2021
ĐTC tham gia gởi sứ điệp chung nhân kỷ niệm 10 năm độc lập của Nam Sudan
ĐTC tham gia gởi sứ điệp chung nhân kỷ niệm 10 năm độc lập của Nam Sudan
Sáng 9/7, Đức Thánh Cha Phanxicô cùng với Đức TGM Canterbury, Justin Welby, và chủ tịch Đại hội đồng Giáo hội Scotland, Jim Wallace, đã gởi một sứ điệp chung đến các lãnh đạo chính trị của Nam Sudan nhân dịp kỷ niệm 10 năm nước này độc lập (9/7/2011).
Hình chụp ngày 9/7/2011 tại Juba, người dân mừng ngày khai sinh đất nước (AFP or licensors)
Mở đầu sứ điệp, ba vị lãnh đạo tôn giáo đã gởi lời chúc mừng đến các vị lãnh đạo đất nước Nam Sudan, và khuyến khích họ nỗ lực hơn nữa để làm cho dân tộc Nam Sudan hưởng trọn vẹn thành quả của nền độc lập.
Sứ điệp chung được viết với những tình cảm đặc biệt của Đức Thánh Cha Phanxicô, Đức TGM Justin Welby và ngài Jim Wallace. Ba vị đã ghi nhận những tiến bộ của Nam Sudan kể từ lá thư lần trước vào dịp Giáng Sinh. Tuy nhiên, hiện tại, “điều đáng buồn là người dân vẫn tiếp tục sống trong sợ hãi và không chắc chắn, và thiếu tự tin rằng quốc gia của họ thực sự có thể mang lại ‘công lý, tự do và thịnh vượng’ như được ca ngợi trong bài quốc ca.”
Do đó, ba vị khuyến khích các nhà lãnh đạo Nam Sudan theo gương Chúa Giêsu, hy sinh những lợi ích cá nhân để xây dựng đất nước, nơi “nhân phẩm của mọi người được tôn trọng và tất cả được hoà giải.”
Ba vị cũng nhắc lại cuộc gặp lịch sử của các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo của Nam Sudan tại Vatican vào năm 2019 và những lời hứa quan trọng được đưa ra trong dịp đó.
Ngày 11/4/2019, trong cuộc gặp gỡ lịch sử, Đức Thánh Cha, lúc đó 82 tuổi, đã làm một cử chỉ xúc động, ngài cuối xuống hôn chân các vị lãnh đạo chính trị của Nam Sudan, như một cử chỉ khiêm nhường yêu cầu hoà bình cho người dân Nam Sudan. (CSR_4919_2021)
Văn Yên, SJ
2021
ĐTC bổ nhiệm ĐHY Hollerich làm Tổng tường trình viên Thượng Hội đồng giám mục
ĐTC bổ nhiệm ĐHY Hollerich làm Tổng tường trình viên Thượng Hội đồng giám mục
Ngày 8/7/2021 Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm Đức Hồng Y Jean-Claude Hollerich làm Tổng tường trình viên của Thượng Hội đồng giám mục năm 2023 về tính đồng nghị. Qua tài khoản Twitter, Đức Hồng y đã cảm ơn Đức Thánh Cha về việc bổ nhiệm này.
Đức Hồng y Jean Claude Hollerich
Thượng Hội đồng giám mục năm 2023 có chủ đề “Vì một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham dự và sứ vụ”, bắt đầu vào tháng 10/2021 và kết thúc tại Roma vào tháng 10/2023.
Nhiệm vụ Tổng tường trình viên
Với vai trò Tổng Tường trình viên, Đức Hồng y Hollerich, 62 tuổi, tổng giám mục của Luxembourg và hiện là Chủ tịch Ủy ban các Hội đồng giám mục của Liên minh châu Âu, sẽ tham gia các cuộc họp của Hội đồng Chuẩn bị cho Thượng Hội đồng sắp tới, chính thức được gọi là Thượng Hội đồng giám mục XVI.
Ngài được dự kiến sẽ trình bày một báo cáo khi bắt đầu đại hội vào tháng 10/2021, giới thiệu chủ đề về tính đồng nghị. Ngài cũng sẽ phác thảo tài liệu làm việc của Thượng hội đồng và những điểm mà những người tham gia sẽ thảo luận và sẽ chủ trì việc chuẩn bị tài liệu cuối cùng của Thượng Hội đồng; tài liệu này sẽ được đệ trình cho những người tham gia để thông qua. Vai trò của ngài sẽ kết thúc khi Thượng Hội đồng giải tán.
Các Tổng tường trình viên của các Thượng Hội đồng giám mục mới đây
Tổng Tường trình viên của Thượng Hội đồng giám mục thường là một giám chức xuất sắc và được Đức Giáo hoàng tín nhiệm. Tổng Tường trình viên của Thượng Hội đồng giám mục về miền Amazon năm 2019 là Đức Hồng y người Brazil Cláudio Hummes. Tại Thượng Hội đồng giám mục về giới trẻ năm 2018, vị trí này do Đức Hồng y Sérgio da Rocha người Brazil đảm nhiệm. Còn Tổng Tường trình viên của Thượng Hội đồng giám mục về gia đình năm 2014-2015 là Đức Hồng y Péter Erdo người Hungary.
Tiểu sử sơ lược
Đức Hồng y Hollerich sinh ngày 9/8/1958 tại Differdange, miền tây nam Luxembourg. Ngài gia nhập tỉnh dòng Tên Bỉ và Luxembourg vào năm 1981, thụ phong linh mục tại Brussels năm 1990. Sau khi đậu cử nhân tiếng Đức, năm 2002, ngài được gửi đến Nhật Bản và gia nhập cộng đoàn dòng Tên ở Tokyo.
Chuyên về các mối quan hệ văn hóa giữa châu Âu và Viễn Đông, ngài dạy tiếng Đức, Pháp và các nghiên cứu châu Âu tại Đại học Sophia, và làm Phó viện trưởng, phụ trách các vấn đề chung và sinh viên vào năm 2008. Năm 2011, Đức Biển Đức XVI đã bổ nhiệm ngài làm tổng giám mục Luxembourg. Ngài được bầu làm Chủ tịch Hội đồng giám mục châu Âu vào năm 2008. Kể từ đó, ngài đã lên tiếng về tự do tôn giáo, tình cảnh khốn khổ của những người tị nạn ở châu Âu, và tình trạng thế tục hóa.
Ngày 5/10/2019, ngài được Đức Thánh Cha Phanxicô thăng làm Hồng y. (Cath.ch 08/07/2021)
Hồng Thủy
2021
Các giám mục Mỹ giúp 3,5 triệu đô la cho Giáo hội ở Trung và Đông Âu
Các giám mục Mỹ giúp 3,5 triệu đô la cho Giáo hội ở Trung và Đông Âu
Năm nay các giám mục Mỹ sẽ dành 3,5 triệu đô la tài trợ cho 208 dự án ở 23 quốc gia để trợ giúp cho các Giáo hội ở Trung và Đông Âu đang cố gắng phục hồi sau nhiều thập kỷ bị cộng sản đàn áp bách hại.
Đây là số tiền quyên góp được nhờ lòng quảng đại của các tín hữu Hoa Kỳ trong cuộc lạc quyên hàng năm được tiểu ban Trợ giúp các Giáo hội ở Trung và Đông Âu tổ chức tại hầu hết các giáo phận ở Hoa Kỳ vào mỗi mùa đông.
Mối quan hệ của người Công giáo ở hai đầu thế giới
Đức cha Jeffrey M. Monforton, giám mục Steubenville, Chủ tịch của Tiểu ban Trợ giúp các Giáo hội ở Trung và Đông Âu nhận định: “Người Công giáo ở Trung và Đông Âu đã gìn giữ đức tin sống động trong thời kỳ đen tối nhất, khi chính họ gặp nguy hiểm to lớn, và nỗ lực truyền lại chính đức tin đó cho con cái của họ”. Và Đức cha khẳng định: “Những người Công giáo đã đóng góp vào cuộc lạc quyên đang yêu thương hỗ trợ các anh chị em của họ, những người đã chịu nhiều đau khổ vì đức tin và đang giúp một thế hệ mới phát triển về mặt thiêng liêng trong những bối cảnh vô cùng khó khăn”. Ngài giải thích: “Nhờ những khoản quyên góp này, các giáo xứ sẽ được đổi mới, các công việc mục vụ xã hội cơ bản sẽ được thực hiện và mối quan hệ giữa những người Công giáo ở cả hai đầu thế giới sẽ được củng cố”.
Các dự án
Trong số các dự án mục vụ được tài trợ có dự án thành lập một trung tâm truyền giáo do nhà thờ chính tòa và một trung tâm mục vụ ở Bishkek, thủ đô của Kyrgyzstan điều phối; các sáng kiến nhằm hồi sinh đời sống của các giáo xứ ở Cộng hòa Séc với sự tham gia của các linh mục và giáo dân và một số dự án hỗ trợ cuộc sống được xúc tiến ở năm quốc gia (Albania, Georgia, Rumani, Slovakia và Slovenia), bao gồm các khóa đào tạo nhằm thu hút các tín hữu tham gia quảng bá cuộc sống và gia đình, các hoạt động giúp đỡ và hỗ trợ các bà mẹ tương lai, các khóa đào tạo về kế hoạch hóa gia đình tự nhiên và giáo dục giới tính để đào tạo thanh niên về tình dục lành mạnh.
Đức cha Monforton nói rằng “Những món quà của người Công giáo ở Mỹ giúp các anh chị em của họ ở Trung và Đông Âu sẽ cứu sống, giúp mọi người khám phá ra Chúa Giêsu, và cho phép Giáo hội đi ra từ các hang toại đạo làm chứng về quyền năng của sự Phục sinh”. (USCCB 07/07/2021)
Hồng Thủy
2021
Những giếng nước nghĩa tình cho anh chị em dân tộc ở Tây nguyên
Những giếng nước nghĩa tình cho anh chị em dân tộc ở Tây nguyên
Mùa hè sông suối cạn khô, lại ô nhiễm, người dân tộc ở Tây nguyên phải cuốc bộ vài cây số để lấy nước. Mùa mưa nước nhiều, nhưng đến nhà thờ, quần áo lấm lem vì “vồ ếch”, lại không có nước rửa mặt mũi chân tay để tham dự Thánh lễ cho đàng hoàng một tí. Nhờ tình liên đới chia sẻ của những tấm lòng đầy nghĩa tình, qua các nữ tu, những giếng nước được khoan và mang nước đến cho người dân tộc. Những giọt nước tinh khiết nhưng đậm nghĩa tình!
Những giếng nước nghĩa tình cho anh chị em Tây nguyên
Nước là nguồn sống, nơi nào có nước nơi ấy có sự sống. Nước ở đồng bằng thì dễ, nhưng nước trên đại ngàn Tây Nguyên là một bài toán khó cho anh chị em tu sĩ Loan báo Tin mừng tại đó.
Người dân thường hay ra suối tắm giặt và lấy nước về uống; mùa mưa nước đổ xuống đục ngầu; mùa nắng cạn khô hoặc chỉ còn cạn và cấn… Có những vùng có nước giọt, tức là nước trên núi chảy xuống, dân bản xứ lấy những cây tre chẻ làm đôi và đóng nào núi, tạo ra những dòng nước cho dễ lấy… nhưng mùa khô thì nước hiếm.
Mà nước bây giờ cũng ô nhiễm lắm rồi, người Kinh làm rẫy bón phân. Người ta chăn bò và phân bò cứ chỗ trũng mà chảy, dân cứ chỗ có nước đến lấy…
Hình ảnh mùa khô, các bà các chị bế theo những đứa con, lưng gùi những bình nhựa ra suối, những đứa con lớn lon ton chạy theo váy mẹ. Ra suối họ tắm giặt và gùi nước về làng. Quãng đường dài, gần thì hai cây số, xa thì ba bốn cây. Lưng gùi những bình nước đã đầy, tay ôm con, miệng nhắc nhở những đứa chạy lon ton theo kịp mẹ; thi thoảng mấy chú chó cũng quấn quýt theo chủ ra suối.
Giếng nước là cái gì đó rất xa xỉ và xa lạ với anh chị em J’rai, Bana…Xa lạ vì văn hoá của họ là cùng nhau tắm giặt gặp gỡ bên suối hay bên những giọt nước từ trên núi xuống. Nước nhìn thấy chứ không tưởng tượng nổi một cái lỗ bé tí có thể mang nước về cho cả làng. Xa xỉ vì anh chị em đong gạo hàng ngày, hôm nay ăn hết gạo, ngày mai không biết có tiền mua gạo hay không, nên mỗi cái giếng khoan cộng với tất cả những gì đi theo nó tổng cộng ít nhất cũng năm mươi triệu đồng là điều họ không bao giờ dám nghĩ tới.
Rồi nắng hạn và nước cạn dần, khó lòng tìm được các con suối và giọt nước. Thi thoảng ở những ngôi nhà người Kinh có giếng, anh chị em đến đó xin, nhưng mùa nắng người đến xin đông quá, họ không chịu xiết tiền điện nên cho hạn chế.
Các nữ tu mới “đánh liều xin trợ giúp giếng khoan”. Một cái giếng có thể cho cả làng sử dụng, hoặc làng nào địa lý quá rộng thì hai đầu làng hai cái… Cứ cần mẫn như chú ong, các nữ tu dòng Đa Minh Rosa Lima đã làm được mười tám cái giếng. Mười sáu cái trên Tây Nguyên cho mười sáu làng và hai cái trên vùng anh em dân tộc ở Đà Lạt cho hai làng.
Ngày bắt đầu khoan giếng, bà con trong làng tụ tập chung quanh già làng và cùng nhau cầu nguyện, xin cho việc khoan giếng được mọi việc suôn sẻ. Bởi vì mỗi vùng địa chất khác nhau nên các nữ tu đứng ra lo việc khoan giếng cũng lo lắm. Có những cái giếng chỉ 50m đã có nước nhưng có vùng phải khoan tới 80 hay 90 hay 100m. Chỗ nào cũng có đá, mũi khoan mang lên những viên đá tròn đường kính 20cm và dài nhất là 2m.
Sau khi có nước, các nữ tu sẽ gọi lũ trẻ trong làng cho nếm thử những giọt nước đầu tiên ấy. Thường thì chúng là những đức trẻ lẫm chẫm chẳng mặc gì vì trời nóng…; đứa lớn hơn may ra có cái quần xà-lỏn… Chúng reo hò tắm mát dưới vòi nước; chúng tròn xoe mắt khi thấy điều diệu kỳ từ cái vòi đen đen. Làm sao cái ống này lại cho nhiều nước đến thế, nước trắng toát, tuôn xối xả… và chúng thích chí reo hò gọi tên những đứa bạn gần đấy chưa kịp chạy tới…
Các sơ sẽ mua xi măng về láng một khoảng đủ rộng để dân làng đến tắm giặt. Mua thêm một cái bồn và hàn cái chân để cho bồn lên cao, mua mô-tơ để lấy nước lên bồn… Các bà các chị đến chỉ việc mở vòi nước từ bồn là đã có nước xài, những dòng nước tinh khiết lấy lên từ lòng đất mẹ, trong lành mát rượi.
Mười bảy cái giếng đều như thế…. Thi thoảng có cái kịch tính là đá nhiều quá, gãy mũi khoan…, phải mua thêm nhiều mũi khác… Nhưng đến giếng thứ mười tám là hú hồn. Cái giếng này được khoan trong khuôn viên của một nhà nguyện cho bảy làng anh chị em dân tộc J’rai sử dụng. Họ rất cần nước, nhưng nhà nguyện không có nước.
Mỗi Chúa Nhật gia đình bồng bế nhau đi lễ. Họ đi bộ nếu nhà cách xa khoảng 4 cây số đổ lại. Đối với những gia đình ở xa, họ sẽ chở nhau bằng xe máy. Ngôi làng ở xa nhất là 20 cây số đường rừng, ngoằn nghèo, ổ gà ổ voi, với đất đỏ ba-zan, mùa nắng bụi bám đỏ người, mùa mưa sình lầy nhem nhuốc. Họ đã không ít lần “chụp ếch” trên hành trình về nhà nguyện. Phải rửa mặt mũi tay chân sạch sẽ trước khi vào Thánh lễ … Không có nước rửa, các sơ phải đi mướn xe càng chở nước về….; mấy năm nay đều là như thế. Tiền mướn xe không nhiều, vì chủ xe chỉ lấy tiền dầu, nhưng vùng đất nghèo ấy kiếm được tiền mua một ký gạo đã khó, các sơ cũng chẳng hơn gì họ….Thôi thúc trước nỗi khổ của bà con bảy làng với mấy trăm con người lấm lem mỗi sáng Chúa nhật, các sơ muốn xin khoan một cái giếng.
Thấu hiểu nỗi khổ của anh chị em vùng cao, bác sĩ Christine Hoàng tặng cho bà con giếng nước này.
Vùng đất này rất ít nước, đá nhiều và phải khoan từ 120m mới mong có nước. Có nhiều nhà khoan sâu như thế mà phải bỏ đi vì mạch nước rất yếu! Bỏ giếng mà vẫn phải trả tiền khoan…, vậy mới hồi hộp!
Giếng số 18 này đã phải khoan lần thứ ba mới được. Cái thứ nhất 30m, cát chung quanh xô lại làm bể ống; rút mũi khoan lên bỏ đi. Giếng thứ hai sâu 120m, mạch nước yếu, không đủ cho bảy làng xài vì chỉ dùng mô-tơ một ngựa. Cái thứ ba sâu 150m và tạ ơn Chúa nguồn nước dồi dào. Và kinh phí gấp đôi 17 cái giếng trước đây.
Nhìn lũ trẻ đón những dòng nước đầu tiên từ giếng lên mà thấy ấm lòng bởi tiếng cười giòn giã tinh khôi của chúng.
Tạ ơn Chúa vì mong ước của bà con bao nhiêu năm nay bây giờ đã thành hiện thực, vui lắm!!!!
Chị Christine Hoàng “mở hàng” bảo trợ cái giếng đầu tiên trong chương trình và cũng là người ngỏ lời với bạn hữu thêm 5 cái giếng khác trong chương trình khoan giếng cho anh chị em vùng Tây Nguyên. Bây giờ là giếng thứ 18 bác sĩ gửi tặng $3,300 Mỹ kim. Xin cám ơn bác sĩ vì không chỉ đóng góp công sức mang lại dòng nước ngọt cho anh chị em mà còn luôn giữ giờ cầu nguyện Lòng Thương Xót lúc 3g chiều cho từng cái giếng khoan và trong cơn đại dịch này, mặc dù chị mới phẫu thuật mắt xong.
Xin Thiên Chúa gia ân trên tất cả những anh chị em rộng lòng với đồng bào với mười tám cái giếng khoan và những chương trình chia sẻ khác nữa.
Chúng tôi, những nữ tu ở hai đầu trao và nhận, cảm nhận được niềm vui sẻ chia, niềm vui nhận lãnh và đoan chắc rằng: Thiên Chúa sẽ gửi thiên thần của Người đến chia sẻ những nhu cầu mà con cái của Người đang cần. Ước chi mỗi người chúng ta là thiên thần của nhau.
Sr. Minh Du O.P.