2021
Giáo hội Ba Lan tổ chức ‘ngày liên đới’ với người dân Afghanistan
Giáo Hội Công giáo ở Ba Lan sẽ tổ chức “ngày liên đới” để hiệp thông với người dân Afghanistan gặp nhiều đau khổ vì chiến tranh, vào ngày 5 tháng 9 tới đây.
Đức Tổng Giám mục Stanisław Gądecki, chủ tịch hội đồng giám mục Ba Lan./ episkopat.pl.
Đức Tổng giám mục Stanisław Gądecki, chủ tịch hội đồng giám mục Ba Lan, đã kêu gọi người Công giáo cầu nguyện và hỗ trợ tài chính cho 38 triệu người ở quốc gia đa số theo đạo Hồi hiện đang nằm dưới sự kiểm soát của Taliban.
“Lắng nghe tiếng nói của Đức Thánh Cha Phanxicô, người đã kêu gọi tất cả những người thiện chí ‘cầu nguyện với Thiên Chúa , để những tiếng ồn ào của khí giới trở nên im lặng, và các giải pháp hòa bình có thể được tìm thấy trên bàn đối thoại’, tôi kêu gọi các mục tử và các tín hữu của Giáo hội ở Ba Lan cầu nguyện và trợ giúp vật chất cho những người đang đau khổ ở Afghanistan,” Đức Tổng giám mục Gądecki viết trong một thông điệp ngày 27 tháng 8.
Các Đức giám mục của Ba Lan đã nhất trí ủng hộ một chiến dịch toàn quốc hiệp thông với những người Afghanistan bị vướng vào biến động hiện nay trong một cuộc họp tại Jasna Góra, miền nam Ba Lan, vào ngày 25 tháng 8.
Các chiến binh Taliban đã giành quyền kiểm soát thủ đô Kabul của Afghanistan vào ngày 15 tháng 8. Bước tiến nhanh chóng của nhóm này diễn ra khi nhiều thường dân Afghanistan và công dân Hoa Kỳ tìm cách rời khỏi đất nước này trước khi Mỹ và các lực lượng khác rút lui hoàn toàn.
Khi chương trình sơ tán tại sân bay Kabul kết thúc, sau một vụ đánh bom giết chết 13 quân nhân Hoa Kỳ, hàng nghìn người di chuyển đến biên giới của Afghanistan trong nỗ lực thoát khỏi nơi đây.
Ba Lan đã đưa 937 người Afghanistan ra khỏi sân bay Kabul trong chiến dịch sơ tán. Họ sẽ được hỗ trợ bởi các cơ quan chức năng ở quốc gia Trung Âu.
Trong một diễn biến đặc biệt, một nhóm người di cư từ Afghanistan vẫn bị mắc kẹt trong tình trạng bế tắc ở biên giới giữa Ba Lan và Belarus.
Những người Công giáo tham dự Thánh lễ trên khắp Ba Lan vào ngày 5 tháng 9 sẽ cầu xin ơn Chúa cho nền hòa bình ở Afghanistan trong Lời cầu nguyện của các tín hữu. Tiền dâng cúng sau Thánh lễ sẽ được dành để hỗ trợ công việc của Ủy ban Caritas với người di cư và người tị nạn, cả ở Ba Lan và nước ngoài.
Đức Tổng giám mục Gądecki giải thích: “Hợp tác với Caritas ở Pakistan, quốc gia có nhóm người tị nạn lớn nhất từ Afghanistan, một dự án can thiệp nhân đạo kéo dài ba tháng nhằm hỗ trợ khẩn cấp cho khoảng 1.500 gia đình”.
Ngài nói thêm: “Caritas Ba Lan sẽ khởi động một chương trình toàn quốc để hỗ trợ những người tị nạn ngay tại quê hương của chúng ta – từ trợ giúp tinh thần, tâm lý và xã hội, đến hỗ trợ ngôn ngữ, pháp lý và y tế, cũng như tư vấn nghề nghiệp, hỗ trợ đa văn hóa và hỗ trợ tình nguyện trong các giáo xứ và trên các phương tiện truyền thông.”
Sau buổi đọc kinh Truyền tin vào ngày 29 tháng 8, Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh mối quan tâm của ngài đối với người dân Afghanistan.
Ngài nói: “Trong những thời điểm lịch sử như thế này, chúng ta không thể thờ ơ, lịch sử của Giáo hội dạy chúng ta điều này.”
“Là những người theo Tin Chúa, tình huống này khiến chúng ta phải nỗ lực hết sức,” ngài tiếp tục. “Đó là lý do tại sao tôi kêu gọi anh chị em hãy tăng cường cầu nguyện và thực hành ăn chay. Cầu nguyện và ăn chay, cầu nguyện và sám hối”.
Duc Trung Vu, CSsR, theo Catholic News Agency (30.8.2021)
2021
Mở án phong thánh cho nữ y tá được ví như “thiên thần hộ mệnh” trong trại tù Auschwitz
Án phong thánh của một nữ y tá Công giáo Ba Lan, người đã hi sinh để giúp đỡ các bạn tù tại trại tập trung Đức Quốc xã Auschwitz đã được mở.
Đức cha Andrzej Jeż của giáo phận Tarnów đã ban hành một sắc lệnh thông báo mở Án phong thánh cho Stefania Łącka, người mà các tù nhân trong trại tập trung Auschwitz gọi trìu mến với cái tên là “thiên thần hộ mệnh nơi trần gian” của họ.
Đức cha Jeż nói rằng ngài đã thực hiện bước khởi đầu quan trọng này sau khi tham khảo ý kiến của hội đồng giám mục Ba Lan và được Bộ Phong thánh Vatican cho phép.
Ngài mời gọi những ai có tài liệu liên quan đến Łącka, xin gửi đến giáo phận trước ngày 7 tháng 9 để Cha Stanisław Sojka, cáo thỉnh viên vụ án sẽ hoàn thiện hồ sơ.
Cô Łącka (phát âm là “Wonska”) sinh ngày 6 tháng 1 năm 1914, tại Wola Żelichowska, một ngôi làng ở miền nam Ba Lan. Cô theo học tại một trường Sư phạm, tốt nghiệp năm 1933.
Từ năm 1934 đến năm 1939, cô làm việc cho Nasza Sprawa (“Our Case”), ấn phẩm Công giáo xuất bản hàng tuần của Giáo phận Tarnów, cô đã viết 700 bài báo và biên tập phần bổ sung dành cho trẻ em Króluj nam Chryste (“Chúa Kitô, trị vì chúng ta”).
Sau khi Đức Quốc xã xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, ban biên tập đã truyền đạt các kỹ năng của mình cho phong trào ngầm ở Ba Lan.
Cảnh sát mật của Đức Quốc xã đã bắt giữ Łącka và các thành viên khác của ban biên tập vào ngày 16 tháng 4 năm 1941.
Cô bị giam tại trụ sở Đức quốc xã ở Tarnów và sau đó là tại nhà tù địa phương. Cô bị thẩm vấn và tra tấn dã man, nhưng không tiết lộ tên của bất kỳ cộng sự viên nào của cô.
Cô Łącka được chuyển đi vào ngày 27 tháng 4 năm 1942, cùng với 60 nữ tù nhân khác đến trại Tập trung của Đức quốc xã, nơi cô mang số hiệu tù là 6886.
Tháng 6 năm 1942, một nữ tù nhân trốn trại. Các nhà chức trách buộc các tù nhân phải đứng ở quảng trường điểm danh trong hai ngày để chờ xem ai sẽ bị giết để chịu sự trừng phạt cho cuộc vượt ngục.
Sắc lệnh của Đức cha Jeż, đề ngày 26 tháng 7 và được thông báo trên trang web của giáo phận vào ngày 8 tháng 8, cho biết chi tiết: Łącka đang đứng bên cạnh người bạn của mình, Helena Panek, khi họ đang chờ đợi phán quyết dành cho số phận cuộc đời của mình. Łącka hứa rằng nếu Panek bị gọi đi thi hành bản án thì cô sẽ đi đến cái chết cùng Panek. May thay, các viên quản ngục đã được lệnh không tiến hành hình phạt theo kế hoạch của họ.
Trong khi chăm sóc người bệnh, Łącka bị bệnh sốt phát ban và được đưa vào bệnh viện của trại ở khu 23.
Cô hồi phục vào mùa xuân năm 1943 và bắt đầu làm việc trong bệnh viện của trại với tư cách là một y tá, sử dụng khả năng thành thạo tiếng Đức của mình để giúp đỡ các bệnh nhân.
“Mạo hiểm với mạng sống của mình, cô ấy đã rửa tội cho các trẻ sơ sinh và phục vụ những người bị bệnh nặng,” Đức cha Jeż lưu ý trong sắc lệnh. “Cô cũng trợ giúp những người hấp hối, an ủi họ trong những giờ phút cuối đời. Cô khuyến khích các nữ tù nhân khác cùng cầu nguyện với những người đang hấp hối. Mạo hiểm mạng sống của mình, cô cũng cứu những phụ nữ bị bệnh trong quá trình chọn người vào buồng hơi ngạt hoặc tiêm phenol bằng cách gạch tên họ ra khỏi danh sách tử hình. Các bạn tù gọi cô là ‘thiên thần hộ mệnh nơi trần gian’.”
Cô đã viết một cuốn sách cầu nguyện trong trại tập trung, và sách này còn được lưu giữ sau Chiến tranh thế giới thứ hai một cách nguyên vẹn.
Łącka thoát khỏi trại tập trung cùng năm người bạn đồng hành vào ngày 23 tháng 1 năm 1945, vài ngày sau khi trại bị đánh bom. Cô trở về ngôi nhà của gia đình mình ở Wola Żelichowska, nơi cô tham dự thánh lễ hàng ngày và giúp đỡ gia đình.
Cô bắt đầu theo học môn ngữ văn Ba Lan tại Đại học Jagiellonian ở Kraków, nhưng sức khỏe giảm sút khiến cô được đưa vào một bệnh viện trong thành phố vào tháng 10 năm 1946.
Cô qua đời vào ngày 7 tháng 11 năm 1946, ở tuổi 33.
Trong sắc lệnh của mình, Đức cha Jeż nói rằng linh đạo của cô Lącka đã trình bày một tấm gương cho các Kitô hữu ngày nay. Ngài viết: “Stefania Lacka nổi bật nhờ sự trổi vượt các nhân đức của đức tin, đức cậy, đức mến và lòng đạo đức nhiệt thành”. Từ ngày cô qua đời cho đến nay, lòng sùng mến cá nhân dành cho cô trở nên phổ biến nơi nhiều người tín hữu.”
Duc Trung Vu, CSsR, theo Catholic News Agency (31.8.2021)
2021
Sau khi phẫu thuật, Đức Thánh Cha khẳng định: ngài không nghĩ đến việc “từ nhiệm”
Trả lời phỏng vấn của ông Carlos Herrera trên Radio COPE, tiếng Tây Ban Nha, về việc báo chí trong những ngày gần đây đưa tin rằng ngài sẽ từ nhiệm, Đức Thánh Cha khẳng định rằng: “điều đó thậm chí còn không xuất hiện trong ý nghĩ của tôi nữa.”
“Lần thứ hai được một y tá cứu mạng”
Trong cuộc phỏng vấn dài hơn một tiếng rưỡi, nói về cuộc phẫu thuật đại tràng hồi đầu tháng 7, Đức Thánh Cha nói rằng, một y tá “đã cứu mạng” ngài. Một y tá của Vatican đã giải thích với Đức Thánh Cha là ngài nên được phẫu thuật, bên cạnh những người khác cho rằng ngài chỉ cần uống kháng sinh. Ngài nói rằng đây là lần thứ hai một y tá cứu ngài. Lần thứ nhất là vào năm 1957, khi còn ở chủng viện, khi ngài bị dịch cúm và được đưa đến bệnh viện. Người ta đã rút nước từ phổi của ngài. Một nữ tu y tá đã cho ngài dùng gấp đôi số kháng sinh bác sĩ yêu cầu và điều đó đã cứu ngài.
Về chuyến thăm Budapest và Slovakia sắp tới, Đức Thánh Cha cho biết ngài sẽ phải cẩn thận, nhưng cuối cùng nó sẽ giống như những chuyến tông du khác.
Chưa bao giờ có ý nghĩ “từ nhiệm”
Nhà báo Herrera đặt câu hỏi về việc khi Đức Thánh Cha có vấn đề về sức khoẻ, giới truyền thông, đặc biệt là của Ý, nói về việc từ nhiệm… Đức Thánh Cha cho biết, ngài chỉ biết báo chí nói về việc ngài từ nhiệm vài ngày sau. Và ngài nhận xét: “Bất cứ khi nào một Giáo hoàng bị bệnh, thì luôn có một làn gió thoảng hoặc một cơn cuồng phong về mật nghị”.
Đức Thánh Cha nói thêm vào cuối cuộc phỏng vấn: “Tôi không biết họ lấy đâu ra thông tin từ tuần trước rằng tôi sẽ từ nhiệm! Họ đã hiểu từ ngữ nào tại đất nước của tôi? Đó là nơi mà tin tức phát đi. Và họ nói rằng đó là một sự chấn động, khi nó thậm chí còn không xuất hiện trong tâm trí của tôi. Khi có những diễn giải hơi méo mó về một số từ ngữ của tôi, tôi giữ im lặng, bởi vì cố gắng giải thích chúng thì còn tệ hơn”. (CSR_5858_2021)
Nguồn: vaticannews.va/vi/
2021
ĐHY Parolin gửi sứ điệp video đến Diễn đàn Toàn cầu về Hòa bình Hàn quốc
ĐHY Parolin gửi sứ điệp video đến Diễn đàn Toàn cầu về Hòa bình Hàn quốc
Trong sứ điệp gửi hôm thứ Ba 31/8 đến Diễn đàn Toàn cầu về Hòa bình Hàn quốc (KGFP), Đức Hồng y Parolin Pietro, Quốc vụ khanh Toà Thánh trình bày “Vai trò của Giáo hội trong việc thiết lập hòa bình trên Bán đảo Triều Tiên”, đưa ra các nguyên tắc, giá trị và ý tưởng từ truyền thống của Giáo hội và Tin Mừng, điều có thể giúp mang lại hòa bình và hòa giải trên bán đảo.
Thả bóng bay hình bồ câu hoà bình tại Bán đảo Triều Tiên
Diễn đàn Toàn cầu về Hòa bình Hàn quốc do Bộ Thống nhất Hàn Quốc tổ chức hàng năm, quy tụ các chuyên gia, các nhà nghiên cứu và các quan chức chính phủ từ hơn 20 nước tham gia. Chủ đề năm nay từ 31/8 đến 02/9, là “Một Tầm nhìn mới cho Quan hệ Liên Triều Tiên và Cộng đồng: Vì Hòa bình, Kinh tế và Đời sống”.
Trong sứ điệp, đi từ giáo huấn của Thánh Giáo hoàng Phaolô VI, về con người và các quốc gia phải gặp gỡ nhau như anh chị em, con cái Thiên Chúa, và cùng nhau xây dựng tương lai chung, nhằm tạo ra những điều kiện cho sự phát triển toàn diện dựa trên tình liên đới, Đức Hồng y Parolin chỉ ra rằng quá trình này được thúc đẩy bằng các hành động chào đón, đồng hành và lắng nghe.
Về sự chào đón. Bước đầu tiên để thực sự chào đón người khác là đến gần họ, tạo không gian cho họ trong cuộc sống của chúng ta, sẵn sàng chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của chúng ta và xây dựng các tương quan đích thực.
Về sự đồng hành: Xã hội không thể phát triển hài hòa mọi lĩnh vực trừ khi chúng ta thực hiện các chiến lược chung, nhằm tôn trọng sự sống con người và sự đồng hành tiến bộ của con người. Cùng nhau làm việc để đạt được mục tiêu này đòi hỏi phải đưa ra các chính sách và ngoại giao với sự hiểu biết dựa trên thực tế.
Sau cùng, lắng nghe: Lắng nghe có thể thúc đẩy giải quyết các xung đột, hòa giải văn hóa và xây dựng hòa bình trong các cộng đồng và nhóm. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã lưu ý: “Đối thoại cho phép mọi người hiểu và đánh giá cao nhu cầu của nhau. Thường thì chúng ta không gặp được anh chị em của mình, ngay cả khi chúng ta đang sống bên cạnh họ, đặc biệt nếu chúng ta đang cố gắng làm cho vị trí của chúng ta chiếm ưu thế hơn vị trí của người khác… Đối thoại giúp nhân văn hóa các mối quan hệ của chúng ta và vượt qua những hiểu lầm”.
Đề cập đến tầm nhìn mới về mối quan hệ trên Bán đảo Triều Tiên, Quốc vụ khanh Toà Thánh đưa ra hình ảnh Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII. Theo Thánh Gioan XXIII, bước đầu tiên là luôn tìm những điều tốt đẹp ở mọi nơi và mọi lúc. Thứ hai, tìm kiếm những gì hợp nhất hơn là chia rẽ. Đối thoại dựa trên nguyên tắc này: nhằm mục đích thừa nhận và nâng cao những điều tốt đẹp hiện có ở người khác. Và chính nhờ điều này, Đức Giáo hoàng đã giúp giải quyết hoà bình cho cuộc khủng hoảng Cuba.
Tiếp đến nói về lập trường ngoại giao của Toà Thánh, Đức Hồng y nhấn mạnh rằng, ngày nay, hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh nhằm phục vụ cho cuộc gặp gỡ, vì ngoại giao chính xác là “nỗ lực vượt qua mọi rào cản và cùng nhau giải quyết các vấn đề mà nhân loại ngày nay đang đối mặt”.
Truyền thống Kitô giáo, và đặc biệt là Thánh Augustinô, dạy rằng các yếu tố thiết yếu của hòa bình là hòa hợp và trên hết là trật tự. Khi được áp dụng cho các sự kiện thế giới và cho cuộc sống cá nhân của con người, hòa bình có thể được mô tả như một “sự hòa hợp có trật tự” hoặc, như chính Thánh Augustinô đã thích mô tả nó, một “sự yên tĩnh của trật tự”.
Hòa bình không thể đạt được trên mặt đất trừ khi phúc lợi của con người được bảo vệ và mọi người được tự do, và trên tinh thần tin cậy, chia sẻ với nhau sự phong phú về trí tuệ và tài năng. Theo đó, hòa bình cũng là hoa trái của tình yêu, vì tình yêu vượt xa hơn những gì công lý có thể đạt được. Vì vậy, chúng ta có thể nói rằng hòa bình là hoa trái không chỉ của công lý mà còn của bác ái. Trong khi công lý yêu cầu chúng ta không vi phạm quyền của người khác và cung cấp cho mỗi cá nhân những gì đến hạn, thì bác ái khiến chúng ta cảm thấy nhu cầu của người khác như của chính mình và thúc đẩy sự hợp tác hiệu quả. Nếu không, chúng ta sẽ tiếp tục xây dựng một “nền hòa bình tiêu cực”, chỉ đơn thuần là không hiếu chiến hoặc không có chiến tranh. Tuy nhiên, hòa bình cuối cùng phải được hiểu theo nghĩa tích cực, là sự thúc đẩy những điều gắn kết chúng ta. Chúng ta có thể nói hòa bình là tình bạn.
Ngọc Yến