2023
Diễn văn của Đức Thánh Cha tại buổi gặp gỡ đại kết và liên tôn tại Mông Cổ
Diễn văn của Đức Thánh Cha tại buổi gặp gỡ đại kết và liên tôn tại Mông Cổ
Lúc 9:30 sáng Chúa Nhật 3/9, Đức Thánh Cha đã di chuyển đến nhà hát HUN Theatre để tham dự buổi gặp gỡ đại kết và liên tôn. Sau đây là diễn văn của ngài.
DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA
CUỘC GẶP GỠ ĐẠI KẾT VÀ LIÊN TÔN
Hun Theatre, Ulaanbaatar, 03/09/2023
Có một tín hữu ở xa, khi đến thăm Mông Cổ đã viết trong nhật ký hành trình của mình thế này: “nơi đây, người ta không thấy gì ngoài trời và đất”. Bầu trời nơi đây trong suốt và xanh thẳm, ôm lấy mặt đất mênh mông và hùng vĩ, gợi lên hai chiều kích cơ bản của cuộc sống con người: chiều kích trần thế được tạo nên bởi những mối tương quan với người khác, và chiều kích thần thiêng được tạo nên bởi việc tìm kiếm một Đấng Siêu Việt. Đất nước Mông Cổ nhắc nhớ chúng ta, những người hành hương và những lữ khách, về sự cần thiết của việc hướng ánh mắt mình về trời cao để có thể tìm ra con đường trên cuộc lữ hành trần thế.
Vì vậy, tôi rất hạnh phúc khi được ở đây với các bạn trong giây phút gặp gỡ quan trọng này. Tôi chân thành cám ơn từng người trong các bạn vì đã hiện diện nơi đây, vì những đóng góp đã làm cho việc suy tư chung giữa chúng ta thêm phần phong phú. Việc hiện diện với nhau nơi đây đã là một sứ điệp quan trọng rồi. Các truyền thống tôn giáo trong tính độc đáo và đa dạng của mình, cho thấy tiềm năng to lớn trong việc phục vụ lợi ích của xã hội. Nếu các vị hữu trách của các quốc gia chọn con đường gặp gỡ và đối thoại với người khác, họ sẽ góp phần quyết định trong việc chấm dứt những cuộc xung đột đang còn tiếp tục gây ra bao đau khổ cho rất nhiều dân tộc.
Chính dân tộc Mông Cổ đã mang đến cho chúng ta cơ hội được ở bên nhau, hiểu biết nhau, và làm phong phú thêm cho nhau. Dân tộc này có quyền tự hào về một lịch sử chung sống giữa những người theo các truyền thống tôn giáo khác nhau. Rất đáng để chúng ta nhớ lại kinh nghiệm sống động về cố đô Kharakorun. Trong lòng cố đô này, chúng ta còn thấy rất nhiều nơi thờ tự thuộc về các tín ngưỡng khác nhau, như là một minh chứng đáng ca ngợi về sự hoà hợp giữa các tôn giáo. Sự hoà hợp. Tôi muốn nhấn mạnh đến từ này, một từ ngữ với hương vị rất đặc trưng Châu Á. Hoà hợp chỉ về những mối quan hệ đặc thù được tạo ra giữa các thực tại khác nhau, không hề có sự thống trị hay đồng hoá, nhưng biết tôn trọng những khác biệt để hướng đến những lợi ích của việc chung sống. Tôi tự hỏi: là ai, nếu không phải là các tín hữu, được mời gọi dấn thân làm việc hướng đến sự hoà hợp của tất cả mọi người?
Anh chị em thân mến,
Giá trị xã hội của tôn giáo chúng ta được đo lường trong mức độ chúng ta có thể hoà hợp với những anh chị em lữ hành khác trên mặt đất này, trong mức độ chúng ta có thể tạo ra và làn lan truyền sự hoà hợp. Mỗi cuộc sống con người và mỗi tôn giáo đều phải tự đo lường chính mình trên nền tảng của sự vị tha. Đây không phải là một chủ nghĩa vị tha trừu tượng, nhưng phải cụ thể, được thể hiện qua việc tìm kiếm người khác và cộng tác cách quảng đại với người khác, bởi vì “người khôn ngoan vui mừng trong việc cho đi, và chỉ nhờ đó mà họ được hạnh phúc”. Có một lời cầu nguyện cảm hứng từ thánh Phanxico Assisi thế này: “Nơi nào có hận thù, xin cho con mang lại yêu thương. Nơi nào có giận hờn, xin cho con mang lại tha thứ. Nơi nào có bất hoà, xin cho con mang lại nối kết”. Lòng vị tha tạo nên sự hoà hợp, và nơi nào có hoà hợp sẽ có hiểu biết, thịnh vượng, và đẹp đẽ. Có thể nói rằng hoà hợp chính là từ gần nghĩa nhất với cái đẹp. Ngược lại, khép kín, áp đặt một chiều, chủ nghĩa cực đoan, áp đặt ý thức hệ… sẽ huỷ hoại tình huynh đệ, là tăng thêm sự căng thẳng và đe doạ hoà bình. Vẻ đẹp của cuộc sống là hoa trái của sự hoà hợp. Sự hoà hợp có tính cộng đồng, lớn lên cùng với sự tử tế, với việc lắng nghe, với sự khiêm nhường. Một trái tim trong sáng mới có thể đón nhận được sự hoà hợp, bởi vì: “xét cho cùng, cái đẹp thật sự nằm ở sự trong sáng của trái tim”.
Các tôn giáo được mời gọi cống hiến cho thế giới chính sự hoà hợp này. Đây là điều mà sự phát triển của kỹ thuật không thể mang lại, bởi vì sự phát triển ấy chỉ hướng đến chiều kích trần thế, chiều ngang của con người, và có nguy cơ lãng quên trời cao là chiều kích mà vì đó chúng ta được dựng nên. Thưa anh chị em, chúng ta họp nhau nơi đây như là những người thừa tự khiêm hạ của các trường phái khôn ngoan cổ xưa. Khi gặp gỡ nhau, chúng ta cố gắng chi sẻ cho nhau rất nhiều những điều tốt đẹp mà chúng ta đã nhận được, để làm giàu cho nhân loại, một nhân loại thường xuyên bị lạc hướng trong hành trình của mình bởi những tìm kiếm thiển cận về tư lợi. Nhân loại ngày nay thường không nhìn ra được sự xuyên suốt, chỉ thấy những lợi ích dưới đất và kết cục là huỷ hoại trái đất này. Nhân loại lẫn lộn giữa tiến bộ và thoái trào, được thể hiện qua rất nhiều bất công và xung đột, rất nhiều cuộc huỷ hoại môi trường, rất nhiều cuộc bách hại, rất nhiều chết chóc.
Châu Á có rất nhiều điều để cống hiến theo nghĩa này. Và đất nước Mông Cổ nằm ở trung tâm của Châu Á, đang gìn giữ một di sản khôn ngoan to lớn mà chính các tôn giáo nơi đây đã tạo ra. Tôi muốn mời tất cả moi người cùng tái khám phá và lượng giá. Tôi muốn kể ra đây mười điều quan trọng trong di sản khôn ngoan này, đó là: có một tương quan tốt đẹp với truyền thống, bất kể những căng thẳng của chủ nghĩa tiêu thụ. Sự tôn trọng dành cho những người cao niên và ông bà tổ tiên, đây là điều mà ngày nay chúng ta thấy vô cùng cần thiết, một kết ước liên thế hệ giữa người già và người trẻ, giữa ông bà và cháu chắt. Tiếp theo là việc biết chăm sóc cho môi trường, ngôi nhà chung của chúng ta; đây cũng là một điều vô cùng cần thiết hiện nay. Tiếp đến là giá trị của việc biết thinh lặng và đời sống nội tâm: đây chính là liều thuốc giải độc tinh thần cho vô vàn những chứng bệnh của thế giới hôm na. Và còn những giá trị khác như: một cảm thức tiết kiệm lành mạnh; lòng hiếu khách; khả năng cưỡng lại sự dính bén với vật chất; sự liên đới là điều nảy sinh từ sự sự gắn kết văn hoá giữa người với người; lòng yêu chuộng sự đơn giản; và cuối cùng là một chủ nghĩa thực dụng hiện sinh giúp kiên trì tìm kiếm lợi ích cho cá nhân cũng như cho cả cộng đồng. Đây là một số yếu tố trong di sản khôn ngoan mà đất nước này có thể cống hiến cho thế giới.
Trong khi chuẩn bị cho chuyến hành trình này, tôi đã bị mê hoặc bởi những ngôi nhà lều truyền thống của người dân Mông Cổ. Nơi đây, người dân Mông Cổ cho chúng ta thấy sự khôn ngoan đã bắt nguồn từ hàng ngàn năm trong lịch sử. Thực tế, ger, ngôi nhà lều của người Mông Cổ, tạo nên một không gian sống cho con người: bên trong không gian này là đời sống gia đình, là nơi chung sống, gặp gỡ và đối thoại, là nơi mà cả khi có nhiều người đi nữa bạn vẫn biết cách nhường chỗ cho người khác. Nhà lều là điểm tham chiếu cụ thể và dễ dàng nhận diện trên phần lãnh thổ bao la của Mông Cổ. Những căn nhà ấy là dấu chỉ hy vọng cho những người bị lạc bước. Nơi nào có nhà lều, nơi đó có sự sống. Đó là những căn nhà luôn rộng mở, sẵn sàng chào đón không chỉ bạn bè, nhưng cả những người lữ hành và khách lạ, mời họ một tách trà nóng để giúp họ hồi sức trong cái giá lạnh của mùa Đông hoặc đãi họ một ly sữa lạnh giúp họ hồi sức giữa cái nóng mùa hè. Đây chính là kinh nghiệm của các nhà truyền giáo đến từ nhiều quốc gia khác. Họ được đón tiếp tại đây như là những người hành hương và lữ khách. Họ từng bước chạm vào thế giới văn hoá này để cống hiến chứng tá khiêm nhường về Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô.
Cùng với chiều kích nhân loại, những căn nhà lều cũng gợi lên sự mở ra với thế giới linh thiêng. Chiều kích thiêng liêng của những ngôi nhà này được thể hiện qua việc mở ra ở phía trên, một điểm trống duy nhất để cho ánh sáng rọi vào, như một cái đèn trời hay giếng trời. Nhờ vậy mà bên trong nhà trở nên như một cái đồng hồ mặt trời lớn, có ánh sáng và bóng tối giao thoa với nhau đánh dấu thời gian ngày và đêm. Trong hình ảnh này có một bài học rất hay: Cảm thức về thời gian trôi qua đến từ phía trên chứ không phải từ dòng chảy đơn thuần của các hoạt động dưới đất. Vào những thời điểm nhất định trong năm, những tia sáng từ trên chiếu xuống, rọi vào bàn thờ ở trong nhà, gợi nhớ về vai trò quan trọng nhất của đời sống thiêng. Sự chung sống của con người diễn ra trong không gian hình tròn của nhà lều liên tục nhắc nhớ về ơn gọi hướng lên cao, về chiều kích siêu việt, về đời sống thiêng liêng.
Một nhân loại hoà giải và thịnh vượng là điều mà mà các tôn giáo chúng ta góp công cổ võ. Điều này được thể hiện cách biểu tượng trong không gian sống hoà hợp và mở ra với chiều kích siêu việt, nơi đó những dấn thân cho công lý và hoà bình tìm thấy gợi hứng và nền tảng của mình từ chiều kích thánh thiêng. Về điều này, thưa anh chị em, trách nhiệm của chúng ta là rất lớn, đặc biệt là trong thời khắc lịch sử này. Chính cung cách hành xử của chúng ta phải xác chuẩn cho những giáo huấn mà chúng ta tuyên xưng, chứ không thể mâu thuẫn và trở nên cớ vấp phạm. Do đó, không thể nào có sự lẫn lộn giữa niềm tin và bạo lực, giữa tính thánh thiêng và sự áp đặt, giữa tôn giáo và chủ nghĩa bè phái. Ước gì ký ức về những đau khổ trong quá khứ, tôi đặc biệt nhớ đến những cộng đồng phật giáo, có thể mang lại sức mạnh làm biến đổi những thương tích đen tối thành ánh sáng, biến sự vô minh của bạo lực thành những bài học khôn ngoan của cuộc sống, biến sức huỷ hoại của sự dữ thành sự xây dựng của điều lành. Là những môn đệ nhiệt thành của các bậc thầy thiêng liêng và là những người phục vụ tận tâm với giáo lý của họ, ước gì chúng ta cũng hãy sẵn sàng cống hiến những điều đẹp đẽ ấy cho những ai chúng ta gặp gỡ, như là những người bạn đồng hành trên đường. Bởi vì trong một xã hội đa dạng và tin vào các giá trị dân chủ như là Mông Cổ, mỗi tổ chức tôn giáo được nhìn nhận bởi chính quyền dân sự đều có bổn phận và trên hết là có quyền được cống hiến tất cả những gì mình là, mình tin, trong việc tôn trọng lương tâm của người khác và luôn hướng tới lợi ích lớn hơn cho mọi người.
Theo hướng này, tôi muốn khẳng định với các bạn rằng Giáo Hội Công Giáo luôn muốn bước đi như vậy, tin tưởng vững vàng vào giá trị của đối thoại đại kết, liên tôn, và văn hoá. Đức tin của Giáo Hội Công Giáo đặt nền trên cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và nhân loại, một Thiên Chúa đã nhập thể nơi Đức Giêsu Kitô. Lòng khiêm hạ và tinh thần phục vụ chính là điểm sống động trong cuộc đời của Ngài, Đấng đã đến trong thế giới này không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ người khác. Giáo Hội cống hiến kho tàng mà mình đã nhận được từ chính mỗi người, mỗi nền văn hoá, luôn thực thi thái độ cởi mở và lắng nghe tất cả những điều mà các truyền thống tôn giáo khác cống hiến. Thật ra, tinh thần đối thoại không mâu thuẫn với việc loan báo: không đánh đồng mọi khác biệt, nhưng giúp để hiểu rõ hơn các khác biệt ấy, giúp bảo tồn những khác biệt trong tính độc đáo, giúp thẳng thắng đối thoại với nhau để làm phong phú cho nhau. Chỉ khi đó nhân loại mới tìm thấy chìa khoá để bước đi trên mặt đất này như một nhân loại được chúc phúc bởi trời cao. Chúng ta có chung cùng một nguồn gốc, nhờ đó chúng ta đều có cùng một phẩm giá, cùng một hành trình chia nhau. Chúng ta chẳng thể nào bước đi, nếu không phải là bước đi cùng nhau, sống cùng nhau dưới chùng một bầu trời. Bầu trời ấy che chở và rọi sáng cho chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay là một dấu chỉ hy vọng. Trong một thế giới bị xé nhỏ bởi đấu tranh và bất đồng, hy vọng là điều nghe có vẻ không thực. Thế nhưng những điều lớn lao vĩ đại nhất thường khởi đầu nơi những gì ẩn kín, với những chiều kích hầu như không thấy được liền. Một cây đại thụ luôn có khởi đầu từ một hạt giống nhỏ bé ẩn mình dưới lòng đất. Hương hoa chỉ toả ra theo hướng gió, còn hương thơm nhân đức của con người thì toả ra theo mọi hướng. Chúng ta hãy cùng nhau làm cho điều này nở hoa, để những nỗ lực chung của chúng ta hướng đến việc đối thoại và xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn không ra uổng công. Chúng ta hãy cùng nhau vun trồng hy vọng. Như một triết gia đã nói: “Mỗi người đều vĩ đại theo những gì mình hy vọng. Có có người nên vĩ đại nhờ đặt hy vọng vào những điều có thể, có người nên vĩ đại nhờ hy vọng vào điều vĩnh tồn, nhưng chỉ những ai dám hy vọng vào điều không thể thì mới là người vĩ đại nhất”.
Ước gì những lời cầu nguyện mà chúng ta hướng lên trời cùng với tình huynh đệ mà chúng ta đang sống nơi mặt đất này nuôi dưỡng niềm hy vọng của chúng ta. Ước gì tôn giáo của chúng ta, việc chung bước của chúng ta với ánh mắt hướng về trời cao, việc sống chung trong một thế giới hoà hợp như là những người lữ khách được mời gọi chăm sóc cho ngôi nhà chung của mình… đều có thể trở thành những chứng tá đơn sơ và khả tín cho tất cả mọi người.
Xin chân thành cám ơn.
Nguồn tin: vaticannews.va/vi
2023
Cơn khát nơi chúng ta và tình yêu làm dịu cơn khát
Cơn khát nơi chúng ta và tình yêu làm dịu cơn khát
Thánh lễ Chúa nhật 22 Thường Niên năm A
Steppe Arena, Ulaanbaatar, ngày 3 tháng 9 năm 2023
Chúng ta hãy cùng nhau dừng lại ở hai khía cạnh này: cơn khát nơi chúng ta và tình yêu làm dịu cơn khát của chúng ta.
Trên hết, chúng ta được mời gọi nhận ra cơn khát nơi chúng ta. Tác giả Thánh vịnh kêu cầu Chúa giải thoát khỏi cơn khát vì sự sống của tác giả giống như sa mạc. Những lời của tác giả Thánh vịnh cộng hưởng cách đặc biệt ở một vùng đất như Mông Cổ: một lãnh thổ rộng lớn, giàu lịch sử và văn hóa, nhưng cũng được đánh dấu bởi sự hiu quạnh của thảo nguyên và khô hạn của sa mạc. Nhiều người trong số anh chị em đã quen với vẻ đẹp và sự mệt nhọc của việc bước đi, một hành động gợi lại một khía cạnh thiết yếu của linh đạo Kinh thánh, được thể hiện qua hình ảnh Abraham và, nói chung hơn, đặc trưng của dân Israel và của mọi môn đệ của Chúa: thật sự, tất cả chúng ta đều là những “kẻ du mục của Chúa”, những kẻ hành hương đi tìm hạnh phúc, những kẻ lữ hành khao khát tình yêu. Vì thế, sa mạc được tác giả Thánh vịnh nói đến gợi lên cuộc sống của chúng ta: chúng ta là mảnh đất khô hạn đó vốn đang khát dòng nước trong, một thứ nước làm dịu cơn khát ở tận cõi thâm sâu; chính con tim chúng ta mong muốn khám phá bí mật của niềm vui đích thực, bí mật có thể đồng hành và nâng đỡ chúng ta ngay cả giữa sự khô cằn hiện sinh. Đúng vậy, chúng ta mang trong mình một khao khát hạnh phúc không thể nguôi ngoai; chúng ta đang tìm kiếm ý nghĩa và phương hướng cho cuộc sống của mình, tìm kiếm động lực cho những hoạt động mà chúng ta thực hiện hàng ngày; và trên hết chúng ta khao khát tình yêu, bởi vì chỉ có tình yêu mới thực sự làm chúng ta thỏa mãn, làm cho chúng ta cảm thấy dễ chịu, mở ra cho chúng ta niềm tin, và cho phép chúng ta tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống. Anh chị em thân mến, đức tin Kitô giáo đáp lại cơn khát này; hãy suy xét nó cách nghiêm túc; đừng loại bỏ nó, đừng cố gắng xoa dịu nó bằng những hình thức giảm nhẹ hoặc thay thế. Bởi vì mầu nhiệm cao cả của chúng ta nằm ở niềm khao khát này: nó mở ra cho chúng ta một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng đến gặp chúng ta để làm cho chúng ta thành con cái của Người và anh chị em của của nhau.
Giờ đây chúng ta đi đến khía cạnh thứ hai: tình yêu làm dịu cơn khát của chúng ta. Đây là nội dung của đức tin Kitô giáo: Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, nơi Chúa Giêsu Con của Người, đã trở nên gần gũi bạn, muốn chia sẻ cuộc sống của bạn, những vất vả, những ước mơ, cơn khát hạnh phúc của bạn. Đúng là đôi khi chúng ta cảm thấy mình như một vùng đất sa mạc, khô không giọt nước, nhưng cũng đúng là Thiên Chúa chăm sóc chúng ta và ban cho chúng ta dòng nước trong lành và làm dịu cơn khát, dòng nước chảy tuôn tràn nơi chúng ta, đổi mới chúng ta, giải phóng chúng ta khỏi nguy cơ cháy khát. Chúa Giêsu ban cho chúng ta nước này, như Thánh Augustinô khẳng định: “nếu chúng ta nhận ra mình bị khát, thì chúng ta cũng sẽ nhận ra mình được giải khát” (về Tv 62, 3). Thật vậy, nếu rất nhiều lần trong đời chúng ta trải qua sa mạc, cô đơn, mệt mỏi, cằn cỗi, chúng ta không được quên điều này: “Để chúng ta không ngất xỉu trong sa mạc này – thánh Augustinô nói thêm – Thiên Chúa rảy trên chúng ta sương Lời Người [ … ]. Thật vậy, Người làm chúng ta cảm thấy khát nhưng sau đó Người lại làm dịu nó đi. […] Thiên Chúa đã thương xót chúng ta và mở đường cho chúng ta trong sa mạc: Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Và Người đã ban cho chúng ta niềm an ủi trong sa mạc: những người rao giảng Lời Người. Người đã ban cho chúng ta nước trong sa mạc, đổ đầy Thánh Thần trên những người rao giảng để tạo nên nơi họ một nguồn nước dâng lên đến sự sống đời đời” (ibid., 3.8). Anh chị em thân mến, những lời này nhắc lại lịch sử của anh chị em: nơi sa mạc cuộc sống và nơi khó khăn của một cộng đoàn nhỏ bé, Chúa không để anh chị em thiếu nước Lời Người, nhất là qua những người rao giảng và những nhà truyền giáo, những người được Chúa Thánh Thần xức dầu, những người gieo vẻ đẹp. Và Lời Chúa luôn đưa chúng ta trở lại với những điều thiết yếu của đức tin: hãy để cho mình được Thiên Chúa yêu thương hầu cho cuộc sống của chúng ta trở thành một lễ vật yêu thương. Bởi vì chỉ có tình yêu mới thực sự làm dịu cơn khát của chúng ta.
Đó là điều Chúa Giêsu, trong bài Tin Mừng hôm nay, đã mạnh mẽ nói với tông đồ Phêrô. Ông không chấp nhận sự thật rằng Chúa Giêsu phải chịu đau khổ, bị các nhà lãnh đạo dân chúng vu cáo, chịu khổ hình rồi chết trên thập giá. Phêrô phản ứng, phản kháng, ông muốn thuyết phục Chúa Giêsu rằng Người sai, bởi vì theo ông – và chúng ta cũng đã nghĩ như vậy – rằng Đấng Messia không thể có kết cục thất bại, và Người tuyệt đối không thể bị đóng đinh vào thập giá, như một tội phạm bị Thiên Chúa bỏ rơi. Nhưng Chúa đã khiển trách Phêrô, vì lối suy nghĩ này là “theo kiểu thế gian” chứ không theo Thiên Chúa (x. Mt 16:21-23). Nếu chúng ta cho rằng thành công, quyền lực, của cải vật chất là đủ để thỏa mãn cơn khát trong cuộc sống thì đây là não trạng thế gian, không dẫn đến điều gì tốt đẹp, trái lại còn khiến chúng ta khô cằn hơn trước. Ngược lại, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16:24-25).
Anh chị em thân mến, con đường tốt nhất là: hãy ôm lấy Thánh giá của Chúa Kitô. Nơi tâm điểm Kitô giáo, có tin sốc và lạ thường này: khi bạn mất đi sự sống mình, khi bạn dâng hiến nó cách quảng đại, khi bạn mạo hiểm nó qua sự dấn thân trong tình yêu, khi bạn biến nó thành quà tặng miễn phí cho người khác, thì sự sống đó sẽ quay trở lại với bạn cách dồi dào, và nó mang lại cho bạn một niềm vui không mất, một sự bình an trong tâm hồn, một sức mạnh nội tâm nâng đỡ bạn.
Đây là sự thật mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta khám phá, mà Chúa Giêsu muốn mặc khải cho tất cả anh chị em, cho vùng đất Mông Cổ này: anh chị em không cần phải lớn lao, giàu có hay quyền lực mới có được hạnh phúc. Chỉ có tình yêu mới làm thoả cơn khát trái tim chúng ta, chỉ có tình yêu mới chữa lành vết thương của chúng ta, chỉ có tình yêu mới mang lại cho chúng ta niềm vui đích thực. Và đây là con đường Chúa Giêsu đã dạy và mở ra cho chúng ta.
Vậy chúng ta cũng hãy lắng nghe lời Chúa nói với Phêrô: “Hãy lui lại đàng sau Thầy” (Mt 16:23), nghĩa là: hãy trở thành môn đệ của Thầy, hãy bước đi trên con đường Thầy đi và đừng suy nghĩ theo kiểu thế gian nữa. Khi đó, với ân sủng của Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ có thể bước đi trên con đường tình yêu. Thậm chí, yêu thương có nghĩa là từ bỏ chính mình, đấu tranh chống lại sự ích kỷ cá nhân và thế gian, chấp chận mạo hiểm để sống tình huynh đệ. Bởi vì nếu đúng là tất cả những điều này đều đòi hỏi phải trả giá bằng vất vả, hy sinh, và đôi khi phải leo lên thập giá, và càng đúng hơn khi chúng ta mất mạng sống vì Tin Mừng, thì Chúa lại ban cho chúng ta tràn đầy tình yêu và niềm vui một cách tràn đầy và mãi mãi.
Vào cuối Thánh Lễ, Đức Thánh Cha đã cảm ơn chính quyền và Giáo hội Mông Cổ, đặc biệt là những người đã chuẩn bị cho chuyến tông du được diễn ra tốt đẹp. Cuối cùng, Đức Thánh Cha nói: “Anh chị em ở trong trái tim tôi và anh chị em sẽ ở lại trong tim tôi mãi. Xin hãy nhớ đến tôi trong lời cầu nguyện và trong tâm tưởng của anh chị em.”
Kết thúc Thánh Lễ, Đức Thánh Cha trở lại Toà Sứ Thần để nghỉ đem, kết thúc ngày thứ 3 của chuyến tông du.
Nguồn tin: vaticannews.va/vi
2023
Diễn văn của ĐTC trong buổi gặp các GM, LM, tu sĩ…
Diễn văn của ĐTC trong buổi gặp các GM, LM, tu sĩ…
Trong buổi gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ, và các nhân viên mục vụ tại Nhà thờ Chính toà hai Thánh Phêrô và Phaolô, trích lời Thánh vịnh 34 “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy”, Đức Thánh Cha khẳng định chính vì cảm nghiệm được tình yêu Chúa mà các nhà truyền giáo đã cống hiến cuộc đời loan báo Tin Mừng. Ngài mời gọi mọi người tiếp tục dấn thân, hiệp thông với giám mục và Giáo hội, và tin rằng Đức Mẹ luôn đồng hành.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Cám ơn Đức cha vì những lời tốt đẹp. Cám ơn sơ Salvia, cha Peter Sanjaa và Rufina vì những chứng từ của anh chị em. Cám ơn tất cả anh chị em vì sự hiện diện và đức tin của anh chị em! Tôi rất vui được gặp anh chị em. Niềm vui Tin Mừng là lý do thôi thúc anh chị em, những người nam nữ thánh hiến trong đời sống tu trì và thừa tác vụ linh mục hiện diện nơi đây, và cùng với anh chị em giáo dân hiến mình cho Chúa và cho người khác. Tôi chúc tụng Chúa vì điều đó. Tôi dâng lời chúc tụng qua lời nguyện ngợi khen tuyệt vời, Thánh vịnh 34, truyền cảm hứng cho tôi chia sẻ một số suy nghĩ với anh chị em. Thánh vịnh mời gọi: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy” (c. 9).
Hãy nghiệm xem, hãy nếm thử và hãy nhìn xem, bởi vì niềm vui và sự tốt lành của Chúa không phải là điều gì chóng qua, nhưng ở lại bên trong, mang lại hương vị cho cuộc sống và làm cho chúng ta nhìn mọi thứ theo một cách mới; như Rufina đã nói với chúng ta qua chứng tá tốt đẹp. Vì thế, tôi muốn hưởng nếm hương vị đức tin ở mảnh đất này bằng cách trước hết gợi lên trong tâm trí hết mọi khuôn mặt, những câu chuyện và cuộc đời dành cho Tin Mừng. Dành cuộc đời mình cho Tin Mừng. Đó là một cách hay để xác định ơn gọi truyền giáo của các Kitô hữu, và đặc biệt ơn gọi đó đang được các Kitô hữu ở đây sống như thế nào.
Tôi bắt đầu bằng việc tưởng nhớ đến Đức cha Wenceslao Selga Padilla, Phủ doãn Tông tòa đầu tiên, người tiên phong trong lịch sử đương đại của Giáo hội ở Mông Cổ và là người đã xây dựng Nhà thờ Chính Tòa này. Tuy nhiên, ở vùng đất này, đức tin không chỉ có từ những năm 90 của thế kỷ trước, nhưng đã có nguồn gốc rất xa xưa. Những kinh nghiệm của thiên niên kỷ thứ nhất, được đánh dấu bằng phong trào loan báo Tin Mừng theo truyền thống Syriac lan rộng dọc theo con đường tơ lụa, được theo sau bởi một sự dấn thân truyền giáo đáng kể. Làm sao chúng ta có thể quên được các sứ mạng ngoại giao của thế kỷ XIII, cũng như việc chăm sóc tông toà được thể hiện bởi việc bổ nhiệm Đức cha Giovanni da Montecorvino làm Giám mục đầu tiên của Khān Bālīq vào khoảng năm 1310, và do đó ngài chịu trách nhiệm coi sóc toàn bộ khu vực rộng lớn này trên thế giới dưới triều đại Nguyên Mông? Chính ngài là người đã cung cấp bản dịch tiếng Mông Cổ đầu tiên của sách Thánh Vịnh và Tân Ước. Câu chuyện vĩ đại về niềm say mê Tin Mừng này đã được hồi sinh một cách đặc biệt vào năm 1992 với sự xuất hiện của các nhà truyền giáo đầu tiên của Hội dòng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, cùng với sự tham gia của các hội dòng khác, các giáo sĩ và giáo dân tình nguyện. Trong số đó tôi muốn nhắc đến cha Stephano Kim Seong-hyeon năng động và nhiệt thành. Và chúng ta hãy nhớ đến nhiều tôi tớ trung thành của Tin Mừng ở Mông Cổ hiện đang ở đây với chúng ta và là những người, sau khi cống hiến cả cuộc đời cho Chúa Kitô, đã thấy và nếm trải những điều kỳ diệu mà lòng nhân lành của Chúa tiếp tục hành động nơi anh chị em và qua anh chị em.
Nhưng tại sao lại dành cuộc đời cho Tin Mừng? Như Rufina đã nói, đời sống Kitô hữu không ngừng đặt ra những câu hỏi, như các trẻ em luôn đòi hỏi những điều mới mẻ. Và đời sống Kitô hữu đến gần Chúa và luôn đặt câu hỏi, để hiểu Chúa và sứ điệp của Người hơn. Hãy cống hiến cuộc đời cho Tin Mừng (Tv 34). Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra, có thể chạm đến, gặp gỡ trong Chúa Giêsu. Vâng, Chúa Giêsu là Tin Mừng dành cho mọi dân tộc, lời loan báo mà Giáo hội không ngừng công bố, thể hiện trong cuộc sống và nói thỏ thẻ vào tâm hồn mọi người và mọi văn hóa. Trải nghiệm tình yêu Thiên Chúa nơi Chúa Kitô là ánh sáng thuần khiết biến đổi khuôn mặt và làm cho nó sáng ngời. Anh chị em thân mến, đời sống Kitô hữu nảy sinh từ việc chiêm ngưỡng dung nhan này, đó là vấn đề tình yêu, gặp gỡ hàng ngày với Chúa trong Lời và trong Bánh sự sống, và trong khuôn mặt người khác, nơi những người nghèo khổ, nơi họ Chúa Giêsu hiện diện.
Trong 31 năm hiện diện ở Mông Cổ này, anh chị em, linh mục, tu sĩ nam nữ và các nhân viên mục vụ rất thân mến, anh chị em đã thực hiện nhiều sáng kiến bác ái đa dạng, thu hút phần lớn năng lượng của anh chị em và phản ánh khuôn mặt thương xót của Chúa Kitô, Người Samari nhân hậu. Theo một cách nào đó, đây là tấm danh thiếp của anh chị em, làm cho anh chị em được tôn trọng và quý mến vì những lợi ích đã mang lại cho nhiều người trong nhiều lĩnh vực khác nhau: từ hỗ trợ xã hội đến giáo dục, chăm sóc sức khỏe và quảng bá văn hóa. Tôi khuyến khích anh chị em tiếp tục con đường hiệu quả và thiện ích này cho người dân Mông Cổ thân yêu.
Đồng thời, tôi mời gọi anh chị em nếm thử và nhìn xem Thiên Chúa, hãy luôn quay trở lại với cái nhìn nguyên thủy mà từ đó mọi sự đã được sinh ra. Thực vậy, nếu không, sức mạnh của chúng ta sẽ thất bại và dấn thân mục vụ có nguy cơ trở thành việc cung cấp các dịch vụ vô ích, một danh sách các nhiệm vụ nhưng cuối cùng chỉ mang lại sự mệt mỏi và thất vọng. Thay vào đó, bằng cách tiếp xúc với khuôn mặt Chúa Kitô, tìm hiểu Người trong Kinh Thánh và chiêm ngưỡng Người trong sự thinh lặng tôn thờ trước Nhà tạm, anh chị em sẽ nhận ra Người trên khuôn mặt của những người mình phục vụ và anh chị em sẽ cảm thấy được đánh động bởi một niềm vui sâu sắc, niềm vui đó để lại bình an trong tâm hồn ngay cả trong lúc khó khăn. Điều chúng ta cần, không phải những người bận bịu và phân tâm để lo cho các dự án, đôi khi có nguy cơ tỏ ra chán nản bực bội vì một cuộc sống chắc chắn không hề dễ dàng. Kitô hữu là người có khả năng tôn thờ, tôn thờ trong thinh lặng. Và sau đó, từ sự thờ phượng này đưa đến hoạt động. Nhưng đừng quên việc tôn thờ. Chúng ta đã phần nào đánh mất cảm thức tôn thờ trong thế kỷ thực dụng này. Đừng quên tôn thờ. Chúng ta cần trở về nguồn, về với dung nhan Chúa Giêsu, về với sự hiện diện của Người để được hưởng nếm: Người là kho báu của chúng ta (Mt 13,44), viên ngọc quý đáng phải tiêu tốn mọi thứ để có được (Mt 13,45). Những anh chị em Mông Cổ, những người có ý thức rõ ràng về sự thánh liêng và, – như là sự điển hình của lục địa châu Á – một lịch sử tôn giáo rộng lớn và nề nếp, đang chờ đợi chứng từ này của anh chị em và họ biết cách nhận ra tính chân thực của những chứng từ này. Đó là một chứng tá mà anh chị em phải đưa ra, bởi vì Tin Mừng không phát triển qua việc chiêu dụ, Tin Mừng phát triển qua chứng tá.
Khi sai các môn đệ vào thế giới, Chúa Giêsu đã không sai họ đi truyền bá tư tưởng chính trị, nhưng làm chứng bằng cuộc sống của họ cho sự mới mẻ của mối tương quan với Chúa Cha, Đấng đã trở thành “Cha của chúng ta” (Ga 20,17), là nguồn của tình huynh đệ cụ thể với mọi người. Giáo hội ra đời từ lệnh truyền này là một Giáo hội nghèo, chỉ dựa vào đức tin đích thực, vào quyền năng loại trừ vũ khí của Đấng Phục Sinh, có khả năng xoa dịu nỗi đau khổ của nhân loại bị tổn thương. Đây là lý do vì sao các chính phủ và các tổ chức thế tục không có gì phải lo sợ trước hoạt động loan báo Tin Mừng của Giáo hội, bởi vì Giáo hội không có một chương trình nghị sự chính trị nào để theo đuổi, nhưng chỉ biết đến sức mạnh khiêm tốn của ân sủng Thiên Chúa và Lời của lòng thương xót và sự thật, có khả năng thúc đẩy điều tốt đẹp cho mọi người.
Để hoàn thành sứ vụ này, Chúa Kitô đã ban cho Giáo hội của Người một cơ cấu gợi lại sự hòa hợp tồn tại giữa các chi thể khác nhau của thân thể con người: Người là Đầu, tức là Đấng tiếp tục hướng dẫn Giáo hội, tuôn đổ vào Thân thể, tức là trong chúng ta, cùng một Thánh Thần của Người, hoạt động trước hết trong những dấu hiệu của sự sống mới là các Bí tích. Để bảo đảm tính chân thực và hiệu quả của Giáo hội, Người đã thiết lập chức tư tế, được đánh dấu bằng sự kết hợp mật thiết với Người, vị Mục Tử nhân lành, Đấng đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Cả cha Phêrô nữa, cha cũng đã được kêu gọi thực hiện sứ vụ này, cám ơn cha đã chia sẻ kinh nghiệm này. Như vậy, dân thánh Chúa ở Mông Cổ cũng được hưởng đầy đủ các ân sủng thiêng liêng. Và trong quan điểm này, tôi mời gọi anh chị em hãy nhìn nơi vị Giám mục không phải là một người quản lý, nhưng là hình ảnh sống động của Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, Đấng quy tụ và hướng dẫn dân Người; một người môn đệ tràn đầy đặc sủng tông đồ để xây dựng tình huynh đệ của anh chị em trong Chúa Kitô và luôn đâm rễ sâu hơn nữa vào quốc gia có bản sắc văn hóa cao quý này. Do đó, việc Giám mục của anh chị em là Hồng Y có nghĩa là một biểu hiện sâu sắc hơn của sự gần gũi: tất cả anh chị em, chỉ xa cách về mặt thể lý, nhưng rất gần gũi với trái tim của Thánh Phêrô và toàn thể Giáo hội Công giáo gần gũi với anh chị em, với cộng đoàn anh chị em, vốn là Công giáo thực sự, nghĩa là phổ quát và thu hút sự đồng cảm của tất cả anh chị em rải rác khắp thế giới hướng về Mông Cổ, trong sự hiệp thông lớn lao của Giáo hội.
Tôi nhấn mạnh cụm từ này: hiệp thông. Giáo hội không được hiểu dựa trên một tiêu chuẩn thuần túy chức năng. Giáo hội là sự hiệp thông. Cụm từ “hiệp thông” giải thích cho chúng ta rõ ràng Giáo hội là gì. Trong thân mình Giáo hội này Giám mục không phải là người điều khiển các thành phần khác nhau, thậm chí có thể dựa trên nguyên tắc đa số, nhưng dựa trên một nguyên tắc thiêng liêng, qua đó chính Chúa Giêsu hiện diện nơi con người của Giám Mục, bảo đảm sự hiệp thông trong Nhiệm Thể của Người. Nói cách khác, sự hiệp nhất trong Giáo hội không phải là vấn đề trật tự và tôn trọng, cũng không phải là một chiến lược tốt để “làm việc nhóm”; đó là vấn đề đức tin và tình yêu đối với Chúa, là lòng trung thành với Người. Do đó, điều quan trọng là tất cả các thành phần trong Giáo hội phải hiệp nhất xung quanh Giám mục, người đại diện Chúa Kitô hằng sống ở giữa dân Người, bằng cách xây dựng sự hiệp thông vốn đã được loan báo và giúp ích rất nhiều cho việc hội nhập đức tin.
Các nhà Truyền giáo thân mến, hãy nếm thử và nhìn xem món quà là chính anh chị em, vẻ đẹp của việc hiến thân hoàn toàn cho Chúa Kitô, Đấng đã kêu gọi anh chị em làm chứng cho tình yêu Người ngay tại Mông Cổ này. Hãy tiếp tục làm như vậy bằng cách vun trồng sự hiệp thông. Hãy thực hiện nó trong sự đơn sơ của một cuộc sống thanh đạm, noi gương Chúa, Đấng đã vào Giêrusalem trên lưng lừa và thậm chí còn bị lột trần trên Thánh giá. Hãy luôn gần gũi với mọi người, đó là thái độ của Thiên Chúa: Thiên Chúa gần gũi, nhân hậu và dịu dàng. Anh chị em hãy sống như vậy với mọi người, quan tâm đến họ, học ngôn ngữ của họ, tôn trọng và yêu mến nền văn hóa của họ, không để mình bị cám dỗ bởi sự an toàn trần thế, nhưng kiên vững với Tin Mừng qua một gương mẫu chính trực về đời sống thiêng liêng và luân lý. Và đó là sự đơn sơ và gần gũi, không mệt mỏi mang đến cho Chúa Giêsu những khuôn mặt và những câu chuyện mà anh chị em gặp, những vấn đề và mối quan tâm, khi dành thời gian cầu nguyện hàng ngày để giúp anh chị em đứng vững trong công việc phục vụ và kín múc từ “Thiên Chúa của mọi niềm an ủi” ( 2Cr 1, 3), niềm hy vọng mang lấy những người khổ đau vào trong trái tim mình.
Thật vậy, gần gũi với Chúa, một niềm xác tín được củng cố trong chúng ta, như Thánh vịnh 34 luôn tỏ cho chúng ta: “Ai kính sợ Ngài chẳng thiếu thốn chi. […] Ai tìm kiếm Chúa chẳng thiếu thốn gì” (c. 10-11). Tất nhiên, những sự mất cân bằng và mâu thuẫn trong cuộc sống cũng liên hệ đến các tín hữu, và những người rao giảng Tin Mừng không thoát khỏi gánh nặng bất an vốn thuộc về thân phận con người. Tác giả Thánh Vịnh không ngại nói về sự ác và những kẻ làm điều ác, nhưng nhắc nhớ rằng, trước tiếng kêu của những người khiêm nhường, Thiên Chúa “giải thoát họ khỏi mọi cơn nguy khốn”, bởi vì “Người ở gần những tấm lòng tan vỡ” và “cứu những tâm hồn thất vọng ê chề” (c. 18-19). Vì lý do này, Giáo hội thể hiện mình trước thế giới như một tiếng nói liên đới với tất cả những người nghèo khổ và thiếu thốn, không im lặng trước những bất công và với sự hiền lành, dấn thân thăng tiến phẩm giá của mỗi người.
Anh chị em rất thân mến, trong hành trình môn đệ truyền giáo này, anh chị em có một sự hỗ trợ vững chắc: Mẹ Thiên quốc của chúng ta – và tối rất thích khám phá điều này – mong muốn mang đến cho anh chị em một dấu hiệu hữu hình về sự diện diện kín đáo và ân cần của Mẹ, bằng cách để ảnh tượng của mình được tìm thấy ở một bãi rác. Trong đống rác, bức tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội xinh đẹp xuất hiện. Mẹ không tì vết, không tội lỗi muốn đến gần chúng ta đến mức đi xuống tận cặn bã của xã hội, để từ đống rác rưởi bẩn thỉu mà sự thanh khiết của Mẹ Thiên Chúa thánh thiện có thể tỏa sáng. Tôi cũng được biết về truyền thống thú vị của người Mông Cổ về suun dalai ijii, người mẹ có trái tim rộng lớn như đại dương sữa. Nếu trong chuyện kể Lịch sử huyền bí của người Mông Cổ, việc mang thai của nữ hoàng huyền thoại Alungoo là ánh sáng xuyên qua từ lỗ trên của ger, thì anh chị em có thể chiêm ngưỡng nơi Đức Trinh Nữ Maria ánh sáng từ mẫu từ trên cao đồng hành mỗi ngày với những bước đi của Giáo hội anh chị em.
Vì thế, khi ngước mắt nhìn lên Đức Maria, anh chị em có thể tìm được sự bình yên, khi thấy rằng sự nhỏ bé không phải là một vấn đề mà là một tài nguyên. Đúng vậy, Thiên Chúa yêu thích sự nhỏ bé và ưu thích thực hiện những điều vĩ đại qua sự nhỏ bé, như Đức Maria đã làm chứng (Lc 1, 48-49). Anh chị em thân mến, đừng lo lắng về những con số nhỏ bé, những thành công muộn màng, những điều to lớn không xuất hiện. Đây không phải là đường lối của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria, Đấng cao cả hơn cả trời trong sự bé nhỏ của mình, vì Mẹ đã đón nhận nơi mình Đấng mà các tầng trời không thể chứa được (1V 8,27). Chúng ta hãy phó mình cho Mẹ, cầu xin Mẹ một lòng nhiệt thành mới, một tình yêu nồng nàn không bao giờ mệt mỏi làm chứng cho Tin Mừng với niềm vui. Hãy tiếp tục, can đảm, không mệt mỏi tiến bước. Cám ơn vì chứng tá của anh chị em. Thiên Chúa, Đấng đã chọn và tin tưởng anh chị em; tôi ở với anh chị em và với tất cả tâm hồn tôi nói với anh chị em: cám ơn vì chứng tá của anh chị em, cám ơn vì cuộc đời anh chị em đã dành cho Tin Mừng. Hãy tiếp tục như thế, kiên trì cầu nguyện và sáng tạo trong bác ái, kiên trì hiệp thông, vui tươi và hiền lành trong mọi sự và với mọi người. Tôi chúc lành và nhớ đến anh chị em. Và xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi. Cám ơn anh chị em!
Nguồn tin: vaticannews.va/vi
2023