2021
Thánh Gioan Phaolô II tin rằng Chân phước Duns Scotus có thể giúp sức trong chống lại chủ nghĩa vô thần
Thánh Gioan Phaolô II tin rằng Chân phước Duns Scotus có thể giúp sức trong chống lại chủ nghĩa vô thần
Thánh Gioan Phaolô II tin rằng Chân phước triết gia Duns Scotus sở hữu một trí tuệ phi thường có thể giúp chống lại chủ nghĩa vô thần hiện đại.
Trong phạm vi triết học thời trung cổ, nhiều người đã quen thuộc với tác phẩm của Chân phước Duns Scotus, một tu sĩ dòng Phanxicô, người được xem là một trong những triết gia có ảnh hưởng nhất trong lịch sử.
Trong suốt nhiều thế kỷ, Chân phước Duns Scotus không chính thức nằm trong danh sách các vị được tuyên thánh, nhưng lòng sùng kính đối với ngài lại rất phổ biến.
Lòng sùng kính bình dân này đã được Thánh Gioan Phaolô II xác nhận vào ngày 20 tháng 3 năm 1993, khi nâng Duns Scotus lên hàng “Chân phước”.
Thánh Gioan Phaolô II đã nhìn thấy nơi Chân phước Dun Scotus một trí tuệ tuyệt vời, nhưng quan trọng hơn là một đời sống thánh thiện.
Trong thời đại chúng ta, mặc dù giàu có về nguồn nhân lực, kỹ thuật và khoa học cách phong phú, nhưng trong đó nhiều người đã đánh mất cảm thức đức tin và sống xa rời Chúa Kitô và Tin Mừng của Người (x. Redemptoris missio, số 33), riêng Chân phước Duns Scotus không chỉ thể hiện chính mình bằng trí tuệ sắc sảo và khả năng phi thường trong việc thâm nhập vào mầu nhiệm Thiên Chúa, mà còn bằng sức thuyết phục từ một đời sống thánh thiện đã làm cho ngài trở thành một Bậc Thầy về tư tưởng và đời sống đối với Giáo Hội và toàn thể nhân loại.
Đặc biệt, Thánh Gioan Phaolô II cùng với Thánh Phaolô VI nghĩ rằng những lời dạy của Chân phước Dun Scotus có thể giúp sức chống lại chủ nghĩa vô thần hiện đại.
Từ đó, học thuyết của ngài, như vị tiền nhiệm đáng kính của tôi là Đức Phaolô VI đã khẳng định, “sẽ có thể rút ra những thứ vũ khí sáng ngời để chiến đấu và xua đuổi đám mây đen của chủ nghĩa vô thần đang che khuất thời đại của chúng ta” (Epist. Apost. Alma Parens: AAS 58 [1966] 612), để phát triển Giáo Hội cách mạnh mẽ, hỗ trợ Giáo Hội trong sứ mệnh cấp bách của mình là tân Phúc Âm hóa cho các mọi dân tộc trên trái đất. Đặc biệt, đối với các Thần học gia, các Linh mục, các vị Mục tử chăn dắt linh hồn, các Tu sĩ, và đặc biệt đối với các tu sĩ dòng Phanxicô, Chân phước Duns Scotus là một tấm gương về lòng trung thành đối với chân lý mặc khải, về hành động sinh hoa kết quả của một linh mục, về đối thoại nghiêm túc trong nghiên cứu… Nguyện xin tinh thần và kỷ niệm về ngài soi sáng cho những đau khổ và hy vọng của xã hội chúng ta bằng chính ánh sáng của Chúa Kitô.
Khi chủ nghĩa vô thần liên tục trổi dậy trong xã hội hiện đại, có thể đây là lúc thích hợp để nhìn đến những lời dạy của Chân phước Duns Scotus và cầu xin ngài nguyện giúp cầu thay để xua đi “đám mây đen” đang che khuất tâm trí của mọi người ở khắp mọi nơi.
Theo Philip Kosloski
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2021
Vương cung Thánh đường Thánh Gioan Latêranô được đặt theo tên của vị thánh nào?
Vương cung Thánh đường Thánh Gioan Latêranô được đặt theo tên của vị thánh nào?
Vương cung Thánh đường Latêranô có nhiều tên gọi, đề cập đến Thánh Gioan Tẩy Giả, Thánh Gioan Tác giả Tin Mừng và thậm chí là cả Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.
Một trong những ngày lễ khó hiểu nhất trong năm là ngày 9 tháng 11, ngày lễ Cung hiến Thánh đường Thánh Gioan Lateranô. Ngày lễ này nhằm tôn vinh dịp cung hiến nhà thờ chánh toà chính thức của Đức Giáo hoàng, nơi các Giáo hoàng thời kỳ đầu đã sống trong nhiều thế kỷ trước khi thành phố Vatican được thành lập.
Điều khó hiểu nhất về ngày lễ này là Vương cung Thánh đường Latêranô lại có nhiều tên gọi, mỗi tên gọi đều có một lịch sử riêng.
Vương cung Thánh đường Đấng Cứu Thế Cực Thánh
Thánh Giáo Hoàng Sylvester lần đầu tiên cung hiến nhà thờ này vào ngày 9 tháng 11 năm 324, với danh hiệu Vương cung thánh đường Đấng Cứu Thế Cực Thánh. Tên gọi này cũng được đề cập đến theo một số cách, bao gồm cả Vương cung thánh đường Đấng Thánh Cứu Thế (Basilica of Saint Savior), có nghĩa đơn giản là, “Đấng Cứu Thế Chí Thánh” (Holy Savior).
Vương cung Thánh đường trước hết là dành riêng cho Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế của chúng ta.
Vương cung Thánh đường Latêranô
Theo Bách khoa toàn thư Công giáo, “Địa điểm này, vào thời cổ đại, bị chiếm đóng bởi cung điện của gia đình Laterani… Cuối cùng, cung điện đã rơi vào tay của Constantine, vị hoàng đế Kitô giáo đầu tiên, thông qua vợ của hoàng đế là Fausta, và cũng từ người vợ này mà sau đó nơi này được đổi tên để đôi khi còn được gọi là ‘Domus Faustæ’ (Nhà của Fausta).”
Để công nhận chi tiết lịch sử này, tên gọi Latêranô tiếp tục được gắn kết với Vương cung Thánh đường cổ kính này.
Vương cung Thánh đường Thánh Gioan
Tên “Gioan” sau đó được thêm vào Vương cung Thánh đường này do một tu viện Dòng Bênêđictô của Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tác giả Tin Mừng được thành lập gần đó.
Người ta cũng cho rằng nơi dùng để cử hành Bí tích Rửa Tội (baptistery) liền kề với nhà thờ này đã được định danh nhằm để tôn vinh Thánh Gioan Tẩy Giả.
Những cái tên thường được kết hợp theo một kiểu viết tắt, dẫn đến khó hiểu như “Thánh Gioan Latêranô ” – hoàn toàn không phải là một vị thánh.
Trên hết, mặc dù Vương cung Thánh đường này có nhiều nguồn gốc lịch sử, nhưng nơi này vẫn là “nhà thờ mẹ của các nhà thờ”, và là nhà thờ chánh toà chính thức của Đức Giáo hoàng.
Tác giả: Philip Kosloski
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2021
Người mù-điếc có thể làm phó tế được không? Câu chuyện cảm động của phó tế Peter Hepp
Người mù-điếc có thể làm phó tế được không? Câu chuyện cảm động của phó tế Peter Hepp
Người mù-điếc có thể làm phó tế trong Giáo hội công giáo được không? Nhiều người nghĩ đây là chuyện không thể. Tuy nhiên, câu chuyện của thầy phó tế Peter Hepp lại chứng minh ngược lại.
Khi chúng ta biết câu chuyện sâu đậm của thầy phó tế Peter Hepp, 59 tuổi, chúng ta bước vào thế giới của những người mù-điếc, một dạng khuyết tật phức tạp ít được biết đến. Sinh ngày 30 tháng 6 năm 1961 tại Rottweil, Đức, ngoài việc ít nói, Peter phát triển bình thường như các em bé khác. Cha mẹ nghĩ con mình bị kẹt gì đó trong hệ thống tâm lý nên em không diễn tả bình thường được. Cho đến khi Peter lên 3, bác sĩ mới chẩn đoán em bị điếc hoàn toàn. Chẩn đoán này là cú sốc cho cả nhà.
Trong suốt thời thơ ấu, Peter giao tiếp khó khăn. Nhưng nhờ trí thông minh trên trung bình nên em biết cách quan sát mọi người, đoán đúng tâm trạng của họ và hiểu được các cử chỉ đơn giản của người đối diện. Năm 6 tuổi, em học ở một trường công giáo, trường này nội trú dành cho trẻ khiếm thính do các nữ tu phụ trách. Thời gian đầu em thích ứng rất khó khăn, nhưng với thời gian em ổn định cuộc sống và kết bạn với những em bé khiếm thính khác.
Sau khi học xong tiểu học, Peter quyết định tiếp tục học gần nhà. Với sự giúp đỡ của một người bạn, em ghi tên học chuyên viên dựng phim. Chỉ có anh là học sinh khiếm thính duy nhất. Em bắt đầu thời kỳ cô đơn nặng và bị loại trừ, không ai nói chuyện với em như thể em là người vô hình. Đây là lúc anh cảm nhận có tiếng gọi: giúp những người khiếm thính và hiểu rằng chức phó tế là con đường tốt nhất cho mình.
Từ tuyệt vọng trở lại với đức tin
Một thời gian sau, Peter nhận thấy thị lực của mình bắt đầu giảm nặng. Và bác sĩ chẩn đoán một tin xấu. Lần đầu tiên, gia đình nghe tên của một chứng bệnh lạ, hội chứng Usher, một rối loạn di truyền rất hiếm gặp, đặc trưng do sự kết hợp của điếc hoặc mất thính lực với suy giảm thị lực tăng dần. Kết quả chẩn đoán làm cho Peter tuyệt vọng vô cùng và đã có ý định tự tử. Sau đó, anh bỏ dự định làm phó tế để học bảng chữ cái Braille, giống bảng chữ Lorn. Bảng chữ cái Braille giúp người mù-điếc giao tiếp: các chữ cái được đặt trên tay của người khuyết tật. Bằng cách chạm liên tiếp vào các chữ cái, các từ sẽ được hình thành.
Dần dần, Chúa cất buồn phiền ra khỏi tâm hồn anh. Anh cho thấy dù mù-điếc, anh cũng có thể mang phúc âm đến cho người khác.
Dần dần, Chúa cất buồn phiền ra khỏi tâm hồn anh. Anh cho thấy dù mù-điếc, anh cũng có thể mang phúc âm đến cho người khác. Tìm được bình tâm, cuối cùng anh quyết định phó thác hoàn toàn vào ơn Chúa và hòa giải được với cuộc sống.
Cú sét
Khi đến bệnh viện Heidelberg để phẫu thuật cấy ghép máy trợ thính, Peter đã gặp được tình yêu đời anh. Tên cô là Maïta và cô đang thực tập ở khoa này. Tính thẳng thắn và không thành kiến của cô gái trẻ đã cuốn hút anh ngay lập tức. Để nói chuyện với anh, cô muốn học bảng chữ Lorm. Yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên. Dĩ nhiên mối quan hệ này không thể không làm cho gia đình lo ngại. Cha mẹ của Maïta nghi ngờ về sự lựa chọn của con gái mình, nhưng hai người dứt khoát tiến tới và họ kết hôn theo nghi thức tôn giáo ngày 29 tháng 8 năm 1998.
Chịu chức
Sau đám cưới, Peter tham dự các sinh hoạt xã hội dành cho những người điéc và người mù-điếc. Cha linh hướng Huber không nghĩ Peter có thể thành phó tế. Tuy nhiên, cha hiểu, đây đích thực là tiếng gọi của Chúa. Khi đó cha quyết định nâng đỡ anh Peter, giúp anh thực hiện ước mơ của mình. Tháng 9 năm 2000, Peter trở thành tuyên úy của người mù-điếc. Với quyết tâm và lòng kiên trì, anh nhận được sự giúp đỡ của giáo xứ của anh, họ trợ cấp tài chánh để anh trả tiền cho các thông dịch viên chuyên ngành. Sau khi thi xong, cuối cùng anh được phong phó tế ngày 7 tháng 6 năm 2003.
Nhờ Maïta, nhờ sự giúp đỡ của bạn bè, nhưng trên hết là nhờ đức tin vào Chúa và lòng quyết tâm cao độ, Peter đã tìm được ý nghĩa cuộc sống và hoàn thành thiên chức làm phó tế cho người điếc và người mù-điếc. Thầy phó tế Peter viết trong quyển tự truyện của mình: “Chúa đã hóa giải tất cả những trở ngại đã cản con đường tôi,”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2021
Cha Carlo Buzzi – nhà truyền giáo dùng giáo dục giúp dân nghèo Bangladesh thay đổi cuộc đời
Cha Carlo Buzzi – nhà truyền giáo dùng giáo dục giúp dân nghèo Bangladesh thay đổi cuộc đời
Hơn 45 năm truyền giáo tại Bangladesh, đặc biệt là tại làng Belkuchi trong 24 năm qua, cha Carlo Buzzi đã giúp thay đổi cuộc đời của nhiều người dân nghèo Bangladesh bằng cách mở các trường học cho trẻ em và người lớn mù chữ. Bằng sự chân thành của mình, cha Buzzi còn giúp cho mối quan hệ giữa các Kitô hữu và người Hồi giáo trong vùng trở nên thân thiết. Với chiếc xe máy hiệu Suzuki cũ kỹ, mỗi Chúa Nhật cha vượt con đường 50km đầy ổ gà để cử hành Thánh lễ và thăm hỏi các giáo dân của mình.
(Photo: Stephan Uttom/UCA News)
Vào mỗi Chúa Nhật, khi người dân làng Belkuchi nghe thấy tiếng chiếc xe Suzuki cũ đang đến gần, họ biết đó là cha Carlo Buzzi, linh mục người Ý đang trở lại để làm việc mục vụ.
Cha Carlo Buzzi, 78 tuổi, là một nhà truyền giáo thuộc Hội Giáo hoàng Truyền giáo hải ngoại. Sau khi làm giáo viên trung học, vào ngày 10/1/1975, bốn năm sau khi quốc gia nghèo Bangladesh ở vùng Nam Á giành được độc lập từ Pakistan, cha Buzzi đến Bangladesh.
Sau chín tháng học tiếng Bengali, cha làm việc cho tổ chức bác ái Công giáo Caritas. Cha điều hành 20 trường học cho trẻ em và người lớn mù chữ, điều hành 48 ngân hàng gạo cho nông dân nghèo, khoảng 20 trung tâm nuôi tằm và dệt vải cho phụ nữ và thắng hơn 200 phiên toà liên quan đến tranh chấp đất đai. Sau đó, cha phục vụ tại giáo xứ Chúa Kitô Vua ở quận Naogaon và các nhà thờ ở quận Pabna, Natore và Bogra. Tại mỗi giáo xứ, cha điều hành các trường học và ký túc xá cho các trẻ em của các gia đình nghèo.
Vào năm 1997, cha Buzzi đến giáo xứ Ave Maria ở Gulta, nơi có khoảng 800 người Công giáo, thuộc giáo phận Rajshahi. Cha nhanh chóng nhận thấy ở Belkuchi, một giáo họ của giáo xứ này có những người Công giáo sắc tộc Garo. Khoảng 20 tín hữu Công giáo này là những người đã di cư từ giáo phận Mymensingh ở miền trung bắc để chạy trốn nghèo đói. Họ đã làm việc trong các nhà máy dệt và may mặc địa phương từ những năm 1980. Cha đã xây dựng một chiếc lều bằng tôn để giáo dân địa phương quy tụ và thờ phượng; cha đặt tên là Nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Cha cũng tổ chức họ thành một ngôi làng cộng đồng, được đặt theo tên của sơ Sueva, một nữ tu người Bangladesh sắc tộc Garo đã bị quân nổi dậy sát hại ở Sierra Leone, Tây Phi, vào năm 1999. Sau đó cha Buzzi đã khai hoang và phục hồi một nghĩa trang Kitô giáo thời thuộc địa Anh ở Sirajganj, bị người Hồi giáo chiếm đóng bất hợp pháp trong nhiều thập kỷ. Và cha đã phục vụ tại làng Belkuchi trong 24 năm qua.
Cha Buzzi phải đi xe máy mất 2 tiếng đồng hồ, qua chặng đường 50 km từ giáo xứ chính của mình đến ngôi làng. Tuổi tác ngày càng cao, việc đi lại bằng xe máy ngày càng khó khăn mệt mỏi, một phần vì con đường đến điểm truyền giáo thường đầy những ổ gà đọng nước. Nhưng ở một nơi mà xe xích lô và xe kéo ba bánh vẫn là phương tiện giao thông chính, cha Buzzi tiếp tục dựa vào chiếc xe máy của mình. Cha không có quần áo đặc biệt dành để lái xe. Sau khi xắn chiếc quần dài lên khỏi mắt cá chân để tránh bị ướt nước mưa và nước từ các ổ gà văng lên, cha trùm lên mình một chiếc áo mưa bằng nhựa khi chuẩn bị lên đường đến Belkuchi.
Mọi người tụ tập xung quanh cha khi cha bước xuống khỏi chiếc xe máy dựng trước nhà kho lợp tôn được dùng làm nhà thờ cho khoảng 350 người Công giáo trong ngôi làng thuộc huyện Sirajganj. Cha dâng Thánh lễ Chúa Nhật cho các tín hữu và thăm hỏi dân làng, chào hỏi họ, hỏi thăm tình trạng sức khỏe của họ và đưa ra giải pháp cho những vấn đề khác nhau, dù là liên quan đến giáo dục, đến việc làm hay tranh cãi trong gia đình. Ngay cả những người dân làng Hồi giáo cũng thường đến để xin lời khuyên của cha.
Hiện nay cha Buzzi đang bận rộn điều hành bốn trường mầm non và một chương trình tài trợ giáo dục cho trẻ em và người lớn ở thị trấn Sirajganj. Cha tiếp tục sứ vụ giáo dục của mình ở Gulta và Belkuchi như một công cụ chính để đưa các gia đình thoát khỏi vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Ở Bangladesh, cha đã thấy nghèo đói làm tê liệt các cộng đồng dân cư như thế nào.
Cha chia sẻ: “Ở đất nước chúng tôi, chúng tôi tự hỏi hôm nay nên ăn gì – thịt heo, thịt cừu hay thịt gà? Nhưng người dân ở nhiều quốc gia như Bangladesh tự hỏi liệu ngày hôm nay họ có thức ăn hay không”. Cha nói tiếp: “Ngay từ đầu, tôi đã nhấn mạnh đến giáo dục bởi vì không có giáo dục thì không điều gì tốt đẹp có thể bền vững và không thể hội nhập xã hội”.
Cha Buzzi cũng muốn làm việc giữa những người ngoại đạo và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa các tôn giáo thông qua công việc của mình. Cha lưu ý: “Điều này rất cần thiết đối với các Kitô hữu ở một quốc gia đa số theo đạo Hồi”.
Ông Liton Deo, một tín hữu Công giáo 60 tuổi, cho biết, trước khi cha Buzzi đến, các Kitô hữu trong khu vực này đã che giấu danh tính tôn giáo của mình vì sợ bị những người hàng xóm Hồi giáo của họ trả thù. Ông nói: “Mọi thứ đã thay đổi tốt đẹp kể từ khi cha Carlo đến. Hôm nay chúng tôi sống với niềm vui”. Ban đầu, những người Hồi giáo nghi ngờ vị linh mục đang cố gắng cải đạo họ. Nhưng cha Buzzi đã giành được trái tim của họ bằng cách đối thoại liên tục và giúp họ cải tạo một trường học địa phương.
Mohammad Ali, 52 tuổi, một giáo sĩ Hồi giáo địa phương, chia sẻ: “Chúng tôi bị cuốn hút bởi việc làm của cha. Sau khi bị thuyết phục rằng cha không đến để cải đạo người Hồi giáo, chúng tôi đã cho phép cha xây dựng nhà thờ và tự do làm mọi thứ”. Ông Ali cho biết dân làng Hồi giáo và Kitô giáo hiện đang sống hòa bình như những người bạn.
Trở lại giáo xứ Ave Maria, cha Carlo Buzzi không lo lắng về tương lai của Giáo hội địa phương cũng như không quan tâm đến việc mình sẽ chết hay được chôn cất ở đâu. Cha nói: “Khi tôi già đi và không thể di chuyển được nữa, tôi sẽ chuyển đến một nhà của hiệp hội. Tôi không muốn làm phiền bất cứ ai. Tôi muốn ở lại Bangladesh và sống với mọi người bao lâu tôi còn sống. Tôi nên được chôn cất tại nơi tôi chết để xác tôi không phải được vận chuyển gây tốn kém”. (Ucanews 25/10/2021)
Hồng Thủy