2023
Lịch sử đích thực của trụ đài ở Quảng trường Thánh Phêrô
Khi những người hành hương đến quảng trường Thánh Phêrô, sự chú ý của họ tập trung vào quần thể ngoạn mục được tượng trưng bởi các hàng cột và Vương cung thánh đường. Trái lại, trụ đài ở trung tâm quảng trường lại ít được chú ý. Tuy nhiên, lịch sử của nó đầy những thăng trầm và những giai thoại lý thú hoặc mang tính xây dựng.
Trụ đài ở quảng trường Thánh Phêrô đến từ rất xa: từ Ai Cập và từ thế kỷ 19 trước kỷ nguyên của chúng ta. Rất có thể nó được xây dựng để tôn lên vẻ đẹp lộng lẫy của ngôi đền Héliopolis, một trong những ngôi đền lớn nhất thờ thần Re, thần mặt trời. Với sự chiếm đóng của người Rôma, số phận của khối đá nguyên khối này đã thay đổi. Rất thích chuộng đồ cổ, người Rôma ra sức nhổ các trụ đài của Ai Cập và mang chúng về các thành phố lớn của Đế quốc để làm vật trang trí.
Đây là cách trụ đài Héliopolis được hoàng đế Caligula chuyển đến Rôma vào năm 37 của kỷ nguyên chúng ta. Để di chuyển trụ đài bằng đá granite màu hồng hùng vĩ cao hơn 25 mét này, cần phải đóng một con tàu có kích thước chưa từng có, dài hơn 100 mét. Để hỗ trợ đúng cách cho trụ đài này trong suốt cuộc hành trình, chiếc thuyền chứa đầy đậu lăng, tiền thân công hiệu của những viên bi polystyrene… Sử gia Pline l’Ancien, người kể lại giai thoại thú vị này, không nói rõ liệu đậu lăng có thể được tiêu thụ khi đến nơi hay không…
Một khi đến Ý, trụ đài được đưa đến núi Vatican. Ngọn đồi này, cho đến lúc đó vẫn nằm ngoài Rôma, dần dần được phát triển và đưa vào thành phố. Hoàng đế đã xây dựng một rạp xiếc ở đó dành riêng cho các cuộc đua xe ngựa. Ông đã chọn tảng đá nguyên khối này để đánh dấu trung tâm của nó. Các cuộc đàn áp Kitô giáo tàn khốc do Nero ra lệnh vào những năm 60 đã khiến trụ đài đẫm máu: thánh Phêrô và nhiều Kitô hữu đã chịu tử đạo trong rạp xiếc dưới chân trụ đài. Kết quả là, trụ đài sau đó đã nhận được sự quan tâm đặc biệt từ những Kitô hữu, không giống như mười hai khối đá nguyên khối khác của Rôma, bị bỏ hoang và lãng quên trong nhiều thế kỷ. Ngược lại, trụ đài này trở thành điểm dừng chân quan trọng của những người hành hương. Nằm gần Vương cung thánh đường Constantin, nó được gọi là cây kim của Thánh Phêrô.
“Hãy làm ướt dây thừng!”
Khi xây dựng Vương cung thánh đường Thánh Phêrô mới, vào thế kỷ 16, ý tưởng là di chuyển trụ đài vào giữa so với tòa nhà, và do đó tạo cho nó một vị trí hảo hạng. Một số Đức Giáo Hoàng lùi bước trước nhiệm vụ khó khăn. Cuối cùng, Đức Sixtô V, vào năm 1586, đã khởi động dự án. Hoạt động bắt đầu vào ngày 30 tháng 4 và kết thúc vào ngày 10 tháng 9. Khoảng cách ngắn, chưa đến 200 mét, nhưng thách thức rất cao: không được phá vỡ di tích quý giá này, chứng tá cho cuộc tử đạo của Thánh Phêrô. Hoạt động này đòi hỏi một thiết bị đồ sộ để di chuyển khối lượng khổng lồ. Không dưới 800 công nhân và khoảng một trăm con ngựa đã tham gia vào cuộc chuyển dời này.
Một giai thoại vui được kể về điều này. Để không làm phiền kiến trúc sư và các công nhân trong quá trình thao tác của họ, đám đông được lệnh im lặng khi trụ đài đang được lắp đặt. Khi người ta không tin vào tính tự phát và sự hứng khởi của người Rôma, bất kỳ người nào nói chuyện không đúng lúc đều bị đe dọa tử vong. Do đó, được bao quanh bởi đám đông, nhưng trong sự im lặng tuyệt đối, trụ đài được dựng lên, rất chậm, ở trung tâm quảng trường, vào ngày 10 tháng 9 nổi tiếng này. Trong quá trình di chuyển, đường đi lên đột ngột dừng lại, các công nhân dường như bị mắc kẹt, thiết bị bị trượt. Từ đám đông vang lên một giọng nói, hét lên: “Hãy làm ướt dây thừng!” Quả thực, những sợi dây thừng đỡ trụ đài đã bị giãn ra. Dưới tác động của nước, chúng siết chặt lại và trụ đài có thể di chuyển trở lại, cuối cùng nằm yên trên đế của nó. Tất nhiên, người dám phá vỡ sự im lặng để đưa ra lời khuyên tốt như vậy sẽ được khen thưởng hậu hĩ thay vì bị trừng phạt.
Trụ đài được Đức Giáo hoàng làm phép long trọng. Ngài cho khắc câu tung hô nổi tiếng của hoàng đế Carolin trên đế: Christus vincit, Christus regnat, Christus imperat, Christus ad omni malo plebem suam defat (Chúa Kitô chiến thắng, Chúa Kitô trị vì, Chúa Kitô chỉ huy, xin Chúa Kitô bảo vệ dân Ngài khỏi mọi sự dữ). Thánh tích của Thánh Giá Thật được đặt trên đỉnh của nó. Được xây dựng để tôn vinh các vị thần Ai Cập, trụ đài của quảng trường Thánh Phêrô sau đó đã được phục hồi để tôn vinh sự vĩ đại của Rôma. Từ nay trở đi, nó tọa lạc trên một vị trí hảo hạng đối với Giáo hội hoàn vũ. Nó không chỉ là nhân chứng cho sự anh hùng của vị Giáo hoàng đầu tiên, mà còn đặt ra cho mọi người lý do tử đạo, nghĩa là thập giá của Chúa Kitô, biểu tượng của sự phục sinh.
Thérèse Puppinck
Chuyển ngữ: Tý Linh
Theo nhật báo Aleteia (09.09.2023)
2023
Một chủng sinh từng theo đạo Satan gây ấn tượng cho Đức thánh cha Phanxicô
Vào Thứ Sáu, ngày 25 tháng 8, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tham gia cuộc gặp gỡ những người trẻ Công giáo Nga lần thứ 10, qua truyền hình trực tuyến, được tổ chức tại St. Petersburg từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 8. Trong sự kiện này, một chứng ngôn đặc biệt thu hút: chứng ngôn của chủng sinh Alexander Baranov, 34 tuổi, người từng theo đạo Satan trước khi cải đạo.
Từ bóng tối đi vào ánh sáng
Alexander Baranov kể:
Cách đây mười hay 12 năm, tôi sống xa Giáo Hội hết sức có thể. Tôi là một người theo đạo Satan. Tôi đã tham gia vào các nghi lễ huyền bí. Tôi đã làm và nói rất nhiều điều xấu. Nay tôi đã thuộc về Giáo hội Công giáo được 5 năm rồi, và vào năm thứ hai tại chủng viện, tôi nhận ra tiếng gọi làm linh mục.
Bạn trẻ người Nga nhấn mạnh rằng, anh thấy Giáo hội Công giáo có một sứ mạng đặc biệt mà chính anh được hưởng lợi từ đó: “Đưa mọi người ra khỏi bóng tối. Ít nhất đó là cách nó diễn ra trong cuộc đời tôi”.
Các yếu tố có thể dẫn đến đạo thờ Satan
Đối với Alexander, những yếu tố có thể dẫn ai đó vào cái mà anh gọi là “bóng tối” bao gồm “nỗi sợ hãi, nỗi đau mất mát, trải nghiệm về sự yếu đuối của bản thân, trải nghiệm bạo lực, chấn thương, v.v.” Anh tin rằng, nếu xử lý không tốt, những trải nghiệm này có thể dẫn đến cảm giác hụt hẫng và thậm chí là căm ghét Chúa.
Mê tín và chủ nghĩa bí truyền cũng gây ảnh hưởng. Anh lưu ý rằng “gần như cứ hai người thì trong đó có một người hướng cuộc sống của mình bằng những điều mê tín”. Anh đề cập đến hàng loạt những thực hành, chẳng hạn từ việc đeo một sợi chỉ đỏ trên tay, cho đến đôi mắt quỷ, đến chiêm tinh và tệ hơn: tất cả đều là những cách để cố gắng vượt qua điều mà “không có Chúa, không cảm thấy bất lực”. Alexander cảnh báo rằng sức mạnh của mê tín trong đời sống một người còn non nớt có thể đi đến chỗ “phải có một phép lạ thực sự trong Kinh thánh để đưa họ trở lại ánh sáng”.
Chúa Kitô là con đường
Alexander chỉ đường tới ánh sáng:
Từ chính bóng tối này, Chúa Kitô đưa con người trở lại qua Giáo hội, chỉ cần con người cho phép điều đó. Giống như cách Ngài đã đem kẻ bị quỷ ám ra khỏi cái chết. Cách Ngài đưa tôi ra, giải phóng tôi và chỉ cho tôi một con đường khác, một cách suy nghĩ khác, một nhận thức khác về bản thân.
Chúa Kitô có thể cho bạn thấy rằng, bất chấp sự yếu đuối của bạn, bất chấp nỗi đau của bạn, bất chấp mọi trải nghiệm tiêu cực của bạn, bạn vẫn đáng được sống, được cứu rỗi và được yêu thương. Và đây là điều chúng ta nên nói, nên công bố và nên sống.
Alexander kết luận:
Chúa Kitô thực sự chữa lành! Ngài thực sự dẫn chúng ta từ bóng tối đến ánh sáng, từ cái chết đến sự sống, từ Satan đến chính Ngài và đến với Chúa Cha. Giống như việc Chúa đưa tôi ra khỏi đó, Ngài có thể đưa bất cứ ai thoát ra. Ôi, ước gì chúng ta làm mọi điều trong khả năng của mình để mọi người biết đến Chúa và quyền năng của Ngài càng nhiều càng tốt!
Francisco Veneto
G. Võ Tá Hoàng chuyển ngữ
2023
Vatican xuất bản cẩm nang về chế tài hình sự trong Giáo hội
Theo giải thích của Đức cha Juan Ignacio Arrieta, Tổng Thư ký Hội đồng Tòa Thánh về các Văn bản Luật, tập sách không phải là văn bản quy định, cũng không chứa đựng những quy định pháp lý mới. Đúng hơn đó là một hướng dẫn hoặc cẩm nang có mục đích hướng dẫn các Giám mục và các Bề trên dòng tu trên khắp thế giới áp dụng chế tài hình sự của Giáo hội.
Đức cha Arrieta cho biết rằng với việc sửa đổi Quyển VI của Bộ Giáo luật vào tháng 5/2021, Toà Thánh nhận thấy cần phải ban hành cẩm nang càng sớm càng tốt, để hướng dẫn các Giám mục và Bề trên áp dụng. Từ đó với sự giúp đỡ của các chuyên gia tư vấn, chuyên gia trong lĩnh vực từ nhiều quốc gia khác nhau và với sự đóng góp của các Bộ có liên quan, Hội đồng Tòa Thánh về các Văn bản Luật đã phát triển văn bản nhằm góp phần đảm bảo sự an toàn của thủ tục tố tụng hình sự và cung cấp các tiêu chí hữu ích để bảo vệ quyền lợi của tất cả những người liên quan.
Theo quy định của Chế tài Hình sự năm 2021, sự hỗ trợ này gợi ý chỉ áp dụng chế tài hình sự khi cần thiết, nhưng không chậm trễ và với ý thức mục vụ. Vì thế, cẩm nang đặc biệt chú ý sử dụng điều gọi là “các biện pháp hình sự”, và đặc biệt “mệnh lệnh hình sự” để có được sự phục hồi và sửa chữa càng sớm càng tốt cho người đã phạm tội, không bỏ qua nghĩa vụ khắc phục hậu quả đã gây ra hoặc nghĩa vụ bồi thường và hỗ trợ đối với nạn nhân.
Cẩm nang được chia thành ba phần. Phần đầu tiên trình bày các quy định chung của luật hình sự. Phần thứ hai đề cập đến từng tội phạm trong Bộ Giáo luật, chỉ ra các yếu tố cấu thành phải có trong mỗi trường hợp phạm tội. Cuối cùng, phần thứ ba nhằm mục đích hướng dẫn quyền bính Giáo hội về cách tiến hành khi hoàn cảnh cho phép xét xử một tội phạm theo con đường hành chính, bảo đảm đầy đủ, thay vì đi theo con đường của thủ tục tư pháp đã được quy định bởi Bộ Giáo luật.
2023
Vatican xác nhận một em bé chào đời khi mẹ em tử đạo cũng sẽ được phong chân phước
Đức Hồng y Tổng trưởng Bộ Phong Thánh đã xác nhận thông tin trên trong một thông cáo đưa ra ngày 5/9/2023, trong đó ngài viết: “Liên quan đến những tin tức được lan truyền gần đây trên một số phương tiện truyền thông về cuộc tử đạo của gia đình Ulma”, Bộ Phong Thánh của Vatican xác định rõ như sau: “Vào thời điểm xảy ra vụ tàn sát, bà Wittoria Ulma đang ở giai đoạn cuối của thai kỳ đứa con thứ bảy của bà. Người con trai này được sinh ra vào thời điểm mẹ tử đạo.”
“Rửa tội bằng máu”
Do đó, Đức Hồng y khẳng định, “đứa trẻ này đã được thêm vào số những người con cũng là những vị tử đạo. Thực tế, trong cuộc tử đạo của cha mẹ mình, đứa trẻ đã nhận được phép rửa tội bằng máu.”
Thuật ngữ “rửa tội bằng máu” được dùng để chỉ những người, do sự tử đạo hoặc hy sinh nhân danh đức tin của mình, nhận được “phép rửa thiêng liêng” để thanh tẩy tâm hồn họ, ngay cả khi họ chưa được rửa tội theo hình thức thông thường là bằng nước.
Cuộc tử đạo của gia đình Ulma
Ông Bà Jozef Ulma và Wiktoria, cùng với 6 người con bị Đức quốc xã sát hại ngày 24/3/1944 ở làng Markowa, Ba Lan, vì đã quảng đại cho 8 người Do Thái, bị săn đuổi dưới thời quân Đức chiếm đóng nước này, được tá túc trong nhà. Trong số những người con bị giết, bé lớn nhất mới được 8 tuổi, em bé nhỏ nhất 1 tuổi rưỡi và có một người con 7 tháng đang ở trong lòng mẹ và đã chào đời vào thời điểm mẹ tử đạo.
Gia đình này được gọi là “Những người Samaria nhân lành ở Markowa”.
Theo Hồng Thủy – Vatican News