2020
Nên thánh đối với Giới trí thức và sinh viên
THƯ MỤC VỤ TỔNG GIÁO PHẬN HÀ NỘI
CHỦ ĐỀ THÁNG 9/2020
NÊN THÁNH ĐỐI VỚI GIỚI TRÍ THỨC VÀ SINH VIÊN
Lời mời gọi nên thánh được gửi đến cho tất cả mọi người. Không chỉ là lời mời gọi, nên thánh còn là một bổn phận đối với các Kitô hữu, tức là những ai đã được phúc lãnh nhận ơn Thánh Tẩy. Trước mặt Chúa, không có sự phân biệt trí thức với bình dân; giàu với nghèo; thành phố hay nông thôn; da trắng hay da màu. Tất cả đều là con cái của Thiên Chúa, có cùng một Đức tin và một ơn gọi nên thánh.
Theo chương trình mục vụ của Tổng Giáo phận, trong tháng Chín dương lịch, chúng ta cầu nguyện cho ơn nên thánh của giới trí thức và sinh viên. Xin cho họ nỗ lực sống đức tin trong hành trình kiếm tìm Thiên Chúa là nguồn của Chân, Thiện, Mỹ. Tìm kiếm cái Đẹp, cái Thật và cái Tốt, là tìm kiếm chính Thiên Chúa. Cuộc tìm kiếm Chân lý cũng là hành trình Đức tin. Thiên Chúa sẵn sàng tỏ mình cho những tâm hồn kiếm tìm Ngài. Những ai thành tâm đến với Chúa sẽ được gặp gỡ Ngài. Tìm kiếm Chúa cũng là một say mê, như người lái buôn phát hiện ra giá trị của viên ngọc quý, về bán mọi sự để mua bằng được viên ngọc ấy. Người trí thức khi đã gặp Chúa, sẽ say mê Ngài, như chàng thanh niên Augustinô đã thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Sau một thời hoang đàng, chàng thanh niên ấy cuối cùng cũng gặp được Chúa và cảm thấy hối tiếc: “Lạy Chúa, con đã yêu Ngài quá muộn. Ôi vẻ đẹp của ngàn xưa, một vẻ đẹp mỗi ngày mỗi mới”.
1- Một thực tế đáng lo ngại
Một thực tế trong xã hội miền Bắc của chúng ta, sau nhiều thập kỷ thiếu vắng linh mục và việc dạy giáo lý, nhiều tín hữu không có nền tảng Đức tin. Họ giữ Đạo theo kiểu “Đạo làng” tức là sinh ra và lớn lên trong một thôn làng, thế hệ trước dạy thế hệ sau, chỉ biết làm Dấu Thánh giá và một số kinh “chiều hôm ban sáng”, ít có điều kiện học giáo lý. Chính vì vậy, khi rời thôn làng để đi học đại học, đi bộ đội, công nhân hoặc tìm kiếm việc làm ở các đô thị, họ không còn trong một không gian làng xóm nữa, Đức tin vì thế mà mai một. Nhất là những trường hợp tiếp cận với những tuyên truyền vô thần hoặc những lý thuyết chống tôn giáo, những người trẻ này dễ mất Đức tin. Họ dễ dàng bỏ những thực hành đạo đức truyền thống mà họ được cha mẹ dạy từ khi còn nhỏ trong gia đình.
2- Một tín hiệu đáng vui mừng
Xã hội chính trị của Việt Nam theo chủ trương vô thần. Trong nhiều thập kỷ qua, nhất là thời bao cấp ở miền Bắc, những người tín hữu Công giáo chịu nhiều thiệt thòi. Nhiều bác sĩ, giáo viên, doanh nhân hay nhà khoa học, dù là người Công giáo, không dám công khai tuyên xưng Đức tin. Bởi lẽ hai chữ “Công giáo” có thể gây nhiều hệ lụy. Sự phân biệt kỳ thị này, hiện nay đã bớt rất nhiều. Giới trí thức Công giáo đang đóng góp tích cực phần mình để phát triển xã hội trong nhiều lãnh vực. Có rất nhiều bác sĩ, giáo viên và doanh nhân Công giáo thành đạt và có uy tín trong các lãnh vực chuyên môn. Nhiều người trong họ công khai thực hành Đức tin. Nhiều người Công giáo cũng là những chuyên viên trong các ngành kiến trúc, hội hoạ, âm nhạc, văn chương. Các nhà trẻ mầm non do các nữ tu đảm trách đều đạt chất lượng giáo dục tốt, nhiều người dân tín nhiệm. Có nhiều vị cán bộ gửi con vào các trường này. Đây là tín hiệu vui cho thấy những rào cản của thành kiến đang bớt dần và hiệu quả giáo dục Công giáo được nhiều người công nhận.
3- Đức tin và Lý trí
“Đức tin và Lý trí là như đôi cánh giúp cho trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm chân lý”. Đó là câu mở đầu của Thông điệp mang tên “Đức tin và lý trí – Fides et Ratio” do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố ngày 14-9-1998. Lời khẳng định này đã nêu rõ quan điểm của Giáo Hội về lý trí, đồng thời xóa đi mọi hiểu lầm về vấn đề này. Trong quan niệm thông thường, người ta cho rằng tôn giáo nói chung chỉ dành cho giới bình dân và người ít học. Nhiều người thiếu thiện cảm với Giáo Hội Công giáo lập luận rằng Đức tin vào Thiên Chúa chỉ tồn tại bao lâu con người còn ở trình độ văn hóa thấp kém. Họ so sánh Đức tin như lớp mây mù, lý trí là ánh sáng mặt trời. Đức tin chỉ tồn tại khi con người kém hiểu biết, cũng như đám mây mù chỉ bao phủ khi mặt trời chưa mọc lên. Một khi đã có ánh sáng mặt trời soi chiếu thì lớp mây mù tất yếu sẽ phải tan đi. Thực tế chứng minh, những quan điểm này là phiến diện, xuất phát từ thành kiến và hiểu biết lệch lạc về tôn giáo nói chung và công giáo nói riêng.
Khi khẳng định: “Đức tin và Lý trí như đôi cánh giúp cho trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm Chân lý”, con người được diễn tả như một con chim đang vươn mình lên cao. Con chim một cánh sẽ không thể bay được. Con người không thể khám phá chân lý nếu chỉ có riêng Đức tin hay chỉ có lý trí mà thôi. Cuộc sống con người là một cuộc kiếm tìm chân lý. Lý trí sẽ giúp cho con người đạt tới Chân lý và Đức tin giúp con người gặp gỡ Đấng Tối cao. Đấng Tối cao trong Đức tin của người Kitô hữu chính là Thiên Chúa, là Đấng Giàu lòng thương xót và là Cha yêu thương hết thảy mọi người. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể đã mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa Cha, đồng thời mời gọi chúng ta hãy sống tình con thảo với Chúa Cha và tình huynh đệ với anh chị em, không phân biệt chủng tộc hay ngôn ngữ. Ngài yêu thương mọi người và muốn cho họ được hạnh phúc.
Lý trí giúp con người thấu đạt Chân lý. Vì vậy, trong tiến trình huấn luyện tại các Đại Chủng viện, các chủng sinh phải học Triết học trước khi học Thần học. Thánh Gioan Phaolô II viết trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 52: “Triết học đóng góp rất nhiều để giúp ứng sinh làm giàu việc đào tạo trí thức nhằm đạt tới sự “suy tôn chân lý”, nghĩa là một sự bái phục chân lý với tâm tình trìu mến dẫn đến chỗ nhìn nhận rằng chân lý tự nó không hề được tạo nên hoặc được khuôn đúc do con người nhưng được ban cho con người do bởi Chân lý tối thượng, bởi Thiên Chúa; rằng lý trí con người, mặc dầu bị hạn chế và đôi khi rất khó khăn, có thể đạt tới chân lý khách quan và phổ quát, là chân lý liên quan tới Thiên Chúa và tới ý nghĩa căn cơ của hiện hữu; sau hết, rằng đức tin tự nó không thể loại bỏ lý trí hoặc miễn trừ nỗ lực “suy tư” về những gì đức tin chất chứa, như lời dẫn giải của một đầu óc xuất chúng là thánh Augustinô: “Tôi đã khao khát dùng trí thông minh để dò tìm điều mà tôi đã đặt niềm tin tôi vào, tôi đã bàn cãi nhiều và tôi đã cực nhọc không ít”.
4- Đức tin và Khoa học
Do chính bản chất của nó, Đức tin nằm ở một bình diện khác hẳn so với khoa học. Đức tin không dựa trên cơ sở xác minh của thí nghiệm theo kiểu khoa học, không phát nguyên từ những tư biện lý tính, và cũng không phải là một chuỗi luận đề giản lược đọc thấy trong Kinh Tin Kính. Đức tin, trước hết là thái độ gắn bó đối với một Đấng, là tâm tình phó thác vào trong tay Một Vị, là cuộc dấn thân của chính cá nhân mình cho Ngài.
Đối tượng của Đức tin chính là Thiên Chúa, Đấng đã tự mạc khải mình ra. Người biết mở lòng ra để tin, thì sẽ đón nhận được sứ điệp của Ngài, với niềm hy vọng là trong sứ điệp ấy, mình sẽ tìm gặp được ý nghĩa cho đời của mình. Nếu biết dấn bước vào trong con đường Ngài vạch cho, nếu biết sống kinh nghiệm Đức tin, thì lúc đó, người có lòng tin sẽ xác tín cảm nghiệm được là mình đang sống trong Chân lý.
Từ đâu mà có được niềm xác tín thâm sâu ấy? Từ uy tín của Đấng mạc khải. Chính Thiên Chúa đã nói với con người những gì con người tin. Đó chính là một thể dạng của xác thực tính, nhưng là thuộc một loại khác với xác thực tính của khoa học; cả hai loại đều đặt nền móng trên những kinh nghiệm, nhưng những kinh nghiệm này cũng thuộc những thể loại khác nhau.
Theo một cách nói thông dụng, thì khoa học lo nghiên cứu về các hiện tượng (vật lý, hóa học, sinh học…) để cố trả lời cho nghi vấn thế nào về các sự vật; khoa học không thể có ý kiến về ý nghĩa của các sự vật. Đức tin có một đối tượng khác hẳn: Đức tin lo tìm hiểu về Thiên Chúa và về những gì Ngài nói với con người nhằm giúp con người đạt tới được tiêu đích của đời mình. Đức tin vén mở cho thấy ý nghĩa của các sự vật; khoa học không làm được như thế. Vì lãnh vực của khoa học thuộc phạm vi của thế nào, chứ không phải của tại sao, tức là thuộc phạm vị của cơ chế các hiện tượng, chứ không thuộc phạm vi của ý nghĩa chúng hàm súc.
Nếu đã rõ là hai loại hiểu biết ấy nằm ở hai bình diện khác nhau, thế tất cũng sẽ hiểu là không thể có chuyện những gì khoa học minh xác lại đụng đầu đối nghịch với những gì Đức tin khẳng định và ngược lại” (Trích bài viết của Jean-Marie Moretti, SJ, mang tựa đề Science et Foi, được đăng trên Tuyền tập Thần học tiếng Việt số 8, năm 1993).
5- Những nhà khoa học đồng thời là tín hữu
Lịch sử Giáo Hội ghi nhận nhiều nhà khoa học, đồng thời cũng là người có Đức tin. Chúng ta dẫn chứng một vài vị dưới đây:
– Blaise Pascal, Thần đồng toán học và vật lý. Người có câu nói bất hủ: “Khoa học nông cạn làm cho người ta xa Thiên Chúa. Khoa học tinh vi làm cho người ta gần Thiên Chúa”. Và ông cũng đã kết luận: “Con người chỉ là cây sậy biết tư duy.”
– Isaac Newton, Nhà khoa học và toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại.
– René Descartes, Nhà bác học về Hình học và Những con số bất biến. Người hướng dẫn cuộc Cách Mạng Khoa học của phương Tây.
– Anton Maria Schyrleus of Rheita, Nhà thiên văn học, đã dâng hiến công trình của mình cho Đức Trinh nữ Maria.
– Louis Pasteur, Người sáng chế ra phương pháp khử trùng, nhà hóa học, và vi khuẩn học, đã giải trừ vấn nạn của bệnh chó dại, và người đầu tiên tạo ra việc tiêm Vaccine phòng bệnh.
– George Jackson Mivart, Hàn Lâm về Thực Vật Học
– Georges Lemaitre, Linh mục và là người khai phá ra thuyết Big Bang.
Trên đây chỉ là trích dẫn một số ít các nhà khoa học tiêu biểu để chứng minh rằng, một người có Đức tin vẫn có thể là một nhà khoa học. Đức tin và lý trí bổ túc cho nhau trong hành trình kiếm tìm Chân lý. Một thống kê đã cho kết quả: 92% những nhà khoa học thế kỷ 19 là người Kitô hữu. Trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều vị thánh đồng thời cũng là những nhà trí thức uyên thâm như Thánh Thomas Aquinô, Thánh Augustinô, Thánh Alfonso de Liguori.
6- Lời mời gọi giới trí thức và sinh viên nên thánh
Bạn đừng sợ nên thánh. Sự thánh thiện không tước đi năng lực, sức sống hay niềm vui của bạn. Trái lại, bạn sẽ trở thành điều mà Chúa Cha nhắm đến khi tạo nên bạn, và bạn sẽ trung thành với bản ngã sâu xa nhất của mình. Việc ta phụ thuộc vào Thiên Chúa sẽ giải phóng ta khỏi mọi hình thức nô lệ và giúp ta nhận ra phẩm giá cao cả của mình.
“Làm gì để trở thành người Công Giáo trí thức” là mối bận tâm của các chủ chăn trong Giáo Hội bởi người trí thức chính là hào quang của Giáo Hội. Mối bận tâm này được thánh Phaolô chia sẻ: từ ngày chúng tôi nghe biết về anh em, chúng tôi không ngừng cầu nguyện và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho (Cl 1,9). Thiết tưởng, nếu các bạn am tường thánh ý Người dưới sự hướng dẫn của Thần Khí, hội tụ cả Đức Tin và Lý Trí, các bạn sẽ có cơ hội tốt để mách nước cho bè bạn không cùng niềm tin rằng: khi các bạn đang miệt mài đi tìm sự khôn ngoan, và đi tới cùng sự khôn ngoan ấy, các bạn sẽ chạm tới cội nguồn chân lý là chính Thiên Chúa.
Là sinh viên Công Giáo, các bạn nên tự hào và dấn bước bởi sứ mạng của các bạn trong thế giới hôm nay là làm sao để người thời đại thấy được sự vượt trội về sự thánh thiện, tốt lành, công bằng, bác ái… khi ấy, chắc hẳn, người đời cũng phải trầm trồ rằng: đúng là các bạn có đạo ngoan hiền, tử tế, thật thà, đoàn kết, hòa đồng, sống thật tốt, chơi thật đẹp. Tuy nhiên, trong thế giới hôm nay, người sinh viên Công Giáo cần vượt trội về tri thức nữa. Trong thế giới phẳng hiện nay, người ta rất tôn trọng năng lực và tài giỏi, nghĩa là phẩm chất. Để trả lời cho các vấn nạn của con người, có thiện chí quảng đại thôi tự nó vẫn chưa đủ, trừ phi có kèm theo những hiểu biết và những kỹ thuật thích hợp giúp chúng ta hiểu các hiện tượng văn hóa đang ảnh hưởng tới đời sống hiện nay, và các Kitô hữu còn cần khả năng đối phó với những hiện tượng ấy bằng sự hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn về mầu nhiệm Đức Kitô.
Như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định: Đức tin và lý trí là đôi cánh giúp cho trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm chân lý”. Người công giáo không tách rời lý trí với Đức tin, đồng thời xác định hai khía cạnh này không hề mâu thuẫn. Việc trau dồi kiến thức cần phải đi đôi với những thực hành đức tin, tức là lắng nghe lời Chúa, cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận thường xuyên các bí tích. Như thế, người trí thức sẽ được phát triển toàn diện, quân bình. Nhờ Đức tin vững vàng, họ sẽ nhận ra Thiên Chúa hiện hữu trong cuộc đời và Ngài là nguyên lý của mọi sự mọi loài. Hãy chứng minh mình là một nhà trí thức đồng thời cũng là một tín hữu.
Cuối cùng, anh chị em trí thức và sinh viên không phải là người khách lạ qua đường, nhưng là thành viên của Tổng Giáo phận. Anh Chị em được mời gọi gắn bó và tham gia nhiệt thành vào đời sống Đức tin của giáo xứ, như tham gia các hội đoàn đạo đức, các phong trào tông đồ giáo dân hoặc những việc từ thiện bác ái tuỳ theo khả năng của mình. Những hoạt động tông đồ này mang lại nhiều hiệu quả tích cực cho công cuộc truyền giáo. Là người có kiến thức, anh chị em sẽ dễ dàng trình bày về Đức tin và niềm hy vọng Kitô giáo cho những người không cùng niềm tin với chúng ta.
Tháng Chín cũng là thời điểm khai giảng năm học mới. Với đại dịch viêm phổi Vũ Hán (Covid-19), chắc chắn đây sẽ một năm học nhiều khó khăn và thách thức. Tuy vậy, nếu biết cố gắng, chuyên cần, các bạn sẽ đạt được những kết quả tốt. Tôi muốn nhắc lại với các bạn lời Đấng Đáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: “Học để biết. Học để canh tân. Học để phục vụ. Học để yêu mến. Chưa học để phục vụ đúng mức, con chưa mến Chúa đủ.” Khi xác định việc học hành dẫn ta đến phục vụ tha nhân và yêu mến Chúa, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm hứng khởi và say mê, để không ngừng tiến bước trong hành trình phát triển trí tuệ.
Kết luận
Anh chị em đừng sợ hướng nhìn cao hơn, cho phép Thiên Chúa yêu thương và giải phóng chúng ta. Đừng sợ để mình được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Sự thánh thiện không làm cho chúng ta ít là người hơn, vì đó là một gặp gỡ giữa sự yếu đuối của chúng ta và sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa, vì như cách nói của Léon Bloy, rốt cục, “bi kịch thảm hại duy nhất trong đời sống, đó là không nên thánh”.
Hà Nội, đầu mùa Thu 2020
+Giuse Vũ Văn Thiên
Tổng Giám mục Hà Nội.
2020
Kitô hữu – Người truyền lửa yêu thương của Chúa cho thế giới
Đức Giám mục GB. Bùi Tuần (Gp. Long Xuyên), trong bài viết có tựa đề “Trăn trở về cách giới thiệu Tin Mừng” đã chia sẻ như sau:
“Thực vậy, theo dõi thời sự những dấu chỉ về Nước Trời trong nhân loại nói chung và tại Việt Nam nói riêng, tôi nhận ra nhiều người tốt việc tốt trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh. Chân thiện mỹ không bị nhốt trong ranh giới một dân tộc, một tôn giáo, một nền văn hóa. Khắp nơi vẫn lấp lánh những gương sáng về những giá trị thiêng liêng cao cả, như khiêm nhường, bao dung, tinh thần trách nhiệm, chân thành, trung thực, bác ái, công bình, chiêm niệm, dũng cảm.
Và điều làm tôi ngỡ ngàng hơn cả, đó là con người thời nay không còn dễ được thuyết phục bởi những lý thuyết hứa hẹn, những hội nghị long trọng, những cuộc lễ lớn, những nghi thức và biểu tượng đẹp. Trái lại, yếu tố chinh phục họ nhất chính là những con người sống quyết liệt với những giá trị cao. Họ đi tìm những người như thế. Cái phao đời họ là những người như vậy.
Theo tôi, những người có giá trị cao hơn hết đang được đa số khâm phục chính là những ai luôn phấn đấu tự đào tạo nên người có bản lãnh, biết phân định thực hư, dám từ bỏ mình vì ích chung, đầy lửa thương cảm đối với con người, nhất là đối với kẻ nghèo khổ. Đôi khi tôi có cảm tưởng thứ tình yêu được tô luyện bằng hy sinh có một vận tốc thiêng liêng tựa như ánh sáng, và có thể tạo ra một thứ năng lượng tâm lý khổng lồ.
Chính những người mang lửa đó sẽ góp phần lớn trong việc đổi mới đất nước và Hội Thánh.”[1]
Mỗi Kitô hữu chúng ta là một phần tử của Hội thánh Chúa nên đều được ơn gọi chia sẻ sứ mệnh truyền giáo của Hội thánh vì bản chất của Hội thánh Chúa Kitô là truyền giáo (Vat II, AG 2).
Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh, truyền giáo là loan truyền tình thương của Thiên Chúa đến với con người.
Ngài nói: “Sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội cốt yếu là loan truyền tình yêu, lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa được mạc khải cho nhân loại qua cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đó chính là việc loan báo Tin Mừng: Thiên Chúa yêu chúng ta và muốn mọi dân tộc hiệp nhất trong lòng thương xót yêu thương của Người”[2]
Trong dịp khác, Đức thánh Giáo hoàng cũng nói rằng truyền giáo là chia sẻ quà tặng “Đức Giêsu Kitô” mà Giáo Hội nhận được.
Ngài nhấn mạnh, “Điều phân biệt Giáo Hội với những cộng đồng tôn giáo khác, đó là Giáo Hội tin vào Chúa Giêsu Kitô, và Giáo Hội không thể giấu ánh sáng quí báu đức tin dưới cái thùng (Mt 5,15), bởi Giáo Hội có sứ mạng chia sẻ ánh sáng đó với mọi người. Giáo Hội muốn dâng tặng đời sống mới Giáo Hội đã gặp được trong Chúa Giêsu Kitô, cho tất cả các dân tộc tại Á Châu, khi họ tìm kiếm sự viên mãn của sự sống, để họ có thể hiệp thông với Chúa Cha và Con Người là Chúa Giêsu Kitô trong quyền năng Chúa Thánh Thần”.[3]
Vậy có thể nói rằng, Kitô hữu chúng ta là người có sứ mệnh đem lửa đến trong thế giới mà mình đang sống. Đây là lửa yêu thương, lửa đồng cảm, lửa huynh đệ, lửa tha thứ, lửa chia sẻ, lửa ủi an, lửa hòa bình, lửa tin tưởng, lửa hi vọng, lửa hiệp thông…
Trong thế giới đầy bất an vì hận thù, chia rẽ và tội ác, người Kitô cần mạnh dạn sống và làm chứng Tin Mừng bằng cách biết nói không với vô cảm, biết đem đạo vào đời và hết lòng thực thi bác ái, vì bác ái là một thứ ngôn ngữ đặc thù của việc loan báo Tin Mừng.
1- KITÔ HỮU – NGƯỜI BIẾT NÓI KHÔNG VỚI VÔ CẢM
Ngày nay, khái niệm “Vô cảm” đã trở nên quá quen thuộc đối với mỗi người trong chúng ta. Thông tin báo chí, mạng xã hội đăng tải thường xuyên những câu chuyện về thái độ vô tâm và vô cảm của con người. Vô cảm đã trở thành căn bệnh nghiêm trọng, có sức lây lan mạnh mẽ trong gia đình, trong khu xóm và trong cộng đồng xã hội.
Một bài báo có tựa đề “Căn bệnh vô cảm trong xã hội hiện nay”, tác giả đã viết như sau: “Bệnh vô cảm là căn bệnh tâm hồn của những người có trái tim lạnh giá, không xúc động, sống ích kỷ, lạnh lùng. Họ thờ ơ, làm ngơ trước những điều xấu xa, hoặc nỗi bất hạnh, không may của những người sống xung quanh mình.
Hầu như căn bệnh này ngày càng phát triển nhanh chóng hơn, bởi cuộc sống quá hiện đại, đồng tiền được đưa lên hàng dẫn đầu, lợi ích cá nhân chứ không còn lợi ích của tập thể nữa. Họ thờ ơ với cảm xúc của họ, với những cái đẹp-xấu, thiện-ác, với các hoàn cảnh khó khăn cần được giúp đỡ. Không đâu xa, thậm chí ngay cả trong gia đình họ hàng còn vô cảm với chính những người thân ruột thịt của họ. Thử hỏi những việc nhỏ nhặt như thế họ còn không để tâm đến thì lấy đâu mà bỏ thời gian công sức của bản thân đi lo lắng những việc tưởng chừng như cao cả nhưng lại rất đỗi giản đơn.”[4]
Người Kitô hữu chúng ta, nếu không khôn ngoan và tỉnh thức, thì cũng dễ rơi vào tình trạng nhiễm bệnh vô cảm một cách mãn tính, tức là khó chữa, khó sửa, khó nhận ra. Ở trong gia đình, con cái vô tâm với cha mẹ, vợ chồng lạnh nhạt với nhau, ông bà cha mẹ không quan tâm tới con cháu. Trong cộng đoàn, chúng ta coi nhau như người dưng nước lã, trong khi Lời Chúa và Hội thánh thì nhắc nhở chúng ta là chi thể trong cùng một Thân Thể thuộc về đầu là Đức Kitô. Trong xã hội, chúng ta dửng dưng trước mọi biến cố, mọi tai họa, mọi đổi thay, mọi đe dọa, mọi bất công, mọi bất hạnh… làm như thể chúng ta là “người ngoài hành tinh” rơi xuống vậy!
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 14-7-2019, dựa trên đoạn Tin Mừng về người Samari nhân hậu, Đức thánh cha Phanxicô đã đề cao tấm gương của lòng thương xót của người Samari này và mời gọi các tín hữu hãy trở nên môn đệ của Chúa qua việc yêu thương anh em, vì yêu tha nhân là yêu Chúa.
Đức thánh cha cũng đã nhắc các tín hữu đừng để mình bị sự vô cảm ích kỷ lôi kéo. Ngài nói: “Nếu bạn đứng trước một người hoạn nạn mà bạn không có lòng thương xót, nếu trái tim bạn không rung động, thì có nghĩa là có điều gì đó không ổn. Bạn hãy chú ý, chúng ta phải để ý. Đừng để chúng ta bị sự vô cảm ích kỷ lôi kéo. Khả năng thương xót trở thành hòn đá thử vàng của Kitô hữu, đó là giáo huấn của Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là lòng trắc ẩn của Chúa Cha đối với chúng ta. Nếu bạn đi xuống phố và thấy một người đàn ông vô gia cư đang nằm đó, và bạn đi qua mà không hề nhìn anh ta, hoặc có lẽ bạn nghĩ: “Chà, tác dụng của rượu. Một người say rượu”. Đừng tự hỏi xem người đàn ông đó có say không; hãy tự hỏi xem trái tim bạn có bị chai cứng không, trái tim bạn có trở thành băng giá không.”[5]
Linh mục Giuse Nguyễn Trọng Viễn OP, trong bài viết có tựa “Vô cảm!”, đã chia sẻ như sau:
“Trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà con người ngày càng ít yêu thương nhau, ít quan tâm đến nhau và sâu xa hơn đó là hiện tượng đui mù và câm điếc trước nỗi đau của đồng loại.
Ngày nay, vô cảm dường như đã trở thành một căn bệnh âm ỉ và nhức nhối của xã hội, đồng thời có sức lây nhiễm cao vì nó đang len lỏi từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội, căn bệnh này không chỉ đơn thuần tồn tại trong một tầng lớp nào nhưng đã trở thành căn bệnh của quần chúng hay có thể nói đó là mặt trái của lối sống hiện đại.
Có rất nhiều lý do để giải thích cho thái độ dửng dưng vô cảm, một trong những lý do của căn bệnh này xuất phát từ tâm lý “sợ”. Sợ cái ác, sợ kẻ gian, sợ trách nhiệm, sợ liên lụy đến bản thân, sợ bị lừa đảo vv… Vô cảm còn là hậu quả của lối sống thực dụng, đề cao chủ nghĩa vật chất và lợi ích cá nhân theo kiểu “không phải chuyện của tôi” ngày càng bám rễ sâu vào hệ tư tưởng của con người ngày nay.
Nhưng thật ra, mầm mống sâu xa của căn bệnh vô cảm chính là cách giáo dục từ trong gia đình. Không ít bậc cha mẹ dạy con theo kiểu triết lý “makeno” (mặc kệ nó) để tránh dính dáng đến người khác, tránh liên lụy bản thân. Triết lý sống này cũng được người lớn áp dụng trong cách cư xử với nhau để được an toàn, thậm chí còn tồn tại thứ “vô cảm thấp hèn” lợi dụng tai họa của người khác để trục lợi cho bản thân. Gần đây, tình trạng “hôi của” trong nhiều vụ tai nạn đã xảy ra cách công khai. Một số người chẳng những không giúp đỡ mà còn lợi dụng cảnh hỗn loạn sau tai nạn để xông vào nhặt ví tiền, tư trang, túi xách… của nạn nhân.
Ngoài ra, bệnh vô cảm còn xuất phát từ nhiều nguyên nhân tương tác lẫn nhau trong xã hội. Trong xã hội hiện đại con người sống quá lý trí, tương quan giữa người với người ngày càng được chuẩn hoá, mọi vấn đề phải được giải quyết rõ ràng, nhưng đôi khi cái lý có thể lấn át cả cái tình. Mặt khác, nếu con người sống trong một xã hội không có một trật tự đúng đắn, họ nhận thấy sự hiện diện cũng như công việc của mình có thể bị đe doạ, thì mỗi cá nhân sẽ hình thành bản lĩnh đối phó và bộc lộ khuynh hướng ích kỷ tiềm tàng. Từ đó tạo điều kiện dung dưỡng căn bệnh vô cảm.
Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong thông điệp “Thiên Chúa Giàu Lòng Từ Bi Thương Xót” đã nói rằng : “Có một danh hiệu thứ hai của Tình yêu, đó là lòng nhân hậu (từ bi thương xót). Vì lòng nhân từ là chiều kích không thể thiếu của tình yêu; nó như là danh hiệu thứ hai của tình yêu”.”[6]
Đạo của Chúa là đạo yêu, do đó bất cứ trong hoàn cảnh nào, người Kitô hữu cũng phải biết nói “Không” với thái độ và lối sống vô cảm. Đại thi hào Voltaire đã nói: “Thiên đàng được tạo ra cho những trái tim nhân hậu, địa ngục được tạo ra cho những trái tim vô cảm”.
2- KITÔ HỮU – CHỨNG NHÂN TIÊU BIỂU CỦA LÒNG MẾN KITÔ GIÁO
Cách đây ít lâu, trên trang Tuổi Trẻ Online (TTO) có đăng bài “Ca đoàn vi vu khắp nơi để lan tỏa yêu thương”. Bài báo cho biết TP.HCM có một ca đoàn rất thú vị: bỏ tiền túi, cùng nhau tổ chức hàng trăm chuyến đi tới những nơi hẻo lánh, khó khăn nhất, không chỉ mang quà tặng mà còn mang tiếng hát xoa dịu nỗi vất vả, nhọc nhằn của những mảnh đời bất hạnh.
Đó là ca đoàn có cái tên khá đặc biệt: “Thông Vi Vu”- là nghệ danh của Đức cố Giám mục Phan Thiết Giuse Vũ Duy Thống. Ca đoàn do anh NLL, chồng của ca sĩ MT – thành viên nhóm tam ca Áo Trắng – làm đoàn trưởng.
Một đại diện của ca đoàn nói rằng, họ muốn mang đến không khí vui vẻ cho người nghèo khó, muốn xoa dịu sự vất vả, nhọc nhằn của họ, muốn trao tận tay món quà để yên tâm nên mới chịu cực đến tận nơi. Làm thiện nguyện không phải đơn giản cứ móc tiền ra là được. Phải gửi tới được những người thực sự cần thì đồng tiền mình giúp mới ý nghĩa.
Được biết, cho đến nay, ca đoàn đã thực hiện hơn trăm chuyến đi đến những nơi thiệt thòi nhất.
Ca đoàn hiện có hơn trăm ca viên. Đặc biệt, trong số các thành viên có những người của tôn giáo bạn: Phật giáo, Cao Đài… Ca đoàn quy tụ nhiều thành phần gồm doanh nhân, công nhân, công chức, giáo viên, bác sĩ và những bạn sinh viên… Và hiện có hơn 20 thành viên đang sinh sống ở nước ngoài, không còn sinh hoạt nhưng vẫn theo dõi các hoạt động của ca đoàn, thường xuyên ủng hộ vật chất mỗi khi ca đoàn có chuyến đi thiện nguyện vùng sâu vùng xa.
Mỗi tháng, các thành viên tự nguyện đóng vào quỹ sinh hoạt bác ái hai trăm nghìn đồng. Nhờ nguồn tiền ấy, đã có hơn trăm chuyến đi trong suốt nhiều năm qua tới những vùng hẻo lánh, khó khăn nhất của đất nước không chỉ để hát thánh ca mà còn kết hợp làm việc bác ái xã hội.
Có những nơi, từ nhà thờ lên các buôn làng, mọi người phải đi bộ tiếp hàng tiếng đồng hồ. Đường đồi núi lại sình lầy, trơn trượt. Mọi người phải chuyền tay nhau từng thùng quà suốt đoạn đường dài mấy kilomet. Ngoài ra, ca đoàn còn tổ chức các buổi phát thuốc, khám chữa bệnh miễn phí và hớt tóc cho các bé trong buôn làng.
Anh đoàn trưởng ca đoàn đã tâm sự: “Tôi xuất thân từ một đứa trẻ đường phố, thấu hiểu được nỗi xót xa đau khổ của sự thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, đã từng ước mơ và khao khát có ai đó quan tâm đến mình dù chỉ là một lời an ủi hay một mẩu bánh thừa, may mắn là bây giờ tôi đã tìm được những người anh em đồng cảm với mình để cùng tạo niềm vui cho nhau qua những việc làm sẻ chia với những mảnh đời bất hạnh hơn mình”.[7]
Quả thực, các thành viên trong ca đoàn kể trên đã là những chứng nhân tiêu biểu của lòng mến Kitô giáo. Hát thánh ca cũng là phục vụ, nhưng làm việc thiện nguyện càng làm nỗi vượt sứ mệnh của người Kitô hữu, đó là làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nhiệm vụ truyền giáo của mỗi người chúng ta.
Chúng ta biết rằng một trong những cách thức hiệu quả nhất của việc truyền giáo bằng đời sống chứng tá, đó chính là nêu gương đời sống bác ái.
Truyền giáo bằng những việc làm cụ thể, bằng chính đời sống bác ái của mỗi người chúng ta. Chúng ta đến thăm viếng những người già, người nghèo, người đau khổ, người bị bỏ rơi trong xã hội. Chúng ta giúp đỡ họ, an ủi họ. Qua những việc làm cụ thể, họ nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô. Bởi vì, lời nói lung lay, gương lành lôi cuốn. Những hành vi bác ái cụ thể là những bài giảng hùng hồn nhất về Thiên Chúa. Đây là cách thức truyền giáo hiệu quả nhất.
Ngạn ngữ La-tinh có câu “Amor vincit omnia”, nghĩa là lòng yêu mến/ tình yêu chiến thắng tất cả. Thánh sử Gio-an đã nhấn mạnh về mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương nhân loại: “Ngài yêu thương họ đến cùng” (Ga 13, 1).
Yêu đến hơi thở cuối cùng, yêu đến nỗi chấp nhận hủy mình ra không, yêu mà không còn giữ lại cái gì cho mình kể cả mạng sống, yêu tuyệt đối và tận cùng…không có tình yêu nào lớn hơn!
Khi dịch Covid-19 xảy ra (khoảng tháng 12-2019), rất nhiều người trong chúng ta hoảng sợ, chạy trốn vì nó quá kinh khủng, nó lây lan rất nhanh, từ người qua người và tỷ lệ tử vong cao. Tuy nhiên không phải ai cũng lo sợ và chạy trốn nó.
Theo tin cho biết, tính đến ngày 15-4-2020, ước tính có 109 linh mục ở Ý đã chết vì Covid-19, nhiều vị trong số đó đã bị nhiễm virus từ những bệnh nhân mà các ngài phục vụ.
Trong Thánh Lễ Tiệc Ly chiều Thứ Năm Tuần Thánh năm 2020, Đức thánh cha Phanxicô đã tôn vinh các linh mục này như “những vị thánh” bên cạnh chúng ta.
Theo tờ New York Times, các linh mục và tu sĩ, “đặc biệt là các vị ở những khu vực bị nhiễm virus corona nặng như Bergamo, đã mạo hiểm cuộc sống của họ, để đáp ứng nhu cầu tâm linh cho các tín hữu sùng đạo và lớn tuổi, vốn bị virus corona tấn công mạnh nhất”.
Chỉ riêng Giáo phận Bergamo đã mất 24 linh mục trong vòng 20 ngày. Khoảng một nửa trong số đó là các linh mục đã nghỉ hưu, nửa còn lại là các linh mục đang hoạt động. Số linh mục còn sống vẫn tiếp tục mục vụ chăm sóc cho các bệnh nhân. Theo tờ Times, các linh mục này “buồn lòng vì không thể đến gần các bệnh nhân, buồn vì thấy cảm giác cuối cùng mà người tín hữu cảm nhận được là một cái chạm với đôi găng tay, và buồn vì gương mặt cuối cùng mà các bệnh nhân nhìn được là gương mặt trong điện thoại”. Cũng theo báo Times, “Virus corona đã tách biệt vợ chồng, con cái trong một gia đình, rồi giết chết họ. Vì thế, các linh mục này rất đau đớn khi phải xa cách đàn chiên trong lúc các con chiên đang rất cần các ngài”.
Đức Giám mục của Bergamo, Francesco Beschi, cho biết: “Rất nhiều linh mục đã chấp nhận nguy hiểm để gần gũi với đàn chiên của mình. Con số lớn các linh mục bị nhiễm virus là một dấu chứng rõ ràng của sự gần gũi, của sự chia sẻ trong đau khổ với đàn chiên”.
Avvenire, tờ báo chính thức của các giám mục Ý, đã xác định một số đặc điểm chung của các linh mục đã chết như sau:
“Hầu hết các linh mục đã chết do nhiễm virus corona là vì các ngài vẫn ở giữa mọi người thay vì tự cứu chính mình. Các ngài cố gắng ở lại lâu dài với đàn chiên để phục vụ như những người gìn giữ các ký ức được chia sẻ, đó là một sự tham dự vào dòng chảy của chứng tá và các giá trị qua các thế hệ”.
Sự hiện diện của các mục tử “thật quý giá và không thể thiếu, các tín hữu khám phá ra điều đó đặc biệt trong hoàn cảnh bị cách ly, và khi cái chết đã cướp đi khỏi họ những vị mục tử luôn chân tình, gần gũi và sẵn sàng hiến thân vì họ”.[8]
Những gương sáng về sự hy sinh quên mình phục vụ bất chấp sự nguy hiểm tột cùng của virus corona thì rất nhiều không sao kể hết. Bên cạnh những người mà chúng ta biết được, còn có rất nhiều tấm gương khác, đó là những người sống âm thầm, phục vụ âm thầm và chết âm thầm.
Quả thực, lòng mến đã không bị “cách ly” bởi dịch bệnh, như lời thánh Phaolô đã quả quyết: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8, 35) ./.
[1] GM GB. Bùi Tuần – Làm chứng cho Đức Ki-tô tới tận cùng trái đất – Long Xuyên năm 2000 trang 39-40
[2] Đức thánh GH Gioan Phaolô II – Sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2000, tại https://daminhtamhiep.net/2020/05/su-diep-cua-dtc-gioan-phaolo-ii-cho-ngay-the-gioi-truyen-giao-2000/, truy cập 31.8.2020
[3] Đức thánh GH Gioan Phaolô II – Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 10, tại https://vntaiwan.catholic.org.tw/thanhoc/achau1.htm, truy cập 31.8.2020
[4] “Căn bệnh vô cảm trong xã hội hiện nay”, tại https://wikicachlam.com/can-benh-vo-cam-trong-xa-hoi-hien-nay/, truy cập ngày 31.8.2020
[5] ĐTC Phanxicô, “Đừng để mình bị sự vô cảm, ích kỷ lôi kéo”, tại https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2019-07/dtc-phanxico-kinh-truyen-tin-samari-nhan-hau.html, truy cập ngày 31.8.2020
[6] Linh mục Nguyễn Trọng Viễn O.P., “Vô cảm”, tại http://conggiao.info/vo-cam-d-45223, truy cập ngày 31.8.2020
[7] My Lăng, Ca đoàn vi vu khắp nơi để lan tỏa yêu thương, https://tuoitre.vn/ca-doan-vi-vu-khap-noi-de-lan-toa-yeu-thuong-20200824085033072.htm, truy cập ngày 31.8.2020
[8] John Burger, “109 linh mục Ý chết vì virus corona”, tại https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/109-linh-muc-y-chet-vi-virus-corona-39681, truy cập ngày 31.8.2020
Aug. Trần Cao Khải
2020
Trốn chạy khỏi thập giá là “cớ vấp phạm”
Trốn chạy khỏi thập giá là “cớ vấp phạm”
Trưa Chúa nhật 30/8, từ cửa sổ Dinh Tông Tòa, Đức Thánh Cha đọc Kinh Truyền Tin với các tín hữu và khách hành hương. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha diễn giải ý nghĩa Tin Mừng Chúa nhật XXII thường niên năm A, về việc Chúa loan báo cuộc khổ nạn của Ngài và khiển trách Thánh Phêrô vì đã ngăn cản Ngài thực hiện Thánh ý Chúa Cha.
Không hiểu Chúa vì tư tưởng còn theo thế gian
Trước hết, Đức Thánh Cha nói đến sự nối kết Tin Mừng Chúa nhật XXII với Chúa nhật tuần trước: “Sau khi Thánh Phêrô đại diện các môn đệ tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa, thì chính Chúa Giêsu bắt đầu nói cho các ông biết cuộc khổ nạn của Ngài. Suốt hành trình tiến về Giêrusalem, Chúa giải thích cách công khai cho các bạn hữu những gì đang đợi Chúa ở thành thánh. Chúa loan báo trước mầu nhiệm chết và phục sinh, sỉ nhục và vinh quang của Ngài. Chúa nói Ngài sẽ ‘phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại’ (Mt 16,21). Nhưng các môn đệ không hiểu những lời Chúa nói với các ông, bởi vì đức tin của các ông chưa được trưởng thành và tâm trí của các ông còn theo thế gian. Các ông nghĩ về một chiến thắng quá trần tục, và vì thế các ông không hiểu ngôn ngữ của thập giá”.
Trốn chạy khỏi thập giá là ‘cớ vấp phạm’
Tiếp đến, Đức Thánh Cha nói về phản ứng của Thánh Phêrô trước những lời loan báo của Chúa Giêsu: “Trước viễn cảnh có thể xảy ra đối với Chúa về sự thất bại và cái chết trên thập giá, Thánh Phêrô tỏ thái độ phản đối: ‘Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!’” (Mt 16, 22). Đức Thánh Cha giải thích thái độ này của Thánh Phêrô: “Ông tin vào Chúa Giêsu, muốn theo Chúa, nhưng không chấp nhận vinh quang của Ngài qua cuộc khổ nạn. Đối với Thánh Phêrô và các môn đệ khác – nhưng cả chúng ta – thập giá là ‘cớ vấp phạm’, trong khi Chúa coi việc trốn chạy khỏi thập giá là ‘cớ vấp phạm’, nghĩa là trốn chạy khỏi ý Chúa Cha, khỏi sứ vụ mà Cha đã giao phó cho Ngài vì ơn cứu độ chúng ta. Vì điều này, Chúa trả lời Phêrô: ‘Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người’ (Mt 16,23)”.
Đức Thánh Cha nhận xét: “Mười phút trước đó, Chúa Giêsu khen ngợi và hứa làm cho Thánh Phêrô trở thành nền tảng của Giáo hội Ngài; mười phút sau Ngài gọi ông là Xatan. Làm sao chúng ta hiểu được điều này? Đây cũng là điều xảy đến cho tất cả chúng ta. Trong lúc sốt sắng, nhiệt thành chúng ta nhìn theo Chúa Giêsu và tiến bước; nhưng trong lúc chúng ta gặp thập giá, chúng ta chạy trốn. Chúa Giêsu nói Xatan cám dỗ chúng ta. Chính thần dữ, ma quỷ làm chúng ta rời xa thập giá.
Theo Chúa là từ bỏ chính mình và vác thập giá mình mà theo Ngài
Tới đây, hướng về tất cả, Chúa nói thêm: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Theo cách này, Chúa chỉ ra con đường dành cho các môn đệ, thể hiện qua hai thái độ. Trước tiên là ‘từ bỏ chính mình’. Điều này không có nghĩa là một sự thay đổi bên ngoài, nhưng là một sự hoán cải, một sự thay đổi hoàn toàn các giá trị. Và thái độ thứ hai là ‘vác thập giá mình mà theo’.
Đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, đức tin và trách nhiệm
Đức Thánh Cha nhắc các tín hữu chú ý rằng điều này không chỉ là việc chịu những đau khổ hàng ngày cách kiên nhẫn, nhưng mang nó với đức tin và trách nhiệm. Như thế, ‘vác thập giá’ trở thành việc tham dự với Đức Kitô cho ơn cứu độ thế giới. Hãy nghĩ về điều này, Thánh giá mà chúng ta treo trên tường, hoặc Thánh giá nhỏ mà chúng ta đeo nơi cổ, là dấu chỉ cho thấy chúng ta muốn kết hợp với Chúa Kitô trong sự phục vụ phục vụ anh chị em với tình thương, đặc biệt là những người nhỏ bé và mong manh nhất. Thánh giá là một dấu hiệu thánh của Tình yêu Thiên Chúa và của Hy sinh của Chúa Giêsu, và không được giảm xuống biến thành một đối tượng mê tín hoặc một đồ trang sức. Mỗi khi chăm chú nhìn vào hình ảnh Chúa Kitô bị đóng đinh, chúng ta nghĩ rằng Người, là Tôi tớ đích thực của Thiên Chúa, đã hoàn thành sứ mạng của mình bằng cách trao ban sự sống, đổ máu để tha thứ tội. Do đó, nếu chúng ta muốn trở thành môn đệ của Người, chúng ta được mời gọi noi gương Người, hiến dâng cuộc sống vì tình yêu Thiên Chúa và tha nhân.
Xin Đức Trinh Nữ Maria, Đấng kết hợp với Con của Mẹ trên đồi Canvê, giúp chúng ta không lùi bước trước những thử thách và đau khổ mà chứng tá Tin Mừng phải đối diện.
—
Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nhắc đến Ngày Thế giới Chăm sóc Thụ tạo 01/9/2020: Từ ngày 01/9 đến ngày 4/10, chúng ta sẽ cử hành “Năm Thánh của Trái đất”, để nhớ lại việc thành lập ngày này cách đây 50 năm của các anh chị em Kitô thuộc các Giáo hội và truyền thống khác nhau. Tôi chào mừng các sáng kiến được thúc đẩy trên khắp thế giới về chủ đề này, và một trong số đó là buổi Hòa nhạc diễn ra hôm nay tại nhà thờ chính tòa Port-Louis, thủ đô Mauritius, nơi không may mới xảy ra một thảm họa môi trường.
Sau cùng, Đức Thánh Cha chúc mọi người một ngày Chúa nhật an bình và xin mọi người cầu nguyện cho ngài.
Ngọc Yến
2020
Vatican xác nhận Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2020 sẽ vẫn được cử hành vào ngày 18/10
Ngày 28 tháng 8, Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc đã xóa bỏ những nghi ngờ cho rằng Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2020 này sẽ được hoãn lại. Bộ xác nhận rằng Ngày này vẫn sẽ được cử hành như thường lệ vào ngày 18 tháng 10.
Trong thông cáo báo chí, Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc cho biết: “Đáp lại một số yêu cầu về việc cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo năm 2020, Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc xác nhận rằng năm nay Ngày Thế giới Truyền giáo sẽ được cử hành ở cấp độ hoàn vũ vào Chúa Nhật, ngày 18 tháng 10, không có thay đổi về lịch.”
Như thế, Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc hiện đã xác nhận Ngày Thế giới Truyền giáo năm nay, sẽ được tổ chức như thường lệ vào Chúa Nhật áp chót của tháng Mười. Hầu hết các quốc gia cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo vào ngày đó.
Thánh bộ lưu ý: “Trong nhiều giáo phận, việc chuẩn bị cho Ngày Thế giới Truyền giáo đã được tiến hành trong một thời gian và sự năng động truyền giáo của Dân Chúa vẫn là ưu tiên hàng đầu”. “Thực ra, về bản chất, đức tin là truyền giáo và việc cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo đóng vai trò giữ cho chiều kích thiết yếu này của đức tin Ki-tô giáo sống động trong tất cả các tín hữu.”
Lạc quyên giúp các miền truyền giáo
Thánh Bộ cho biết Bộ cũng “dựa vào ý thức hiệp thông và đồng trách nhiệm của các giám mục về việc lạc quyên trong Ngày này giúp cho các Hội Giáo hoàng Truyền giáo, những tổ chức hoạt động trong một bối cảnh phổ quát hỗ trợ công bằng cho các Giáo hội trong các lãnh thổ truyền giáo.”
Sứ điệp của Đức Thánh Cha
Vào Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ngày 31 tháng 5, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã công bố sứ điệp cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay. Dựa trên chủ đề lấy từ sách ngôn sứ Isaiah, “Này con đây, xin hãy sai con đi”, sứ điệp của Đức Thánh Cha nói rằng đại dịch Covid-19 là một cơ hội để truyền giáo và phục vụ người khác.
Ngày Thế giới Truyền giáo, hay Chúa Nhật Truyền giáo, được Đức Giáo hoàng Piô XI thiết lập vào năm 1926, để nhắc nhở các tín hữu Công giáo về sự dấn thân và hỗ trợ của họ đối với công việc truyền giáo của Giáo hội thông qua cầu nguyện và hy sinh. (CSR_6222_2020) Hồng Thủy