2022
Giáo hội Áo lo ngại vì luật trợ tử đã có hiệu lực
Giáo hội Áo lo ngại vì luật trợ tử đã có hiệu lực
Giáo hội Công giáo Áo lo ngại vì luật gây tranh cãi cho phép trợ tử đã có hiệu lực, bất chấp sự phản đối trước đó của các Giám mục.
Chăm sóc cuối đời
Vào tháng 10/2021, chính phủ Áo đã đệ trình lên quốc hội dự thảo luật hợp pháp hoá trợ tử; ngày 31/12/2021, quốc hội đã thông qua; và như vậy bắt đầu tháng 01/2022 luật đã có hiệu lực.
Trong Đại hội đồng tháng 11/2021, các Giám mục Áo đã mạnh mẽ lên tiếng phản đối dự luật này. Đức Tổng Giám mục Franz Lackner, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Áo cảnh báo rằng luật này “là một sai lầm không thể chấp nhận được”. Ngài bày tỏ lo ngại vì theo luật, những người xin trợ tử chỉ có hai bác sĩ xem xét, đánh giá, không có sự can thiệp của nhà tâm lý học lâm sàng hoặc bác sĩ tâm thần. Điều này khiến việc trợ tử trở thành một đơn thuốc tầm thường vì nó hầu như không thể truy tố.
Các Giám mục Áo cho rằng việc hợp pháp hóa trợ tử là một phần của “xu hướng văn hóa, trong đó hình thức sống đáng sống duy nhất là một cuộc sống đầy tràn và năng động”. Các vị mục tử lên án cách gọi hoa mỹ – “chết với phẩm giá” – xung quanh luật trợ tử ở Áo, một quốc gia đa số Công giáo, và lo ngại rằng luật này sẽ góp phần tạo nên một kỷ nguyên mà “mọi khuyết tật hay bệnh tật đều bị coi là thất bại không thể chịu đựng được”.
Theo các Giám mục, thay vì trợ tử thì cần có thêm các nguồn tài chính để hỗ trợ những người đau khổ và bệnh nhân nan y. Thực tế, luật đã phớt lờ xem các vụ tự tử là một bi kịch của con người và mọi sự sống đều có giá trị. Luật “bất công đối với tất cả những người có thể ‘chết với nhân phẩm’”, thay vì cung cấp một sự chăm sóc chu đáo và đáng tin cậy.
Ngọc Yến
2022
Niềm hy vọng đã hướng dẫn thế giới trong hai năm đại dịch
Niềm hy vọng đã hướng dẫn thế giới trong hai năm đại dịch
Nhận xét về hoạt động trong hai năm qua của Uỷ ban Vatican về Covid-19 của Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, ông Alessio Pecorario, điều phối viên của Ủy ban nói rằng: “Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng chính niềm hy vọng đã hướng dẫn thế giới trong hai năm qua”.
Trang phục bảo hộ phòng chống dịch
Trong cuộc phỏng vấn của Vatican News, ông Alessio Pecorario cho rằng, trong hai năm qua, với sự phức tạp, nếu đánh giá về tình hình thế giới so với lúc mới bắt đầu đại dịch, thì khó có thể nói tốt hơn hay tệ hơn. Nhưng đi vào cụ thể của các yếu tố tích cực và tiêu cực, chúng ta thấy rằng: Về mặt tiêu cực: theo Viện Nghiên cứu Hoà bình Quốc tế Stockholm, trong năm 2020 chi tiêu quân sự thế giới là 1.981 tỉ đô la, mức tăng cao nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế năm 2008-2009. Còn theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, năm 2020, tổng sản phẩm quốc nội thế giới giảm gần 5%.
Về mặt tích cực: Có một sự bùng nổ tình liên đới, chúng ta có thể thấy rõ “tính lây lan” của tình liên đới mạnh hơn sự lây lan của Covid. Điều này không có nghĩa đơn giản hoá tình hình thế giới ở những cụm từ “một nền chính trị xấu” và “một xã hội dân sự tốt”. Kinh nghiệm dạy chúng ta rằng công ích được sinh ra từ sự cộng tác của các bên có tiếng nói liên đới, và chính Uỷ ban Vatican về Covid-19 được Đức Thánh Cha xem là một thời điểm kết nối giữa các nhu cầu địa phương và sự điều hành thế giới, về một kế hoạch giữa khoa học và thần học, để cùng nhau thoát ra khỏi đại dịch trong một tình bạn xã hội.
Đối với Giáo hội, trong hai năm qua, Giáo hội cũng đã rút ra được bài học về các mô hình loan báo Tin Mừng mới. Đại dịch đã làm nổi bật sự cần thiết “hoán cải Giáo hội”, một “Giáo hội đi ra”, điều Đức Thánh Cha mong muốn. Vì thế, chúng ta phải tiếp tục hành động như thế, để Giáo hội trưởng thành trong sự hiệp thông năng động, một Giáo hội hiệp hành.
Với tình hình hiện nay, điều quan tâm nhất của Uỷ ban Vatican về Covid-19 vẫn là sự tiếp cận bình đẳng vắc-xin. Theo nghĩa này, trước hết, Uỷ ban đã cùng với Hàn lâm viện Toà Thánh về Sự sống đã đưa ra một tuyên bố chung có tên gọi “Vắc-xin cho tất cả”. Tiếp đến, về mặt chính trị, Uỷ ban đã triệu tập ngoại giao đoàn cạnh toà thánh để thảo luận và để giảm nhẹ những tác động của sự cạnh tranh xấu và phát triển một bầu khí bớt căng thẳng. Ngoài ra, để giúp mọi người nhận được thông tin đúng về tiêm chủng, Uỷ ban ủng hộ sáng kiến “các nữ tu đại sứ” cho các chương trình tiêm chủng. Thực tế, ở cấp địa phương các nữ tu là những người có thể trợ giúp vấn đề này.
Uỷ ban còn quan tâm đến các yếu tố khác nữa, như suy thoái kinh tế và nghèo đói, hệ sinh thái toàn diện, hoà bình và an ninh.
Theo ông Alessio Pecorario, với những kinh nghiệm của Uỷ ban, thì chìa khoá để thế giới có niềm hy vọng cho tương lai đó là việc cùng nhau bước đi của các tôn giáo, khoa học và chính trị, và cần đón nhận bài học giá trị nhất của đại dịch, đó là không ai được cứu một mình.
Ngọc Yến
2022
Hơn nửa thế kỷ phục vụ ở Campuchia của cha François Ponchaud
Hơn nửa thế kỷ phục vụ ở Campuchia của cha François Ponchaud
Ngày 21/12/2021, đánh dấu một dấu ấn quan trọng của lịch sử Giáo hội Campuchia. Một trang sử đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, cha François Ponchaud, một linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris, sau 56 năm truyền giáo tại Campuchia, ở tuổi 82, đã trở về Pháp, tiếp tục sứ vụ truyền giáo trong cầu nguyện tại nhà hưu dưỡng ở Paris.
Cha François Ponchaud với tín hữu Campuchia
Cha François đặt chân đến Campuchia vào năm 1965, chỉ một năm sau khi được thụ phong linh mục. Không biết gì về Campuchia, cha bắt đầu học tiếng Khmer và nghiên cứu văn hoá Phật giáo Campuchia.
Từ năm 1969 đến năm 1975, nhà truyền giáo phục vụ tại Hạt Phủ doãn Tông toà Kompong Cham, phía đông bắc Phnom Penh, dọc theo sông Mekong. Ngày 17/4/1975, Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh. Ngày 8/5/1975 cùng với những người nước ngoài khác, cha bị trục xuất. Cha Ponchaud là một trong những người cuối cùng rời đất nước. Chứng kiến những gì Khmer Đỏ đã làm, cha viết cuốn sách về nạn diệt chủng Khmer Đỏ “Campuchia năm không”, xuất bản năm 1977. Cuốn sách là một câu chuyện thành công trên toàn thế giới và tiết lộ cho mọi người biết mức độ tội ác của Khmer Đỏ. Mục tiêu chính của cha là đánh thức nhận thức. “Tôi không thể giữ im lặng về những gì tôi đã thấy và những gì Khmer Đỏ đã làm. Đây không phải vì lý do ý thức hệ, nhưng đơn giản vì những gì được báo cáo là không đúng”, cha nói trong một hội nghị tại trung tâm văn hóa Pháp ở Phnom Penh vài ngày trước khi rời Campuchia.
Năm 1993, cha trở lại Phnom Penh, và thành lập Trung tâm Văn hóa Công giáo Campuchia, để dạy ngôn ngữ và văn hóa Khmer cho các nhà truyền giáo và tình nguyện viên trẻ.
Đức cha Olivier Schmitthaeusler, đại diện Tông tòa của Phnom Penh cho biết. “Khi tôi đến Campuchia vào năm 1998, ba nhà truyền giáo đã đợi tôi ở sân bay. Một trong số họ là cha Ponchaud, và ngài đã đưa tôi đến thẳng Trung tâm Văn hóa Công giáo Campuchia. Tôi bắt đầu học tiếng Khmer tại đây với một giáo viên người Campuchia, và học các thuật ngữ tôn giáo tiếng Khmer với cha Ponchaud”.
Đức cha nói thêm: “Chúng tôi rất biết ơn cha Ponchaud vì cha đã làm việc cần mẫn, dịch Kinh Thánh sang tiếng Khmer. Cha cũng đã dịch các văn kiện của Công đồng Vatican II. Cám ơn cha rất nhiều. Cha đã giúp chúng tôi đặt câu hỏi: Làm thế nào để nói về mầu nhiệm Thiên Chúa trong văn hoá Khmer? Làm thế nào để nói về Chúa Giêsu cho người Campuchia? Làm thế nào để làm cho người dân nghiệm thấy tình thương của Chúa dành cho chúng ta? Mặc dù không phải tất cả đều trở lại Công giáo, nhưng họ hiểu rằng cuộc sống có giá trị. Thiên Chúa là Cha trao ban cho chúng ta niềm hy vọng”.
Trong nhiều năm, nhà truyền giáo đã không ngừng chuyển dịch các bản văn thánh sang văn hóa Campuchia, với bước cơ bản đầu tiên là bản dịch Kinh thánh sang tiếng Khmer, hoàn thành vào năm 1997. Sau đó là các sách phụng vụ, giáo lý cho trẻ em hoặc các tác phẩm dành cho tân tòng. Đồng thời, cha phụ trách một giáo xứ, giúp xây dựng trường học, nhà vệ sinh hoặc con đê để bảo vệ nông nghiệp địa phương khỏi lũ lụt. Năm 2014, chính phủ đã cấp quốc tịch Campuchia cho cha.
“Tôi đến Campuchia không phải để cải đạo dân chúng nhưng nhằm giúp người dân Campuchia hiểu giá trị của tôn giáo của họ”, cha giải thích và nói thêm rằng cha rất vui khi người ta trở thành Công giáo, nhưng đó không phải là mục tiêu của cha. Cha nói: “Mục tiêu chính là giúp mọi người hiểu rõ ràng những gì Đức Phật đã dạy và những gì Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng, đồng thời giúp họ sống với nhau và yêu thương nhau. Cuộc sống của chúng ta có giá trị, ngay cả khi chúng ta nghèo khó. Chúng ta có thể cùng nhau tiến bước. Đó là Tin Mừng mà hiện nay chúng tôi đang loan báo ở Campuchia”.
Một Thánh lễ tiễn biệt đã được cử hành vào ngày 19/12/2021 tại Nhà thờ Thánh Giuse ở Phnom Penh. Mọi người đều nhìn nhận những đóng góp của cha cho xã hội Campuchia, trong các lĩnh vực giáo dục và phát triển xã hội.
Trong Thánh lễ, một người Công giáo làm chứng: “Trong chế độ Pol Pot, ngay cả khi các nhà truyền giáo không thể vào Campuchia, cha Ponchaud và một số nhà truyền giáo khác đã không ngừng đến các trại tị nạn ở biên giới Campuchia và Thái Lan, rao giảng Tin Mừng cho người Campuchia biết Chúa là Đấng Cứu Độ của họ, Đấng trao ban hy vọng và tình thương. Cha đã soạn một cuốn sách giáo lý dành cho những người đang ở trại tị nạn, kết quả là sau đó có nhiều người đã được rửa tội. Cha còn soạn một số sách cầu nguyện khác để giúp các tín hữu cầu nguyện trong lúc nhiều linh mục và tu sĩ bị Khmer đỏ giết hại”.
Trước khi rời sân bay ở thủ đô Campuchia, nhà truyền giáo hứa sẽ trở lại thăm đất nước và bày tỏ nguyện vọng được an táng tại đó. Cha chia sẻ: “Tôi là tôi tớ Chúa. Chúa đang sử dụng tôi. Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo nhưng tôi tin tưởng vào Chúa”.
Ngọc Yến
2022
416 triệu Kitô hữu sống trong khu vực có nguy cơ bị bách hại
416 triệu Kitô hữu sống trong khu vực có nguy cơ bị bách hại
Theo Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ, trong năm 2021, trên thế giới có 416 triệu Kitô hữu phải sống trong những vùng đất bị bách hại tôn giáo. Nhưng từ chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Trung Đông, ánh sáng hy vọng đã có, ngày càng có nhiều chính phủ quan tâm đến chủ đề tự do tôn giáo trong các phúc trình hàng năm và đã có các đặc phái viên về vấn đề này.
Cầu nguyện
“Chúng tôi rất buồn khi hàng tuần nhận các báo cáo về các vụ bách hại và bạo lực tôn giáo. Các linh mục, tu sĩ và giáo dân đã bị giết hại, bắt cóc hoặc lạm dụng trong khi thi hành sứ vụ”, ông Thomas Heine-Geldern, Chủ tịch điều hành của Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ nói trong một thông điệp cuối năm, đặc biệt đề cập đến Ấn Độ, Nigeria, Mozambique và các khu vực của Sahel.
Còn ông Alessandro Monteduro, Giám đốc Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ ở Ý cho biết cụ thể hoàn cảnh của các Kitô hữu bị bách hại trên thế giới như sau:
Năm qua là một năm đau khổ đối với quyền tự do tôn giáo. Tất cả phúc trình của các tổ chức bác ái và của các chính phủ đều cho thấy rõ điều này. Ước tính có khoảng 416 triệu Kitô hữu phải sống trong các vùng đất bị bách hại, nghĩa là hàng ngày họ phải đối diện với nguy cơ bị bách hại.
Nguyên nhân của sự gia tăng các vụ bách hại tôn giáo là do các chính phủ giảm kiểm soát, hiện tượng cực đoan hoá ngày càng tăng, thánh chiến bành trướng. Vì vậy các Kitô hữu ngày càng phải chịu đau khổ nhiều hơn. Điều này có thể thấy rõ ở châu Phi. Khắp châu Phi, có ít nhất vài chục tổ chức khủng bố có tham vọng đặt vương quốc Hồi giáo trên lãnh thổ.
Nhưng dù sao theo ông Monteduro vẫn có những ánh sáng hy vọng trong năm mới. Bởi vì, trong năm qua, chuyến viếng thăm lịch sử của Đức Thánh Cha đến Iraq đã mang lại kết quả. Cuộc tông du đã truyền tải một sứ điệp về sự tha thứ và hoà giải, tình liên đới và sự gần gũi với các anh chị em chúng ta, những người mà từ năm 2014 đến năm 2016 đã phải đau khổ vì cuộc bách hại của Nhà nước Hồi giáo. Bên cạnh đó, các chính phủ như Mỹ, Anh, Đức, Hà Lan… đã đưa ra các phúc trình về tự do tôn giáo. Ngoài ra họ còn có những đại sứ về lĩnh vực này. Tất cả những điều này là dấu hiệu của niềm hy vọng.
Hướng về tương lai, cách riêng năm mới 2022, ông Monteduro cho rằng “Cần phải cẩn thận, vì nếu không tình hình sẽ khó khăn hơn. Chúng tôi hy vọng đại dịch mau chấm dứt, bởi vì cùng với đại dịch, các cuộc bách hại tôn giáo vì thù hận đức tin cũng gia tăng”.
Ngọc Yến