành”, người hành động khác với những người chăn thuê; Chúa hiến mạng sống mình vì chiên, Người hướng dẫn họ, biết tên của từng con chiên (x. Ga 10,11-18).
Đa-vít đã học được rất nhiều từ công việc trước đây của mình. Vì vậy, khi ngôn sứ Na-tan quở trách ông vì tội lỗi rất nặng nề của ông (x. 2 Sm 12,1-15), Đa-vít hiểu ngay rằng ông là một mục tử xấu, rằng ông đã cướp lấy con chiên duy nhất, yêu quý của một người khác, rằng ông không còn là một tôi tớ khiêm nhường, mà là một người điên cuồng vì quyền lực, một kẻ săn trộm giết người và cướp bóc.
Đa-vít với tâm hồn thi sĩ
Một đặc điểm thứ hai cũng có trong ơn gọi của Đa-vít là tâm hồn thi sĩ của ông. Từ sự quan sát đơn sơ này, chúng ta có thể suy luận rằng Đa-vít không phải là một người đàn ông thô tục, như thường xảy ra với những người bị buộc phải sống cô lập với xã hội trong thời gian dài. Ngược lại, ông là một người nhạy cảm, yêu âm nhạc và ca hát. Chiếc đàn hạc của ông luôn ở bên ông: đôi khi để dâng lên Chúa một bài thánh thi vui mừng với (x. 2 Sm 6,16), những lần khác để bày tỏ một lời than thở, hoặc thú nhận tội lỗi của chính mình (x. Tv 51,3).
Chiêm niệm mầu nhiệm cuộc sống
Thế giới xuất hiện trước mắt ông Đa-vít không phải là một khung cảnh câm lặng: khi mọi thứ được bày tỏ trước mắt ông, ông nhận thấy một mầu nhiệm lớn hơn. Đó chính là nơi cầu nguyện phát sinh: từ xác tín rằng cuộc sống không phải là thứ bất ngờ xảy đến với chúng ta, mà là một mầu nhiệm đáng kinh ngạc truyền cảm hứng cho thơ ca, âm nhạc, lòng biết ơn, lời khen ngợi, thậm chí là than thở và cầu xin trong chúng ta. Khi một người thiếu chiều kích thi ca thì tâm hồn người đó bị khập khễnh. Do đó, theo truyền thống, Đa-vít là nghệ sĩ vĩ đại trong việc sáng tác các Thánh vịnh. Nhiều Thánh vịnh, ngay từ đầu đã đề cập rõ ràng đến vị vua của Israel và đến một số sự kiện ít nhiều nổi bật trong cuộc đời ông.
Do đó, vua Đa-vít có một giấc mơ: giấc mơ của một mục tử tốt. Đôi khi ông có thể thực hiện tốt nhiệm vụ đó, đôi khi ít thành công hơn. Tuy nhiên, điều quan trọng là trong bối cảnh của lịch sử cứu độ, chính ông là một lời tiên tri về một vị Vua khác, người mà ông chỉ loan báo và là hình bóng.
Cầu nguyện: trò chuyện với Chúa về mọi điều trong cuộc sống
Chúng ta hãy nhìn ngắm vua Đa-vít, hãy suy nghĩ về ông. Thánh thiện và tội lỗi, bị bắt bớ và là người bắt bớ, nạn nhân và kẻ giết người. Đa-vít là tất cả những điều này. Và trong cuộc sống của mình, chúng ta cũng đã ghi lại những sự kiện thường trái ngược nhau; trong cuộc sống, tất cả mọi người thường phạm tội vì sự không nhất quán. Có một sợi chỉ đỏ duy nhất chạy suốt cuộc đời vua Đa-vít, liên kết mọi thứ xảy ra: đó là lời cầu nguyện của ông. Đó là tiếng nói không bao giờ bị dập tắt. Đa-vít thánh thiện, cầu nguyện; Đa-vít tội lỗi, cầu nguyện; Đa-vít người bách hại, cầu nguyện; Đa-vít nạn nhân, cầu nguyện. Ngay cả Đa-vít bạo chúa, cầu nguyện. Đây là sợi chỉ đỏ trong cuộc sống của ông. Một con người cầu nguyện. Đó là tiếng nói không bao giờ tắt: nó là những giai điệu tưng bừng hay than thở, nó luôn luôn là lời cầu nguyện, chỉ có giai điệu thay đổi. Khi làm như vậy, vua Đa-vít dạy chúng ta hãy đưa mọi sự vào cuộc đối thoại với Chúa: niềm vui cũng như cảm giác tội lỗi, tình yêu cũng như đau khổ, tình bạn cũng như bệnh tật. Tất cả mọi thứ có thể trở thành một lời thốt ra với “Ngài”, Đấng luôn lắng nghe chúng ta.
Cầu nguyện đặt chúng ta trong bàn tay Chúa
Vua Đa-vít, người đã biết về sự đơn độc, trong thực tế lại không bao giờ cô đơn! Cuối cùng, đây là sức mạnh của lời cầu nguyện nơi tất cả những người biết dành chỗ cho cầu nguyện trong cuộc sống của họ. Cầu nguyện làm cho bạn trở nên cao thượng, và Đa-vít cao thượng bởi vì ông cầu nguyện. Nhưng ông là một đao phủ, ông cầu nguyện, ăn năn và ông trở lại cao quý nhờ lời cầu nguyện. Cầu nguyện cho chúng ta sự cao quý: nó có khả năng đảm bảo mối quan hệ của họ với Thiên Chúa, là Người Đồng hành thực sự trên hành trình của mỗi người, giữa muôn ngàn nghịch cảnh của cuộc sống, tốt lành hay xấu xa: nhưng luôn luôn cầu nguyện. Con cảm ơn Chúa. Con sợ Chúa. Lạy Chúa xin hãy giúp con. Lạy Chúa, xin tha thứ cho con. Đa-vít rất tín thác đến nỗi khi bị bắt bớ và phải chạy trốn, ông đã không để ai bảo vệ mình: “Nếu Chúa của tôi làm nhục tôi như thế này, Người biết”, bởi vì sự cao quý của cầu nguyện để chúng ta trong tay Chúa. Đôi tay chịu thương tích của tình yêu, và đôi tay an toàn duy nhất mà chúng ta có.
Hồng Thủy
2020
Đại sứ quán Anh và Hoa Kỳ tổ chức hội nghị chuyên đề vinh danh các nữ tu
Đại sứ quán Anh và Hoa Kỳ tổ chức hội nghị chuyên đề vinh danh các nữ tu
Hôm thứ Ba 23/6/2020, Đại sứ quán Anh và Hoa Kỳ cạnh Tòa Thánh cộng tác tổ chức một hội nghị chuyên đề trực tuyến nhằm vinh danh các nữ tu. Chủ đề của hội nghị là “Những nữ tu ở các tuyến đầu”.
Nói với Vatican News trong một cuộc phỏng vấn, bà Callista Gingrich, Đại sứ Hoa Kỳ đưa ra những nhận định sau: “Những nữ tu là những người đã và đang nỗ lực đóng góp cho xã hội nhưng thường không được đánh giá cao. Họ là các nữ anh hùng vô danh của Giáo hội Công Giáo. Họ thực sự là những nhà giáo dục, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và nhân đạo trên tuyến đầu trong rất nhiều cộng đồng trên khắp thế giới”.
Theo Đại sứ Gingrich, trong đại dịch các nữ tu tiếp tục làm việc không mệt mỏi để giúp những người đang gặp khó khăn vượt qua những thách đố như thất nghiệp, nghèo đói và mất an ninh lương thực. Bà nói: “Hội nghị chuyên đề của chúng tôi nhấn mạnh điểm chính xác này. Các nữ tu là một trong những đối tác hiệu quả và quan trọng nhất mà chúng tôi có”. Bà lưu ý, các nữ tu là những người có một trình độ hiểu biết bén nhạy trước các tình huống xã hội, kinh tế và chính trị trong khu vực họ hoạt động.
Bà Gingrich nhắc lại rằng các nữ tu thường là những tia sáng hy vọng cuối cùng cho hàng triệu người không có tiếng nói. Dịch vụ của họ mở rộng đến những người di cư tuyệt vọng, tại những nơi mà chính phủ và các tổ chức nhân đạo đang cố gắng hoạt động.
Bà Sally Axworthy, Đại sứ Anh nói: “Chúng tôi rất coi trọng công việc của những người nam và nữ trong việc chăm sóc những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Họ cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho mọi người trên khắp thế giới”. Đại sứ Axworthy chỉ ra rằng các nữ tu là người rất nhanh nhẹn, phát hiện ra nhu cầu và đáp ứng, cũng như kiên cường, chẳng hạn ở trong các khu vực xung đột.
Hội thảo chuyên đề bao gồm một cuộc thảo luận với ba nữ tu, có nhiều kinh nghiệm trong việc thúc đẩy giáo dục và nhân quyền, và hỗ trợ nạn nhân của nạn buôn người:
Sơ Stan Therese Mumuni, Bề trên tổng quyền Dòng Mẹ Maria tôn sùng Thánh Thể, đã cứu sống nhiều trẻ sinh dị tật bẩm sinh ở miền bắc Ghana.
Sơ Imelda Poole, chủ tịch các Nữ tu Mạng lưới châu Âu Chống Buôn bán và Khai thác phụ nữ tại ở Albania và khắp châu Âu.
Sơ Alicia Vacas, Bề trên Tổng quyền Dòng Comboni ở Giêrusalem, đã hỗ trợ các nữ tu trong công tác chống đại dịch Covid-19 ở miền bắc Ý, và các bệnh viện ở các nước, như Chad.
Bà Đại sứ Axworthy cho biết: “Những nữ tu này, đại diện cho các nữ tu đang phục vụ vô điều kiện cho những người đang cần đến sự giúp đỡ nhất”. Ngọc Yến
2020
Tình trạng sức khỏe của Đức Biển Đức trong những ngày viếng thăm anh trai
Tình trạng sức khỏe của Đức Biển Đức trong những ngày viếng thăm anh trai
Hôm thứ Hai 22/06, không lâu sau khi Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI về đến Roma, Đức cha Rudolf Voderholzer của giáo phận Regensburg đã mở cuộc họp báo ngắn tại sân Tòa giám mục, để tổng kết những ngày Đức Biển Đức XVI lưu ngụ tại giáo phận.
Đức giám mục của Regensburg nói: “Tôi có thể nói với các bạn rằng tôi rất vui vì cuộc gặp gỡ này, một mong muốn thiết tha của cả hai anh em, rõ ràng vừa phục hồi vừa tiếp thêm sinh lực cho cả hai”. Đức cha Voderholzer liệt kê ngắn gọn những điểm nổi bật trong chuyến thăm của Đức Biển Đức XVI ở Regensburg. “Ngài đã đến thăm Học viện Giáo hoàng Biển Đức, nơi tất cả các tác phẩm thần học của ngài được lưu giữ và ghi lại và phiên bản hoàn chỉnh của các tác phẩm thu thập của ngài đã được chuẩn bị. Trong bài giảng của tôi vào Chúa nhật, tôi đã gọi ngài là ‘nhà thần học của thế kỷ’ và là nhà giảng thuyết vĩ đại nhất trên ngai tòa thánh Phêrô, từ thời Đức Leo Cả và Đức Grêgôriô Cả.”
Can đảm và khiêm tốn nhận sự giúp đỡ của người khác
Ngược với sự vĩ đại về phương diện trí tuệ của Đức nguyên Giáo hoàng, Đức giám mục của Regensburg nói rằng 5 ngày qua cho thấy “sự yếu mệt vì tuổi tác của ngài và sự giới hạn của ngài. Ngài nói bằng một giọng yếu ớt, gần như thì thầm và việc phát âm rõ ràng là khó khăn đối với ngài. Tuy nhiên, những suy tư của ngài hoàn toàn rõ ràng, trí nhớ và khả năng kết hợp phi thường của ngài. Để thực hiện công việc hàng ngày của mình, ngài cần sự giúp đỡ của người khác. Cần phải có lòng can đảm, đồng thời khiêm tốn, để đặt mình vào tay người khác và xuất hiện trước công chúng.”
Chuyến đi thêm sức cho Đức Biển Đức
Sự nồng nhiệt của người dân và thành phố, bầu khí gia đình, rõ ràng đã thêm sức cho Đức Biển Đức XVI. “Chuyến đi của Đức Biển Đức có lẽ cũng là một lời từ biệt với quê nhà Bavaria của mình. Bạn có thể nhận thấy Đức Biển Đức trở lại mạnh mẽ như thế nào khi nhìn thấy phong cảnh thân yêu, những con hẻm và trên hết là những người từ cửa sổ xe hơi của ngài. Nếu có thể, ngài sẽ đi xe đạp từ Pentling, quê của ngài, đến thành phố cổ Regensburg, sẽ ngồi với những người trẻ tuổi ở quảng trường Bismark, sẽ lắng nghe, cười và thậm chí là ‘tán gẫu’ một tí.”
Cuộc hành trình của con người
Đức giám mục giáo phận Regensburg nhấn mạnh đến chiều kích con người trong chuyến viếng thăm của Đức Biển Đức, “chuyến viếng thăm của ngài là cuộc hành trình của con người. Một con người mà chúng ta có thể nói đến với những điều tuyệt vời, đã gặp chúng ta như một người yếu đuối và không có sức tự vệ, người mà bây giờ sức mạnh chỉ còn đủ để tồn tại trên thế gian này. Kinh nghiệm này đánh động tôi rất nhiều.” (ACI 22/06/2020) Hồng Thủy
2020
Làm thế nào Chúa đã thay đổi cuộc đời của ca sĩ Modjo và Pauline, vợ của ông
Yann Destal, tác giả, nhà soạn nhạc, ca sĩ, cựu trưởng ban nhạc Modjo nổi tiếng thế giới và vợ là ca sĩ Pauline kể cho báo Aleteia về cuộc trở lại chấn động của họ. Một chứng từ của hai tiếng nói sáng chói, lôi cuốn và không sàng lọc.
Pauline mảnh khảnh duyên dáng với dáng dấp thiên thần, Yann, tóc dài, ánh mắt trong sáng, dáng dấp vừa thanh lịch vừa rock. Hai người vừa kết hôn được hơn một năm. Độc đáo và tình cảm, không sàng lọc họ kể chứng từ trở lại với đức tin, vừa đồng điệu, vừa vui vẻ nồng nhiệt lan tỏa qua nét đẹp và sự trẻ trung của họ. Thêm nữa là tài năng âm nhạc của Yann, cựu ca sĩ của nhóm Modjo nổi tiếng thế giới với bài Lady.
Anh Yann lớn lên trong một gia đình không ai nói gì nhiều về đức tin cũng như tôn giáo, đến mức anh còn không nhớ có khi nào nghe cha mình đặt vấn đề có sự hiện diện của Chúa hay không. Nhưng anh nhớ khi anh lên bốn, bà ngoại có dạy cho anh đọc Kinh Lạy Cha trước khi đi ngủ. Bà nói cho anh nghe thiên thần hộ thủ của anh. Anh nhớ khi đó anh sống trong sự hiện diện của người bảo vệ mình. Nhất là anh cảm nhận có một cái nhìn che chở ở trên anh, cái nhìn này không bao giờ rời anh và làm chứng cho cuốn phim đời anh. Lớn lên, sự hiện diện này là ngôi sao tốt lành hướng dẫn cuộc đời mà chúng ta thường hướng về, đặc biệt những lúc vui buồn.
Modjo, với bài “Lady” khi trở lại
Rất sớm, Yann hiểu anh có khiếu âm nhạc. Anh học các lớp nhạc lý và học thổi sáo, rồi các nhạc cụ khác. Ở trường âm nhạc, cùng với các bạn, anh tin chắc vào tài năng âm nhạc của mình. Anh hiểu đây là một ơn mà anh không làm gì để có, chỉ sau này khi khám phá đức tin, anh nhận ra, ơn nghệ thuật anh nhận được khi sinh ra, ơn này phải hướng về Chúa vì nó đến từ Chúa, chính xác là vậy. Khi còn là sinh viên năm 22 tuổi, anh gặp ca sĩ Romain Tranchart. Cùng nhau họ thành lập nhóm Modjo. Năm 2000, bài hát Lady đầu tiên của nhóm ra đời và bài hát nhanh chóng nổi tiếng trên toàn cầu:
Chỉ trong vài tuần, bài hát đứng đầu tất cả các bản sắp hạng, hơn cả các bài hát của Madonna ở Âu châu. Rồi thành công trên khắp thế giới. Mới đầu anh nghĩ chỉ bán vài ngàn đĩa nhưng cuối cùng bán được hai triệu đĩa!
Yann và Pauline
Trong một thời gian dài, Yann để hành trình tìm kiếm Chúa ngủ yên cho đến ngày tình cờ anh mở một quyển sách … của triết gia Pascal ra đọc.
Sự thành công trên toàn thế giới không tưởng tượng này đã làm đảo lộn mọi chuyện. Các bài hát của nhóm Modjo được phát trong các hộp đêm nóng bỏng nhất ở Âu châu và Á châu, từ Ibiza đến Tokyo, từ Maxcơva đến Tel Aviv. Và anh cám ơn ngôi sao may mắn của mình, âm nhạc đã thành nghề “chính thức” của anh. Trong một thời gian dài, ngôi sao trẻ ngủ ngon không đi tìm Chúa. Cho đến một ngày tình cờ anh mở một quyển sách của … triết gia Pascal ra đọc. Các tư tưởng trong quyển “Tư tưởng” của Pascal đã làm thay đổi dòng đời của anh. Nhà tư tưởng gia kitô giáo mà anh vừa khám phá đã quyến rũ anh qua “đức tin, một đức tin mãnh liệt với một sức sống cũng mãnh liệt .” Quá ngưỡng mộ, anh kể: “Ngay lập tức tôi bị mê hoặc bởi người chiến đấu cho Đức Kitô, người bắt đầu quyển sách của mình bằng cách sát xà phòng vào những người vô thần, những người hài lòng một cách quá dễ dàng với cuộc sống trước mắt họ”.
Yann: Như hầu hết những người chung quanh tôi, thật sự tôi không biết Chúa Giêsu là ai, tôi cũng không biết là Chúa đã xuống thế làm người!
Một bài đọc vang lên trong lòng anh như một “thẩm quyền cho phép” anh tin để tiến trên con đường đến với Chúa mà không bị ngăn chặn. Anh đọc lui đọc tới từng đoạn trong quyển sách, anh ghi lại vào điện thoại các đoạn chủ yếu, đến độ mà anh chép lại gần như một nửa quyển sách. “Như hầu hết những người chung quanh tôi, thật sự tôi không biết Chúa Giêsu là ai, tôi cũng không biết là Chúa xuống thế làm người!”.
Sau khi trở về từ một chuyến đi và sau khi đọc xong quyển sách, anh tìm thấy Pauline. Cô là người yêu của anh lúc đó, anh chia sẻ khám phá của mình: “Kitô giáo! Đó là tôn giáo thật!” Anh tiếp tục đọc các tác phẩm kitô giáo, anh đọc ngấu nghiến các sách của tư tưởng gia Gustave Thibon, của triết gia Simone Weil …
Yann đề cập chủ đề này với Pauline, nhưng thận trọng để không tạo ra hố chia cách giữa người tin và người không tin.
Nhiệt tình, anh đề cập chủ đề này với Pauline, nhưng thận trọng để không tạo ra hố chia cách giữa người tin và người không tin. Anh cho biết: “Đức tin thật sự là một cuộc cách mạng trong lòng, tôi sợ Pauline nhìn tôi với một hào quang nếu tôi thường xuyên nói đến!”
@Yann và Pauline DestalYann: Có Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta, hôn nhân đã trở nên hiển nhiên với tôi.
Pauline, tình yêu từ cái nhìn đầu tiên với Chúa Giêsu
Còn ca sĩ Pauline lớn lên ở thành phố Troyes trong một gia đình không biết gì về tôn giáo: “Tôi không biết gì về Chúa, về Chúa Giêsu, tôi không bao giờ nghe nói đến Tin Mừng. Thực tế trước mặt tôi là thế giới hoàn toàn vật chất. Thế giới này làm cho tôi rất chán. Vào thời điểm đó, tôi bị mê hoặc bởi vũ trụ, những vật ngoài hành tinh, các con ma và tất cả những gì gọi là huyền bí .” Pauline thích nhìn ngôi sao. Cùng với cô bạn tuổi vị thành niên, cô đi tìm câu trả lời cho các bí ẩn của vũ trụ, họ phát minh ra các lý thuyết huyền ảo của tuổi vị thành niên. Pauline cũng chưa biết có một đời sống nội tâm, đời sống mà sau này cô mới khám phá.
Pauline: Trước khi gặp Chúa, tôi cảm thấy như mình không tồn tại. Trường học, đời sống xã hội, công việc, tôi thấy tất cả thật phi lý. Cả một trống rỗng. Vì thế với thế hệ của tôi, tôi đã làm tất cả những chuyện ngông cuồng mà người ta có thể tưởng tượng …
Khi yêu Yann, Pauline để Yann “thức tỉnh” cô. Cô kể cho báo Aleteia: “Anh kể cho tôi các bài anh đọc, anh thúc đẩy tôi đặt câu hỏi … Cùng với anh, tôi khám phá thế giới nội tâm. Trước khi gặp Chúa, tôi ngắt kết nối với thế giới bên ngoài. Trước khi gặp Chúa, tôi cảm thấy tôi không tồn tại. Trường học, đời sống xã hội, công việc, tôi thấy tất cả thật phi lý. Cả một trống rỗng”. Cô giải thích thêm: “Vì thế với thế hệ của tôi, tôi đã làm tất cả những chuyện ngông cuồng mà người ta có thể tưởng tượng … Tôi ăn cắp, tôi nói dối, tôi làm điều xấu cho người khác … Tôi tìm khắp nơi ai đó nói với tôi phải ngừng đi, ai đó để tôi vâng lời nhưng tôi không thấy ai hết. Đó là điều tôi đã hiểu sau này khi tôi trở lại .”
Pauline: Nó giống như tình yêu từ cái nhìn đầu tiên với nhân vật Giêsu. Ngài trấn an tôi bằng nhân tính của Ngài.
Sự trở lại của Pauline như từ trên trời rơi xuống. “Thật là khủng khiếp. Khi đó tôi 24 tuổi. Tôi như thây ma và Chúa đến với tôi. Ngài gọi tôi nhưng tôi chưa sẵn sàng. Thật là cả một đảo lộn. Nghĩ đến Chúa và ý thức Ngài nhìn tận bên trong tâm hồn mình thì thật là hung bạo và quá sớm”. Cảm nhận tất cả sẽ thay đổi đời sống của mình, Pauline cảm thấy mình chưa sẵn sàng.
Một buổi tối nọ, Yann và cô xem phim “Ben Hur”, cuốn phim của những năm 1960 do tài tử Charlton Heston kiệt xuất đóng. Một trong các cảnh Chúa Kitô xuất hiện làm cô chấn động. Khi đó cô hỏi Yann “nhưng Giêsu là Ai?” Một cách thận trọng Yann đề nghị cả hai cùng tìm một phim có thể trả lời cho câu hỏi này. Họ tìm cuốn “Giêsu thành Nadarét” của nhà đạo diễn Ý Zefirelli. “Nó giống như tình yêu từ cái nhìn đầu tiên với nhân vật Giêsu. Ngài trấn an tôi bằng nhân tính của Ngài. Chúa rất gần và ngay cả rất mong manh! Từ lúc đó tôi nói với Chúa: Ok, được rồi, con nói Vâng với Chúa”. Tất cả đã thay đổi tận căn. Pauline khám phá Tin Mừng và khám phá có một cách khác để nhìn cuộc sống, vô cùng phong phú, tốt đẹp, chân thực, vô cùng khác … Cuộc sống của cô biến hình.
Hướng đến bí tích hôn nhân
Một thời gian ngắn sau hai người trở lại, “kỳ diệu thay cùng một lúc”, Yann cảm nhận tiếng gọi của hôn nhân. Anh nói: “Bằng trực giác, từ lâu tôi hiểu hôn nhân là điều mang lại cho hai người yêu nhau hình thức trọn hảo, triển nở hoàn toàn của họ, nhưng tôi không biết tại sao. Với Chúa hiện diện trong đời sống, điều này trở nên hiển nhiên với tôi .” Về phần mình và trước khi trở lại, Pauline không thấy hôn nhân có một ý nghĩa. Cô tự nhủ: “Kết hôn để làm gì? Mọi người ly dị, rốt cuộc hôn nhân chỉ là bản hợp đồng hành chánh” …
Yann và Pauline: Khiết tịnh chắc chắn là khó, nhưng đồng thời chúng tôi thấy hiệp thông với ý Chúa là niềm vui để chúng tôi dâng hy sinh này cho Ngài.
Chỉ trong lần xưng tội đầu tiên, câu hỏi mới được đặt ra với Pauline. Cô nói: “Tôi quyết định xưng tội lần đầu tiên trong đời. Vì tôi không biết làm sao làm, tôi xin một linh mục giúp tôi, khi đó cha đặt các câu hỏi về đời sống của tôi. Trong số các điều khác, tôi nói với cha tôi có bạn trai và tôi sống với anh ấy. Cha nói với tôi: ‘Con có biết con sống trong tội không? Bây giờ con phải sống như anh em cho đến ngày đám cưới’. Ngạc nhiên Pauline không hiểu, ngay cả cô không có khái niệm về tội. Cô nghĩ, “khi Chúa nói thì mình phải kết hôn .” Chiều hôm đó, xúc động bởi bí tích hôn nhân và lời của linh mục, cô đưa ra ý tưởng kết hôn.
@Yann et Pauline Destal
Đối với hai người, bây giờ là rõ ràng. Họ quyết định chuẩn bị đám cưới. Trong đời sống hàng ngày, họ tiếp tục đào sâu đức tin qua các bài đọc thiêng liêng: Kinh Thánh, Câu chuyện của một tâm hồn, Noi gương Chúa Kitô … Họ xem video trên internet và khám phá thánh lễ và cầu nguyện. Dần dần hai vợ chồng tương lai nếm niềm vui trở thành “người giữ đạo .” Thời gian cầu nguyện của họ tăng dần từ tuần này qua tuần khác. Họ quyết định sống bảy tháng chuẩn bị hôn nhân trong khiết tịnh. Họ cùng tiết lộ với báo Aleteia: “Khiết tịnh chắc chắn là khó, nhưng đồng thời chúng tôi thấy hiệp thông với ý Chúa là niềm vui để chúng tôi dâng hy sinh này cho Ngài. Với thời gian, chúng tôi nhận ra chúng tôi càng ngày càng gần nhau như anh em thật sự .”
“Yann et Pauline: Họ trao đổi các suy nghĩ với nhau, họ giúp nhau tiến bộ, khám phá Chúa qua các sự kiện mỗi ngày. Chúa ở trong tất cả những gì mình làm cho nhau. Sự hài hòa giữa chúng tôi là kết quả tuyệt vời của cố gắng này .”
Đám cưới của họ tổ chức ngày 7 tháng 7 năm 2018, Yann và Pauline có cảm tưởng cả thiên cung hát và bay chung quanh họ. Niềm vui trọn vẹn: lời chúc lành của Chúa cho sự kết hiệp của họ là đá tảng cho tình yêu của hai người. Một năm sau, họ cùng nói hôn nhân của họ là lời kêu gọi trở nên thánh. Một trường học thánh thiện đáng kinh ngạc, trường học của tha thứ, bác ái, khiêm nhường. Cả hai thổ lộ: “Chúng tôi trao đổi suy nghĩ với nhau, giúp nhau tiến bộ, khám phá Chúa qua các sự kiện mỗi ngày .” Từ đâu có sự trau dồi này? “Chúa ở trong tất cả những gì mình làm cho nhau. Sự hài hòa giữa chúng tôi là kết quả tuyệt vời của cố gắng này .” Họ nói thêm: “Đó là những gì thúc đẩy chúng tôi tha thứ cho nhau ngay lập tức, cho nhiều hơn ngay lập tức. Thật ra mỗi hành vi tình yêu làm cho người mình yêu thương là hành vi tình yêu cho Chúa .”
Ân sủng
Dĩ nhiên, như trong tất cả các cặp vợ chồng, Yann và Pauline cũng trải qua những giây phút khó khăn, đôi khi cuộc chiến rất gay go. Bao nhiêu là dịp để họ thấy họ “khốn khổ, yếu đuối, bị tổn thương”, cũng như bao nhiêu dịp họ cảm thấy mình “trần trụi và khốn khổ” trước mặt Chúa. Họ cho biết, Chúa Giêsu đặc biệt quan tâm đến họ trong những giây phút này. Nhưng với một nguyên tắc: phải trong sáng trước mặt Ngài, kiên trì bám trụ chờ cơn bão trôi qua .”
Yann và Pauline làm chứng: “Với Chúa Giêsu, mối quan hệ của chúng tôi sống động”, hai lời chứng xinh đẹp, cảm động, tài năng và hiếm có. Trước khi từ giã hai người, chúng tôi có câu hỏi cuối cùng. Ở nơi nào họ tìm thấy sức mạnh và niềm vui sống lây lan như vậy? Hai người cùng có một câu trả lời: “Chúa Giêsu”.
Marta An Nguyễn dịch