2021
ĐTC Phanxicô: Tình huynh đệ và học thuyết xã hội bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa dành cho con người
ĐTC Phanxicô: Tình huynh đệ và học thuyết xã hội bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa dành cho con người
Trong lời tựa viết cho cuốn sách “Tình huynh đệ: Dấu hiệu của thời đại” của Đức Hồng y Michael Czerny, do nhà xuất bản Vatican phát hành, về giáo huấn xã hội của Đức Thánh Cha trong thông điệp Fratelli tutti, Đức Thánh Cha nói rằng tình huynh đệ và giáo huấn xã hội của Giáo hội không nằm ngoài thần học nhưng bắt nguồn sâu xa từ tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Mở đầu lời tựa, Đức Thánh Cha viết: “Trọng tâm của Tin Mừng là công bố Nước Thiên Chúa, là con người của Chúa Giêsu – Emmanuel và Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thực vậy, nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa bày tỏ một cách dứt khoát dự án yêu thương đối với nhân loại, thiết lập quyền thống trị của Người trên các tạo vật và đưa vào lịch sử nhân loại hạt giống của sự sống thần linh, để biến đổi nó từ bên trong”.
Nước Thiên Chúa hiện diện khi xã hội tràn đầy tình huynh đệ
Đức Thánh Cha giải thích về cách thế ý niệm về tình huynh đệ được đặt nền tảng trong Nước Thiên Chúa: “Vương quốc của Thiên Chúa chắc chắn không thể bị đồng hoá hoặc nhầm lẫn với một số loại biểu hiện thế gian hoặc chính trị. Tuy nhiên, nó không nên được xác định bằng một thực tại hoàn toàn nội tâm, cá nhân và tâm linh, hoặc như một lời hứa chỉ dành cho thế giới bên kia”. “Vương quốc của Thiên Chúa ở đây và lúc này, trong khi vẫn là một lời hứa và là một tiếng kêu của vũ trụ đòi được giải phóng hoàn toàn”.
Theo Đức Thánh Cha, các Kitô hữu được kêu gọi để gieo trồng Nước Thiên Chúa trên trái đất. Đây là một khía cạnh xã hội của đức tin Kitô giáo mà chúng ta không bao giờ được quên. Nước Thiên Chúa sẽ được thể hiện trong thế giới của chúng ta khi mà xã hội tràn ngập “tình huynh đệ, công lý, hòa bình và phẩm giá cho tất cả mọi người. Đức Thánh Cha nhận định rằng theo nghĩa này, “sự quan tâm đến Đất Mẹ của chúng ta và nỗ lực xây dựng một xã hội dựa trên tình liên đới, trong đó tất cả chúng ta là anh chị em, không nằm ngoài mục đích của đức tin, mà là biểu hiện cụ thể của nó”.
Tình huynh đệ là một trong những dấu chỉ của thời đại
Đức Thánh Cha nói rằng tình huynh đệ là một trong những dấu chỉ của thời đại mà Vatican II nêu rõ và là điều mà thế giới chúng ta rất cần. Ngày nay “chúng ta không chỉ cần một Giáo hội trong thế giới hiện đại và đối thoại với nó, mà trên hết là một Giáo hội phục vụ nhân loại, chăm sóc cho công trình sáng tạo, cũng như công bố và thể hiện một tình huynh đệ phổ quát mới, trong đó các mối quan hệ của con người được chữa lành khỏi tính ích kỷ và bạo lực, và được thiết lập trên tình yêu thương, sự chào đón và liên đới với nhau”.
Hồng Thủy
2021
Sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 36
Sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 36
Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 36 sẽ được cử hành vào Chúa Nhật ngày 21/11/2021, lễ Chúa Ki-tô Vua vũ trụ. Trong Sứ điệp nhân Ngày này, có chủ đề: “Hãy trỗi dậy. Ta chọn ngươi làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy” (x. Cv 26,16), Đức Thánh Cha mời gọi các bạn trẻ làm chứng nhân cho Chúa Giê-su Ki-tô cách can đảm, theo gương thánh Phao-lô tông đồ.
Các bạn trẻ rước Thánh Giá Ngày Giới trẻ Thế giới
Sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 36
21/11/2021
“Hãy trỗi dậy. Ta chọn ngươi làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy” (x. Cv 26,16)
Các bạn trẻ thân mến,
Một lần nữa cha muốn nắm tay các con và cùng các con bước đi trên cuộc hành hương thiêng liêng hướng đến Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2023 ở Lisbon.
Sứ điệp năm ngoái mà cha ký không lâu trước khi đại dịch bùng phát có chủ đề: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” (Lc 7,14). Trong sự quan phòng của Người, Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta đối mặt với thử thách nặng nề mà khi đó chúng ta sắp trải qua.
Trên toàn thế giới, chúng ta đã phải chịu nỗi đau vì mất rất nhiều người thân yêu và vì sự cô lập xã hội. Tình trạng khẩn cấp về sức khỏe đã ngăn cản các bạn trẻ – với bản chất tự nhiên là hướng ngoại – đi ra ngoài để đến trường hoặc đại học, đi làm và gặp gỡ nhau. Các con rơi vào những tình huống khó khăn mà các con không quen xoay xở. Những người ít được chuẩn bị hơn hoặc thiếu sự hỗ trợ cảm thấy mất phương hướng. Chúng ta đã thấy các vấn đề của gia đình gia tăng, cũng như nạn thất nghiệp, trầm cảm, cô đơn và nghiện ngập, chưa kể đến căng thẳng tích tụ, sự tức giận bùng phát và bạo lực gia tăng.
Tuy nhiên, cảm tạ Chúa vì điều này chỉ là một mặt của đồng tiền. Nếu như thử thách tỏ cho chúng ta thấy sự yếu đuối mỏng manh của chúng ta, thì nó cũng bày tỏ những nhân đức của chúng ta, bao gồm khuynh hướng liên đới. Trên khắp thế giới chúng ta đã thấy nhiều người, trong đó có nhiều người trẻ, chiến đấu vì sự sống, gieo mầm hy vọng, bảo vệ tự do và công bình, là những người kiến tạo hòa bình và xây dựng những cầu nối.
Bất cứ khi nào một người trẻ vấp ngã, theo một nghĩa nào đó, tất cả nhân loại đều ngã. Tuy nhiên, nó cũng đúng là khi một người trẻ trỗi dậy, thì giống như cả thế giới cũng trỗi dậy. Các bạn trẻ yêu quý , các con nắm giữ trong tay tiềm năng lớn lao biết bao! Các con có sức mạnh to lớn biết bao trong trái tim!
Hôm nay cũng vậy, Thiên Chúa đang nói với mỗi người trong các con: “Hãy trỗi dậy!” Cha tha thiết hy vọng rằng Sứ điệp này có thể giúp chúng ta chuẩn bị cho thời đại mới và một trang mới trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, chúng ta không thể bắt đầu lại nếu không có các con, các bạn trẻ thân mến. Để trỗi dậy, thế giới cần sức mạnh của các con, sự nhiệt tình của các con, niềm đam mê của các con. Do đó cha muốn cùng các con suy gẫm đoạn sách Công vụ Tông đồ trong đó Chúa Giêsu nói với thánh Phao-lô: “Hãy chỗi dậy! Ta chọn ngươi làm chứng nhân về những điều ngươi đã thấy” (Cv 26, 16).
Thánh Phao-lô làm chứng trước mặt vua
Câu Kinh Thánh gợi hứng cho chủ đề của Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2021 được lấy từ chứng tá của thánh Phao-lô trước Vua Ác-ríp-pa, sau khi bị giam tù. Trước đây thánh Phao-lô là kẻ thù và người bắt bớ các Ki-tô hữu, giờ đây ngài chịu xét xử chính vì niềm tin vào Chúa Ki-tô. Khoảng hai mươi lăm năm sau, thánh Tông đồ thuật lại câu chuyện về cuộc gặp gỡ định mệnh của ngài với Chúa Ki-tô.
Thánh Phao-lô thú nhận rằng trong quá khứ ngài đã bách hại các Ki-tô hữu, cho đến một ngày, khi đang trên đường đi Đa-mát để bắt giữ một vài người trong số họ, một luồng ánh sáng “chói lọi hơn mặt trời” chiếu tỏa xuống quanh ngài và các bạn đồng hành (x. Cv 26, 13). Tuy nhiên chỉ mình ngài nghe “một tiếng nói”: tiếng của Chúa Giê-su nói với ngài và gọi đích danh ngài.
“Sa-un! Sa-un!”
Chúng ta hãy cùng nhau đào sâu sự kiện này. Khi gọi đích danh Sa-un, Chúa giúp anh hiểu rằng Người biết anh một cách cá nhân. Như thể Người nói với anh: “Ta biết ngươi là ai và ngươi đang làm gì; nhưng ngay cả như thế, Ta đang nói trực tiếp với ngươi”. Chúa gọi anh hai lần như dấu chỉ của một ơn gọi đặc biệt quan trọng; Người đã làm như thế trước đó với ông Mô-sê (Xh 3, 4) và Samuel (x. 1 Sam 3, 10). Sa-un ngã xuống đất và nhận ra rằng mình đang chứng kiến một cuộc thần hiện, một mặc khải mạnh mẽ khiến anh bối rối, nhưng không hủy diệt anh. Ngược lại, anh thấy mình được gọi đích danh.
Trên thực tế, chỉ một cuộc gặp gỡ cá nhân và đích danh với Chúa Ki-tô mới thay đổi cuộc đời. Chúa Giê-su cho thấy Người biết Sa-un rất rõ, “từ trong ra ngoài”. Cho dù Sa-un là một kẻ bách hại, cho dù lòng anh tràn đầy sự căm thù các Ki-tô hữu, Chúa Giê-su nhận ra rằng điều này là do anh thiếu hiểu biết và Người muốn thể hiện lòng nhân từ của Người ở nơi anh. Chính ân sủng này, tình yêu nhưng không và vô điều kiện, sẽ là ánh sáng biến đổi hoàn toàn cuộc sống của Sa-un.
“Thưa Ngài, Ngài là ai?”
Đứng trước sự hiện diện mầu nhiệm gọi đích danh mình, Sa-un hỏi: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” (Cv 26, 15). Câu hỏi này vô cùng quan trọng và tất cả chúng ta, sớm muộn gì cũng phải hỏi. Nghe người khác nói về Đức Ki-tô thôi thì chưa đủ, nhưng còn cần phải nói chuyện với Ngài một cách cá nhân. Cách căn bản, đây là cầu nguyện. Đó là nói chuyện trực tiếp với Chúa Giê-su, ngay cả khi có lẽ lòng chúng ta vẫn còn đang rối loạn, tâm trí chúng ta đầy nghi ngờ hoặc thậm chí là khinh miệt đối với Chúa Giê-su Ki-tô và các Ki-tô hữu. Cha hy vọng rằng mỗi người trẻ, từ tận đáy lòng của mình, sẽ hỏi câu hỏi này: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”
Chúng ta không còn có thể cho rằng mọi người đều biết Chúa Giê-su, ngay cả trong thời đại của internet. Câu hỏi mà nhiều người đang hỏi về Chúa Giêsu và Giáo hội của Người chính là câu hỏi này: “Bạn là ai?” Trong toàn bộ câu chuyện về lời kêu gọi thánh Phao-lô, đây là lần duy nhất thánh Phao-lô nói. Và Chúa trả lời ngay lập tức: “Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ” (sđd).
“Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ!”
Bằng câu trả lời này, Chúa Giê-su tiết lộ cho Sa-un một mầu nhiệm vĩ đại: Người đồng hóa mình với Hội Thánh, với các Ki-tô hữu. Cho đến thời điểm đó, Sa-un không nhìn thấy gì về Chúa Ki-tô, nhưng chỉ thấy các tín hữu mà anh đã tống vào ngục (x. Cv 26, 10) và đồng thuận với việc lên án tử cho họ (ibid.). Anh đã thấy cách các Ki-tô hữu đáp lại điều ác bằng sự tốt lành, đáp lại lòng căm thù bằng tình yêu thương, chịu đựng sự bất công, bạo lực, những tai họa và sự bắt bớ vì danh Chúa Ki-tô. Bằng một cách nào đó, mà Sa-un không hề hay biết, anh đã gặp được Chúa Ki-tô. Anh đã gặp Người nơi các Ki-tô hữu!
Đã bao nhiêu lần chúng ta nghe nói “Chúa Giê-su có, Giáo hội không!”, như thể người này có thể là sự thay thế cho người kia. Người ta không thể biết Chúa Giê-su nếu không biết Giáo hội. Người ta không thể biết Chúa Giêsu nếu không qua những anh chị em trong cộng đồng của Người. Chúng ta không thể tự gọi mình là Ki-tô hữu hoàn toàn trừ khi chúng ta trải nghiệm chiều kích giáo hội của đức tin.
“Đá lại mũi nhọn thì khốn cho người”
Đây là những lời Chúa nói với Sa-un sau khi anh ngã xuống đất. Tuy nhiên, rõ ràng là từ lâu Người đã lặp lại cùng những lời đó với Sa-un một cách mầu nhiệm, nhằm lôi kéo anh đến với Người. Tuy nhiên, Sa-un đã chống lại. Chúa của chúng ta cũng dùng cùng lời “khiển trách” nhẹ nhàng đó nói với mỗi người trẻ quay lưng lại với Người: “Con sẽ chạy trốn Ta cho đến khi nào? Tại sao con không nghe Ta đang gọi con? Ta đang đợi con quay về với Ta”. Có những lúc chúng ta cũng nói như ngôn sứ Giê-rê-mi-a: “Tôi sẽ không còn nghĩ về Người nữa” (x. Gr 20, 9). Nhưng trong lòng mỗi người có một ngọn lửa bùng cháy: dù chúng ta cố gắng dập tắt nó, chúng ta vẫn không thể, vì nó mạnh hơn chúng ta.
Chúa đã chọn một người đang bắt bớ Người, hoàn toàn thù ghét Người và những người theo Người. Chúng ta thấy rằng, trong mắt Thiên Chúa, không ai bị hư mất. Nhờ cuộc gặp gỡ cá nhân với Người, chúng ta luôn có thể bắt đầu lại từ đầu. Không một người trẻ nào nằm ngoài tầm với của ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Không ai có thể nói rằng: Hắn đã đi quá xa… Đã quá muộn… Bao nhiêu người trẻ tuổi cuồng nhiệt nổi loạn và đi ngược dòng, nhưng trong sâu thẳm trái tim họ cảm thấy cần phải dấn thân, yêu hết lòng, có một sứ mệnh trong cuộc sống! Chúa Giê-su đã thấy chính xác điều đó nơi chàng trai trẻ Sa-un.
Nhận ra sự mù quáng của chúng ta
Chúng ta có thể tưởng tượng rằng, trước khi gặp gỡ Chúa Giê-su, ở một mức độ nào đó, Sa-un “chỉ thấy có mình”, nghĩ rằng mình “vĩ đại” dựa trên sự chính trực về đạo đức, lòng nhiệt thành, lý lịch và trình độ học vấn của mình. Chắc chắn, anh tin chắc mình đúng. Nhưng khi Chúa tỏ mình ra, Sa-un “ngã xuống đất”, bị mù. Đột nhiên, anh rơi vào tình trạng không thể nhìn thấy, cả về thể chất và tinh thần. Sự xác tín của anh đang bị lung lay. Trong thâm tâm, anh nhận ra rằng lòng nhiệt thành cuồng nhiệt giết các Ki-tô hữu là hoàn toàn sai lầm. Anh nhận ra rằng anh không sở hữu sự thật tuyệt đối, và thực sự còn xa nó. Sự chắc chắn và niềm kiêu hãnh của anh tan biến; đột nhiên anh thấy mình mất phương hướng, yếu ớt và “nhỏ bé”.
Sự khiêm tốn như vậy – ý thức về những hạn chế của chúng ta – là điều cần thiết! Ai nghĩ rằng họ biết mọi thứ về bản thân, về người khác và thậm chí về các chân lý tôn giáo, sẽ khó gặp gỡ Chúa Giê-su Ki-tô. Sau khi bị mù, Sa-un đã mất điểm tham chiếu của mình. Một mình trong bóng tối, những thứ rõ ràng duy nhất là ánh sáng anh nhìn thấy và giọng nói anh nghe thấy. Thật là nghịch lý! Chính khi chúng ta bị mù, chúng ta mới bắt đầu nhìn thấy!
Sau kinh nghiệm choáng ngợp trên đường đi Đa-mát, Sa-un muốn được gọi là Phao-lô, có nghĩa là “nhỏ bé”. Điều này không giống như những biệt danh hoặc tên được đặt quá phổ biến ngày nay. Cuộc gặp gỡ của anh với Chúa Ki-tô đã thay đổi cuộc đời anh; nó khiến anh cảm thấy mình thực sự nhỏ bé và phá bỏ mọi thứ ngăn cản anh thực sự nhận ra chính mình. Và anh nói với chúng ta: “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa.” (1Cr 15, 9).
Thánh Têrêsa thành Lisieux, cũng như bao vị thánh khác, rất thích nói rằng khiêm tốn là sự thật. Ngày nay, chúng ta lấp đầy thời gian của mình, đặc biệt là trên mạng xã hội, với bất kỳ “câu chuyện” nào, thường được xây dựng cẩn thận với hậu cảnh, các máy ảnh và các hiệu ứng đặc biệt. Càng ngày, chúng ta càng muốn trở thành tâm điểm chú ý, được đóng khung hoàn hảo, sẵn sàng cho “bạn bè” và “những người theo dõi” thấy một hình ảnh của chính chúng ta nhưng không phản ánh con người thật của chúng ta. Chúa Kitô, mặt trời đúng ngọ, đến để soi sáng chúng ta và khôi phục tính xác thực của chúng ta, giải phóng chúng ta khỏi tất cả các mặt nạ của chúng ta. Người cho chúng ta thấy rõ ràng chúng ta là ai, vì đó chính xác là cách Người yêu thương chúng ta.
Thay đổi quan điểm
Sự hoán cải của thánh Phao-lô không phải là một sự quay lại đàng sau, nhưng là rộng mở đón nhận cách nhìn hoàn toàn mới. Thật sự là ngài tiếp tục hành trình đến Đa-mát, nhưng không còn là con người như trước; bây giờ ngài là một con người khác (Cv 22, 10). Sự hoán cải có thể canh tân cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Chúng ta tiếp tục làm những gì chúng ta đã làm trước đây, nhưng trái tim và động lực của chúng ta bây giờ đã thay đổi. Trong trường hợp của thánh Phao-lô, Chúa Giêsu bảo ngài tiếp tục đi đến Đa-mát, nơi ngài đã dự định đi. Thánh Phao-lô đã vâng lời, nhưng mục tiêu và mục đích cuộc hành trình của ngài đã thay đổi hoàn toàn. Từ đây trở đi, thánh Phao-lô sẽ nhìn mọi sự với đôi mắt mới, không còn là kẻ bắt bớ và đao phủ , nhưng là một môn đệ và một chứng nhân. Ở Đa-mát, Anania sẽ rửa tội cho ngài và giới thiệu ngài trước cộng đoàn Ki-tô hữu. Trong thinh lặng và cầu nguyện, thánh Phaolô sẽ đào sâu trải nghiệm của mình và danh tính mới đã được Chúa Giêsu trao ban.
Đừng làm tiêu tan sức mạnh và niềm đam mê của tuổi trẻ
Thái độ của thánh Phao-lô trước khi gặp gỡ Chúa Giê-su Phục Sinh không có gì lạ đối với chúng ta. Các bạn trẻ thân mến, có bao nhiêu sức mạnh và niềm đam mê cũng nổi lên trong lòng các con! Nhưng sự tăm tối xung quanh và trong các con có thể ngăn cản các con nhìn các sự việc cách đúng đắn. Các con có thể có nguy cơ đánh mất chính mình trong những tranh đấu vô nghĩa, thậm chí cả những trận chiến bạo lực. Thật đáng buồn là những nạn nhân đầu tiên lại là chính các con và những người thân cận nhất của các con. Và một nguy hiểm nữa là việc tranh đấu cho những nguyên nhân mà ban đầu là bảo vệ các giá trị, nhưng khi đến mức quá đáng, sẽ trở thành những ý thức hệ phá hoại. Bao nhiêu bạn trẻ ngày nay được truyền cảm hứng, có lẽ được thúc đẩy, bởi các xác tín chính trị hay tôn giáo, đã trở thành những công cụ bạo lực và phá hoại trong cuộc sống của biết bao nhiêu người! Có kẻ, thông thạo với thế giới kỹ thuật số, dùng thực tại ảo và phương tiện truyền thông như là chiến trường mới, sử dụng không suy nghĩ các tin giả làm vũ khí để lan truyền chất độc và tiêu diệt các đối thủ.
Khi xâm nhập vào cuộc đời của thánh Phaolô, Chúa không xóa bỏ tính tình hay lòng nhiệt thành của thánh nhân. Trái lại, Người làm cho các tài năng của thánh nhân triển nở bằng cách làm cho ngài trở nên một sứ giả Tin Mừng tuyệt vời cho khắp thế gian.
Tông đồ của các dân tộc
Kể từ đó, thánh Phao-lô sẽ được gọi là “tông đồ của các dân tộc”. Thánh Phao-lô, trước đây là một Pha-ri-sêu, là một người tuân giữ Lề Luật cách tỉ mỉ! Ở đây chúng ta thấy một nghịch lý nữa: Chúa đặt niềm tin tưởng vào chính kẻ đã bắt bớ Người. Như thánh Phao-lô, mỗi người chúng ta có thể nghe trong thẳm sâu tâm hồn tiếng nói này: “Ta tin con. Ta biết lịch sử đời con và Ta ôm ấp nó, cùng với con”. Lối suy nghĩ của Chúa có thể biến đổi kẻ bách hại tồi tệ nhất thành một chứng nhân vĩ đại.
Môn đệ của Chúa Ki-tô được mời gọi trở nên “ánh sáng cho thế gian” (Mt 5, 14). Bây giờ thánh Phao-lô phải làm chứng cho những gì ngài thấy, nhưng hiện giờ ngài đang bị mù. Một nghịch lý nữa! Nhưng chính qua kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô có thể cảm thông hoàn toàn với những người mà Chúa sai ngài đến với họ. Đó là lý do ngài được trở thành một chứng nhân: “để mở mắt cho họ, để họ rời bóng tối mà trở về cùng ánh sáng” (Cv 26, 18).
“Hãy trỗi dậy và làm chứng!”
Khi chúng ta đón nhận sự sống mới được trao ban trong bí tích rửa tội, Thiên Chúa cũng giao phó cho chúng ta một sứ vụ quan trọng và biến đổi cuộc đời: “Con sẽ là chứng nhân của Ta!”
Hôm nay Chúa Ki-tô nói với mỗi người trẻ các con cùng những lời Người đã nói với Phaolô: “Hãy trỗi dậy! Con không thể cứ nằm lì trên mặt đất và than khóc về lỗi lầm của mình: một sứ vụ đang chờ con! Con cũng có thể làm chứng cho những điều Chúa Giê-su đã bắt đầu hoàn thành trong cuộc sống của con. Nhân danh Chúa Giê-su, Cha xin các con:
– Hãy trỗi dậy và làm chứng rằng các con cũng đã từng mù lòa và đã gặp được ánh sáng. Các con cũng đã nhìn thấy sự tốt lành và vẻ đẹp của Thiên Chúa trong các con, trong người khác và trong sự hiệp thông của Giáo Hội, nơi chiến thắng mọi sự đơn độc.
– Hãy trỗi dậy và làm chứng cho tình yêu và sự tôn trọng, điều có thể hình thành trong mối quan hệ của con người, trong cuộc sống gia đình, trong việc đối thoại giữa cha mẹ và con cái, giữa giới trẻ và người cao niên.
– Hãy trỗi dậy và bảo vệ công bằng xã hội, sự thật và lẽ phải, nhân quyền, những người bị bách hại, những người nghèo và người dễ bị tổn thương, những người không có tiếng nói trong xã hội, những người nhập cư.
– Hãy trỗi dậy và làm chứng cho cách nhìn mới khiến các con nhìn thấy thụ tạo bằng đôi mắt đầy kinh ngạc, khiến các con nhận ra Trái đất là ngôi nhà chung của chúng ta và cho các con lòng can đảm để bảo vệ hệ sinh thái toàn diện.
– Hãy trỗi dậy và làm chứng rằng những cuộc đời thất bại có thể được làm lại, những người chết về phần thiêng liêng có thể sống lại, những người sống kiếp nô lệ có thể trở lại tự do, những tâm hồn bị đè nặng bởi sầu khổ có thể tìm lại hy vọng.
– Hãy trỗi dậy và làm chứng cách vui tươi rằng Chúa Ki-tô đang sống! Hãy truyền bá sứ điệp yêu thương và cứu độ của Ngườii giữa các bạn cùng trang lứa với các con, ở trường học, trong đại học, ở nơi làm việc, trong thế giới kỹ thuật số, ở bất cứ nơi đâu.
Chúa Giê-su, Giáo hội, Đức Giáo hoàng tin tưởng nơi các con và chọn các con làm chứng nhân cho nhiều người trẻ khác mà các con sẽ gặp trên “những nẻo đường Đa-mát” của thời đại chúng ta. Các con đừng quên: “Bất cứ ai đã thực sự trải nghiệm tình thương cứu độ của Thiên Chúa thì không cần nhiều thời gian hay một sự đào tạo lâu dài để đi rao giảng tình thương ấy. Mọi Kitô hữu đều là người truyền giáo theo mức độ họ đã gặp gỡ tình thương của Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô” (Niềm vui Tin Mừng, 120).
Các con hãy trỗi dậy và cử hành Ngày Giới trẻ Thế giới tại các Giáo hội địa phương!
Một lần nữa Cha mời tất cả các con, những người trẻ trên thế giới, tham gia cuộc hành hương thiêng liêng sẽ dẫn chúng ta đến việc cử hành Ngày Giới trẻ Thế giới tại Lisbon vào năm 2023. Tuy nhiên, cuộc hẹn tiếp theo là tại các Giáo hội địa phương của các con, trong các giáo phận khác nhau trên thế giới, nơi mà Ngày Giới trẻ Thế giới năm 2021 sẽ được cử hành tại địa phương vào ngày lễ trọng Chúa Ki-tô Vua.
Cha hy vọng rằng tất cả chúng ta có thể sống những giai đoạn này như những người hành hương thực sự chứ không phải là “những khách du lịch của đức tin”! Chúng ta hãy mở lòng mình trước những điều ngạc nhiên của Thiên Chúa, Đấng muốn chiếu tỏa ánh sáng của Người trên hành trình của chúng ta. Chúng ta hãy mở lòng để lắng nghe tiếng nói của Người, cũng qua tiếng nói của các anh chị em của chúng ta. Như thế, chúng ta sẽ giúp nhau cùng nhau trỗi dậy, và trong thời khắc lịch sử khó khăn này, chúng ta sẽ trở thành những ngôn sứ của thời đại mới và tràn đầy hy vọng! Xin Đức Trinh Nữ Maria đầy ơn phúc chuyển cầu cho chúng ta.
Roma, đền thờ thánh Gioan Laterano, 14 tháng 9 năm 2021
Lễ Suy tôn Thánh Giá
(Vatican News 28.09.2021)
2021
Chuyến đi Rôma ad limina đầu tiên của tôi
Chuyến đi Rôma ad limina đầu tiên của tôi
Nhân chuyến đi Ad Limina (Visitatio Ad Limina Apostolorum, viếng thăm mộ các thánh tông đồ, cụ thể là Thánh Phêrô và Phaolô) của các giám mục Pháp gồm ba nhóm bắt đầu từ đầu tháng 9 đến 1 tháng 10, báo La Croix tìm hiểu tâm trạng của các giám mục đầu tiên sống trải nghiệm này. Trong chuyến đi của nhóm thứ nhất vào đầu tháng 9, báo La Croix đi theo bước chân của các giám mục vừa được phong cho đến khi họ gặp giáo hoàng.
Đức Phanxicô và Giám mục François Bustillo, giáo phận Ajaccio, Pháp
Mệt đứt hơi và vẫn còn xúc động với “hai giờ mười phút” vừa qua với giáo hoàng, giám mục François Bustillo sải bước từ Dinh Tông Tòa đến. Lúc đó là 12 giờ 35 trưa ngày thứ sáu 10 tháng 9, giám mục Bustillo vẫn còn ngạc nhiên khi nói chuyện một cách hoàn toàn tự do với giáo hoàng.
Khoảng hai mươi giám mục Pháp sợ rằng cuộc họp sẽ bị cắt ngắn. Không phải vậy: “Lúc 11 giờ 20, giáo hoàng nhìn đồng hồ và nói với chúng tôi vẫn còn 45 phút nữa. Thật là tuyệt vời, ngài ‘bỏ thì giờ ra.’ Giám mục Bustillo đính chính: “Không, ngài cho chúng tôi thì giờ của ngài.”
Nhưng cuối cùng là nói những chuyện gì? “Chủ yếu ngài nói, chúng tôi phải làm hơn những gì chúng tôi phải làm.” Chúng ta sẽ không biết gì nhiều hơn, ngoài những chủ đề chính (lạm dụng tình dục, tự sắc ngoại thường, truyền giáo) để không vi phạm tính bảo mật nghiêm ngặt của cuộc họp.
Đôi xăng-đan với áo chùng
Tuy vậy tân giám mục Bustillo giáo phận Ajaccio, vừa được phong ngày 13 tháng 6 không ngừng đánh giá cao sự gần gũi, gần như là thân tình trong các trao đổi với Đức Phanxicô, sự giản dị của ngài, ngài xin người thông dịch ly nước uống.
Chúng tôi nhận thấy nơi tân giám mục niềm vui của một tân binh: Giám mục Bustillo là một trong những giám mục đồng ý kể chuyến thăm ad limina đầu tiên của mình với báo La Croix. Năm ngày trao đổi bận rộn ở Vatican với các ban bộ khác nhau của Giáo triều Rôma và buổi cuối cùng là gặp Đức Phanxicô, giây phút mong chờ từ lâu được được gặp người kế vị Thánh Phêrô.
Nhân dịp này, Giám mục Bustillo mặc chiếc áo chùng đặc biệt của giám mục. Ngài khi nào cũng mặc áo dòng và đi đôi xăng-đan, đây là lần đầu tiên ngài mặc áo giám mục từ khi ngài đến đảo Corse. Trên đảo, tân giám mục dọc xuôi 5000 cây số để gặp giáo dân. Một tuần nghỉ ngơi ngắn ngủi và bây giờ ngài ở Rôma, Thành phố Vĩnh cửu.
Ngày thứ hai 6 tháng 9 ngài đến Rôma, gặp các giám mục của giáo phận Marseille, giáo phận của ngài và gặp các giám mục của hai giáo phận Montpellier và Toulouse, cũng như các đồng nghiệp của ngài từ các Giáo hội Đông phương. Chuyến đi Rôma không phải là chuyến đi du lịch, việc sống chung trong một tuần cho phép ngài có “những cuộc gặp gỡ huynh đệ bất ngờ”, ngôn ngữ của giám mục là giúp họ tìm hiểu nhau hơn.
Kết thúc “các kinh nghiệm tổn thương”
Cách đây không lâu, đôi khi chuyến đi của các giám mục mang bầu khí của “chuyến đi trừng phạt”. Các giám mục trẻ nhất tâm sự với các giám mục kỳ cựu hơn, họ vẫn còn bị đánh dấu bằng “kinh nghiệm tổn thương” của việc nhắc nhở vào thứ trật.
Vào thời Đức Gioan-Phaolô II, và ít hơn ở thời Đức Bênêđictô XVI, Giáo hội Pháp gần như không được tín nhiệm, bị nghi là họ thích dấn thân vào xã hội hơn là nhiệt thành rao giảng Tin Mừng. Bây giờ bầu khí đã thay đổi. “Không còn ai ở đây để cho chúng tôi bài học,” người ta thường nghe qua giọng nói nhẹ nhõm của họ.
Đó là do trong những tháng gần đây, giáo hoàng đã có nhiều thay đổi trong Giáo triều Rôma, được thấy rõ qua phong cách của các nhà lãnh đạo mới, rõ ràng họ lắng nghe “ông chủ” mời gọi họ. Đôi khi, một số cũng là tân binh như các giám mục, họ chưa ở đây trong chuyến thăm ad limina vào mùa thu năm 2012 trước đó. Các giám mục Pháp cũng thấy giáo dân và phụ nữ ở giáo triều nhiều hơn.
Một bầu khí đối thoại
Giám mục François Bustillo nói với chúng tôi: “Tôi ấn tượng với phong cách dễ dàng tiếp xúc của tất cả những người đón tiếp chúng tôi, với ý thức lắng nghe, không có nghi thức.” Như thể, đột nhiên “Rôma” đến gần hơn.
Giám mục cho biết: “Nói đến ‘Rôma’ thường là nói đến nơi uy quyền và quyền lực.” Giám mục không bị thế giới này thu hút, cho đến khi các vị lãnh đạo trong Dòng Phanxicô của ngài đưa ngài đến đây. Giám mục Bustillo cho biết, các cuộc trao đổi với các chức sắc làm việc trong các ban bộ đã cho ngài một cái nhìn khác về Vatican và Giáo triều, đó là một ban quản trị lắng nghe để mang đến các kỹ năng của mình (pháp lý, kinh tế, giáo luật, thần học) cho các giám mục đôi khi còn kém cỏi.
Sẽ phải căng tai để biết cuộc họp không diễn ra suôn sẻ về vấn đề lạm dụng tình dục, giọng điệu mô phạm bị một số giám mục đánh giá vừa phải. Điểm không hài hòa duy nhất bị chi phối bởi đối thoại.
Giữa chủng viện Pháp, nơi phái đoàn Pháp ở, và Vatican là con đường dài, đã giúp cho các giám thuộc nhiều thế hệ có dịp nói chuyện với nhau. Một “tân binh” khác, giám mục Benoỵt Bertrand giáo phận Mende được phong ngày 3 tháng 3 năm 2019, có một câu rất hay: “Các bước đi thúc đẩy lời nói” kéo dài cho đến giờ chia sẻ buổi tối, bên cây kem, bên ly nước chanh ở Piazza Navona hay trên sân thượng nơi họ ở.
“Đừng hoài niệm một Giáo hội”
Thời gian nghỉ ngơi ngắn trong chương trình bận rộn, được mở đầu bằng một thánh lễ lúc 7:30 sáng tại một trong những vương cung thánh đường lớn của Rôma và kết thúc bằng các cuộc gặp gỡ với những người phụ trách các ban bộ.
Giám mục Benoỵt Bertrand giải thích: “Mỗi lần, nghi thức đều giống nhau, một trong chúng tôi được chỉ định để trình bày một báo cáo về chủ đề liên quan đến một ban bộ, một tổng hợp mà mỗi chúng tôi đã gởi trước cho Vatican, Bài can thiệp từ mười đến mười lăm phút, giám chức của bộ hoặc một trong các cộng sự của ngài trả lời cho chúng tôi. Sau đó, một cuộc thảo luận tự do bắt đầu, toát ra cảm nhận Rôma muốn phục vụ các giám mục.”
Dù vậy chuyến thăm ad limina có như một cuộc thanh tra không? Giám mục Bertrand trả lời: “Điều bình thường là chúng tôi phải báo cáo vì chúng tôi không làm việc một mình và nhất là chúng tôi làm việc cho người khác.”
Đồng ý với các đồng nghiệp của ngài, nhưng ngài không muốn giữ lại các lời khiển trách. Giám mục Bertrand nói thêm: “Tôi đi trước tiên là để được củng cố đức tin của tôi trong tư cách là giám mục,” ngài nói đến một sứ mệnh nặng nề mà không người công giáo nào mà không biết.
Giám mục Bustillo nói khác, ngài thường xuyên nhắc các linh mục của ngài thoát khỏi “hội chứng Calimero”. “Đâu đâu, các người tiếp xúc với chúng tôi đều nói chúng tôi đừng rơi vào hoài niệm của một Giáo hội. Là thiểu số nhưng không là bè phái. Và điều đặc biệt đánh động tôi là lời mời gọi liên tục phải tự do.” Rôma xứng đáng để đến thăm…
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2021
Thêm một Hồng y qua đời vì Covid-19
Thêm một Hồng y qua đời vì Covid-19
Tối ngày 26/9/2021 vừa qua, Đức Hồng y José Freire Falcão, nguyên Tổng giám mục giáo phận Brasilia, thủ đô Brazil, đã qua đời vì bệnh dịch Covid-19, hưởng thọ 96 tuổi.
Đức Hồng y José Freire Falcão
Ngài là vị hồng y thứ hai người Brazil tử vong vì Covid-19, sau Đức Hồng y Oscar Scheid, nguyên Tổng giám mục Rio de Janeiro, người Brazil hồi đầu năm nay, và là vị thứ hai người Mỹ châu Latinh, tức là sau Đức Hồng y Urosa Savino, nguyên Tổng giám mục giáo phận thủ đô Caracas của Venezuela, mới qua đời hôm 23/9 vừa qua, thọ 79 tuổi.
Đức Hồng y Falcão sinh năm 1925 và làm Tổng giám mục giáo phận Brasilia từ năm 1984, thăng Hồng y 4 năm sau đó, 1988. Ngày 17/9 vừa qua, ngài được đưa vào nhà thương vì Covid. Một tuần sau đó bệnh trạng của ngài nặng hơn và hai ngày sau, Đức Hồng y đã qua đời.
Với sự qua đi của Đức Hồng y Falcão, Hồng y đoàn còn 217 vị, trong đó có 121 hồng y cử tri dưới 80 tuổi và có 96 vị trên 80 tuổi.
– Mặt khác, hôm 26/9 vừa qua, Đức Hồng y Raymond Burke, 73 tuổi người Mỹ, nguyên Chủ tịch tối cao pháp viện của Tòa Thánh, đã thông báo cho các bạn hữu và tín hữu về tình trạng sức khỏe của ngài sau khi bị nhiễm Covid-19.
Sau khi bị lây nhiễm ở Mỹ, ngài được đưa vào nhà thương điều trị 4 ngày sau đó, và ngày 14/8 Đức Hồng y bị đưa vào khu điều trị khẩn trương, phải dùng máy thở, trong một tuần lễ. Sau đó ngài tiếp tục được điều trị tại nhà thương thêm 12 ngày nữa, cho đến khi được xuất viện ngày 3/9 vừa qua. Từ đó, Đức Hồng y Burke sống trong một nhà gần các thân nhân của ngài. Hơn ba tuần đã trôi qua, và Đức Hồng y cho biết ngài cần thêm vài tuần lễ nữa trong chương trình hồi phục mới có thể trở lại hoạt động bình thường. Đức Hồng y Burke cho biết hiện giờ ngài cố gắng tăng trưởng trong sự kiên nhẫn và xin các tín hữu và thân hữu tiếp tục cầu nguyện cho ngài.
(CA 26-9-2021)
- Trần Đức Anh, O.P.