2022
Giáo hội Hiệp Hành: Giáo hội nhìn từ bên trong
Giáo hội Hiệp Hành: Giáo hội nhìn từ bên trong
GIÁO HỘI HIỆP HÀNH: GIÁO HỘI NHÌN TỪ BÊN TRONG
(Bài chia sẻ dành cho các tu sĩ về Giáo hội hiệp hành)
Linh mục Giuse Nguyễn Văn Am, SDB
Dẫn nhập
Cám ơn anh chị em đã hưởng ứng tích cực trước những hướng đi của Đức Phanxicô và qua đó của toàn Giáo hội (GH), trong đó có GH tại VN. Chúng ta đã luôn cầu nguyện và hiệp thông với GH hoàn vũ, được cụ thể hoá nơi vị Đức Phanxicô, đại diện Vị Chủ Chăn Tối Cao và Nhân lành của GH, Đức Giêsu Kitô.
Đó chính là công trình của Thánh Thần nơi tất cả chúng ta. Đó là cảm thức đức tin, là bản năng đức tin mà dầu Thánh Thần luôn đảm bảo cho chúng ta trong chân lý Tin mừng. Chúng ta hãy can đảm tiến bước.
Hôm nay, xin được chia sẻ với anh chị em, cách riêng các tu sĩ, về GH hiệp hành. Nhưng với chủ đề khác: Hãy nhìn, hãy sống, hãy là GH từ bên trong.
Xin anh chị em hiểu cho, bài này tôi hướng tầm nhìn cách riêng tới các tu sĩ nam nữ. Nhưng không phải như một giới riêng biệt. Song đúng hơn, như những tín hữu, như những môn đệ Đức Kitô được thôi thúc để sống ơn gọi thánh tẩy một cách sung mãn và tròn đầy hơn. Nó không tạo cho các tu sĩ nam nữ như một thành phần ưu tuyển cho bằng là một chứng từ sống động để nói rằng ơn gọi thánh tẩy, ơn gọi theo Đức Kitô cách triệt để là có thể được trong ơn sủng của Thiên Chúa, đấng hoàn thành những gì tốt đẹp ngài đã khởi sự nơi các tín hữu Đức Kitô.
- ĐỊNH VỊ NGƯỜI TU SĨ
Một cách sơ lược, chúng ta biết rằng đời sống tu sĩ được phát sinh từ đời sống thánh tẩy trong đó có một nhịp độ kép: thoát ra khỏi lối sống và hành động của thế gian và hoàn toàn hiến mình cho Thiên Chúa.
Vatican II đã muốn canh tân đời tu sĩ bằng cách kêu gọi trở về nguồn, bỏ đi những gì không làm sáng tỏ giá trị cội nguồn của đoàn sủng và thích ứng, nghĩa là, can đảm trình bày đoàn sủng ấy một cách mới mẻ trong sự trung thành. Đó không phải chỉ là một sự thay đổi suông, như thể đi mỹ viện. Phải hơn, đó là một cuộc hoán cải mang tính GH ngay trong hoàn cảnh hôm nay của mỗi tu sĩ, xét như cộng đoàn, hội dòng và cá nhân. Công đồng đảm bảo rằng giá trị đời tu không nằm ở chỗ quyền bính, phẩm trật trong GH, nhưng liên quan đến sự thánh thiện của một GH hoàn toàn đam mê Thiên Chúa và đam mê những con người. Và đó là một trong những chọn lựa cao quý nhất mà một người tín hữu có thể làm được.
Ơn gọi tu sĩ có thể coi như triều thiên của cộng đoàn đức tin. Ơn gọi đó không đến cách ngẫu hứng hay bất chợt. Nó luôn có chỗ rất lớn dành cho công nghiệp, cầu nguyện, chứng tá của cộng đoàn GH. Song không phải lúc nào ta cũng thấy được điều đó. Nó xuất phát từ GH, sống và tăng trưởng trong GH và vì GH.
Đức Phaolô VI, Gioan Phaolô II, và Bênêđictô XVI, Đức Phanxicô lại cho thấy rằng người tu sĩ ở tận sâu trong lòng GH. Trực giác đó, chị Têrêsa Hài đồng, diễn đạt rất đúng: trong GH tôi muốn là tình yêu. Nếu vậy, ta phải xác định mạnh mẽ rằng: từ tình yêu mãnh liệt đối với Đức Giêsu nhất thiết phát sinh tình yêu mến dành cho GH, bất chấp GH có là gì đi nữa. Ta không được để hai tình yêu đó tách rời hay cao thấp. Người tu sĩ cùng lúc hiến thân tuyệt đối cho Đức Kitô, thì cũng cùng lúc sống chết cho GH, Hiền thê của Ngài. Trực giác này không diễn đạt bằng lời, song bằng đời sống: một chị Teresa Calcutta, một Maximilian Kolbe, một Phanxicô Assisi, một Gioan Bosco, một Ignatio hay Anphongso. Ta chỉ kể ra một số rất nhỏ.
Vậy: người tu sĩ phải ở trong lòng GH cách mãnh liệt, phải cùng nhau bộc lộ GH là gì và GH sống cho điều gì. Ta có thể nói không sợ sai, song thật mạnh mẽ và thách đố rằng người tu sĩ, cá nhân cũng như cộng đoàn, giống như là một GH thu nhỏ để nói cho thế giới biết rằng Đức Kitô là trên hết, Thiên Chúa tình yêu lấp đầy mọi khát vọng yêu thương và tự do của con người và phụng sự Thiên Chúa trong GH là một niềm vui khôn tả.
Tại sao phải đặt mình ở trong: GH nhìn từ bên ngoài, ta cũng chỉ thấy những mảnh lắp ghép của cơ sở, thể chế, hiệp hội, hội đoàn. Và chúng chẳng là gì cà, nếu đúng là thể. Nhưng điều ấy mới chỉ là một mảnh của sự thật. Trong Giáo hội, chúng ta đang ở trong bình diện đức tin. “tôi tin có Hội thánh duy nhất…” Giống như ở ngoài nhà thờ chính toà, các tấm kiếng màu chỉ như là những tấm kiếng thô kệch, không đồng nhất. Chỉ khi ở trong chúng ta mới nhận ra vẻ đẹp của bức tranh xuyên qua những tấm kính khác nhau đó. Đó chính là điều đức Giêsu trong Tin mừng Marcô nói về người ở bên trong và bên ngoài đối với những dụ ngôn của ngài.
- ĐỊNH VỊ NGƯỜI TU SĨ, CÁ NHÂN VÀ CỘNG ĐOÀN, TRONG THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC 2021-2023
Câu hỏi thường đặt ra: chúng tôi, các tu sĩ, đóng góp gì cho Thượng Hội đồng Giám mục? Trong đó, ta có thể thấy ít nhất hai điều này: tôi và cộng đoàn tôi đóng góp cho Thượng Hội đồng Giám mục sắp tới một vài ý kiến, một số thách đố, một số vấn đề mà Giáo hội đang gặp phải tại địa phương tôi. Và thứ đến, Thượng Hội đồng Giám mục thật xa với chúng tôi. Bất quá chúng tôi chờ mong kết quả của những vị chuyên viên đưa ra, cũng như tông huấn hậu Thượng hội đồng Giám mục đó. Rồi thêm vào kho thư viện của chúng tôi. Nói tắt, Thượng Hội đồng Giám mục không phải của chúng tôi. Chúng ta đã từng làm như thế. Các Thượng Hội đồng Giám mục có tác động gì mấy trên chúng ta đâu. Không phải là nhiều chuyện khác gần chúng ta hơn hay sao?
Thái độ sống đó đúng là thái độ “chúng tôi đã từng làm như vậy mà”. Nhưng đó lại là điều mà Đức Phanxicô xác quyết: Không được nữa rồi. Nó chỉ bộc lộ một thái độ xa lạ, nếu không nói là dửng dưng, đối với Giáo hội thiết thân với ý nghĩa và đời sống của tôi.
Chính điều này cho chúng ta thấy: GH vẫn còn là một thực thể xa với chúng ta cách nào đó. Thực tại GH vẫn chưa phải là mối quan tâm canh cánh bên lòng chúng ta. Và điều này, chúng ta muốn thay đổi, canh tân.
Trong nhiệm vụ xây dựng Giáo hội, Đức Phanxicô mời gọi dân Chúa, và dĩ nhiên, các tu sĩ hăng hái, sẵn lòng và quảng đại để làm cho Thượng Hội đồng Giám mục này trước hết và tiên vàn là cho từng cộng đoàn: gia đình, dòng tu, giáo xứ, giáo phận, vùng miền, hoàn vũ. Nghĩa là nó muốn mang lại một sức năng động mới cho đời tin, cậy, mến nơi mỗi cộng đoàn.
Thật không vậy? Hay chỉ là “tưởng tượng”, nếu không nói là bịa đặt. Rất thật là thế. Trong tài liệu làm việc, chúng ta thấy đưa ra những điều cốt lõi để duyệt xét.
Những đề tài ấy là như sau:
1) Những người bạn đồng hành: “Trong Hội thánh và xã hội, chúng ta sát cánh bên nhau trên cùng một nẻo đường”. Điều này có quả thực đang được sống trong các cộng đoàn giáo hội: gia đình, các hội đoàn, giáo xứ. Toàn nhóm giáo hội chân thành và can đảm duyệt lại và nhận diện xem những ai đang là những người ở bên lề cuộc đời của chúng ta, như cá nhân và như cộng đoàn GH. Những thành phần nào trong giáo xứ, trong giáo hội không có chỗ trong chúng ta; nếu có, bức tranh về một GH hiệp hành quả là chưa tròn.
2) Lắng nghe: “là bước đầu tiên, đòi hỏi khối óc và con tim rộng mở, không thành kiến.” Điều GH hiệp hành được gọi để làm không gì khác hơn là LẮNG NGHE. Đã có một thời gian ecclesia discens và ecclesia docens tách lìa nhau đến độ phẩm trật là THẦY DẠY, còn giáo dân là HỌC TRÒ. Ta đã đánh mất một điều quan trọng: Toàn GH đều là học trò/môn sinh. Và chỉ khi nào GH hoàn toàn là môn sinh, GH mới có thể là thầy dạy. Mãi mãi GH là người môn đệ. Nếu đúng là như vậy, thì chúng ta lắng nghe được gì từ các thành phần Dân Chúa, từ những người ở xa và bị loại bỏ? Có một loại ‘diễn đàn’ cho họ không? Nhưng ý nghĩa không phải là thực hành một kiểu cách dân chủ “vox populi, vox dei”, nhưng là để lắng nghe Thần khí tự do đang thổi nơi các Giáo hội.
3) Phát biểu: “mọi người được mời gọi can đảm (parrhesia) lên tiếng” cách tự do, trong chân lý và bác ái. Tài liệu chuẩn bị mời gọi mọi phần tử GH chia sẻ những nghĩ suy của mình, theo như Thần khí thúc đẩy và khởi hứng. Chính trong sự bạo dạn của đức tin này, nguyên lý được Đức Gioan XXIII nhắc lại từ Augustinô phải được hiện thực một cách mới mẻ: “Trong những điều cốt yếu, ta hiệp nhất; trong những gì không cốt yếu, ta được tự do, và trong mọi sự, có đức ái.” Như thế, sự bạo dạn ở đây không có nghĩa là đấu tranh đảng phái, lập trường, nhưng là sự bạo dạn của đức ái, một đức ái hy vọng mọi sự, tin tưởng mọi sự, tha thứ mọi sự. Như thế, làm sao để nói lên được điều quan trọng đối với chúng ta?
4) Cử hành. Chính trong ánh sáng đó, sự tụ họp của Giáo hội hiệp hành không phải là một sự tụ họp xã hội, giao lưu. Không. Đúng hơn, đây là một cuộc cử hành, cuộc canh tân giao ước, giống như Dân Israel quy tụ ở Sinai, ở Giêrusalem sau thời lưu đày (x. Nkm 81-9:37; Er 6:19-22). Tụ họp để cử hành Thiên Chúa ở giữa chúng ta.[1] Chính vì thế, cùng nhau tiến bước trong GH không chỉ tuỳ vào thiện chí của con người mà thôi. Nó phải khởi sự và dẫn vào cầu nguyện dựa trên Lời Chúa và trung tâm là Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể phải chi phối những quyết định quan trọng của cộng đoàn để phục vụ Nước Thiên Chúa giữa những con người đau khổ.
5) Đồng trách nhiệm trong sứ vụ. Chúa không trao cho mỗi người chúng ta một sứ mệnh riêng biệt. Không phải. Toàn GH chỉ nhận lãnh một sứ mệnh của chính Đức Giêsu.[2] Chính Đức Giêsu cho toàn GH chia sẻ sứ mệnh của ngài: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh chị em.” Không có một sứ mệnh cá nhân trong GH. Chính vì thế, tất cả đều đồng trách nhiệm trong việc thực thi sứ vụ, dẫu với những hình thức hay dạng thức khác nhau theo ơn gọi riêng của mình. Chính trong GH-môn đệ truyền giáo, mỗi người chúng ta là môn đệ truyền giáo, chứ không chỉ làm việc truyền giáo.[3] Chúng ta hiệp hành để thành cộng đoàn giáo hội truyền giáo. Nhất thiết cần làm cho mọi tín hữu thấy trách nhiệm chia sẻ, loan báo Tin mừng khi mình được tin mừng hoá, như một chứng nhân.
6) Đối thoại trong Hội thánh và xã hội. Thách đố rất lớn trong GH tiền Vatican II liên quan đến đối thoại. Thách đố ấy đã được Vatican II giải gỡ bằng cách dứt khoát đến với thế giới, đi vào thế giới và đối thoại với mọi người, kể cả anh chị em vô thần. Vatican II đã nhận ra đối thoại chính là phương cách của Thiên Chúa cứu độ con người và quy tụ nhân loại. Chính dựa trên chân lý này mà GH buộc phải đi vào đối thoại như phương cách thiết yếu để mời gọi con người đến với tình yêu cứu độ. Phương cách này làm cho GH trở thành người bạn đồng hành với thế giới.[4] Nếu đó là sự thật, thì đối thoại có chỗ đứng nào trong các cộng đoàn GH và từ đó trong các cộng đoàn xã hội. Các tín hữu Chúa Kitô đối thoại thế nào với các thực tại văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội, người nghèo? đấy là cách sống một GH hiệp hành vậy.
7) Với các hệ phái Kitô hữu khác. Toàn GH đều nhận ra sự chia rẽ trong lịch sử GH đã làm cho chiếc áo không đường may của Chúa Kitô đã bị rách nát. Nó đã thành muôn mảnh. Đó là sự phản chứng nặng nề. Và vì thế, Vatican II đều đặt đại kết trở thành một nghị sự thiết yếu, một đích tới cho mình.[5] Dẫu còn dài đến mấy, thì con đường đại kết mà Vatican II nêu ra và tiến bước không thể ngừng lại nữa. Nếu thế, một GH hiệp hành mới có khả năng hiệp nhất với anh chị em Kitô hữu khác để cùng tiến bước về Thiên Chúa trên những nẻo đường nhân sinh. Chính Công đồng Vatican II đã mở ngỏ rằng đang khi việc đại kết theo khía cạnh giáo lý còn một đường xa lắm, thì GH vẫn có thể cùng với anh chị em hệ phái Kitô hữu khác cộng tác trong việc biến đổi xã hội, truyền giáo, bác ái… Một GH hiệp hành sẽ tìm được lối đi đại kết của mình.
8) Thẩm quyền và tham gia. Chúa Giêsu không thiết lập một GH “cá đối bằng đầu”. Ngài đã thiết lập một Tông đồ đoàn trong đó Phêrô kiện cường anh em mình. Ngài muốn có một Giám mục đoàn trong đó Giám mục Roma như nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất của GH. Nhưng điều đó không huỷ bỏ, trái lại, còn đẩy mạnh sự tham gia. Sự hiệp thông không thể chỉ ngừng lại trên lý thuyết, song phải được hiện thực và tỏ lộ mạnh mẽ trong sự tham gia. Thẩm quyền và tham gia không phải là hai cực đối kháng nhau. Đó là hai thực tại tương thuộc nhau, vốn vẫn luôn thường căng thẳng với nhau. Chính vì thế, một GH hiệp hành cũng là một GH hình thành được tiến trình lấy quyết định mà trong đó mọi người đều cảm nhận được tham gia, cho dù những quyết định được lấy không hoàn toàn được nghe theo. GH hiệp hành không thể là một GH bị cào bằng hay “cá mè một lứa”, song cũng không phải là một GH “vô ngã”, một tập thể không người chịu trách nhiệm cuối cùng.
9) Phân định và quyết định. Tiến trình hiệp hành ta theo đuổi không chỉ lắng nghe. Đó chỉ là bước đầu. GH còn phải phân định và đi tới quyết định hiện thực những gì Chúa tác động ở đây và lúc này vì những con người.[6] Thánh Phaolô không chỉ nói các cộng đoàn GH không dập tắt các thần khí, song còn phải phân định các Thần khí. Vatican II nói đến việc đọc dấu chỉ thời đại để biết được ý định của Thiên Chúa. Thần học hiện đại luôn đặt mình trong bối cảnh nhân sinh để suy niệm điều Chúa nói cho các Giáo hội. Làm sao để tiến trình phân định và quyết định xuất phát và làm hiển hiện “sự vâng phục Thần khí của cả cộng đoàn.” Ta cần tìm ra phương cách hiện thực điều này.
10) Tự đào tạo trong tiến trình hiệp hành. Thiên Chúa luôn kiên trì huấn luyện các tông đồ và môn đệ Ngài. Ngày nay, Ngài cũng tiếp tục huấn luyện các tín hữu qua tiến trình hiệp hành. Khi chia sẻ chân thành ngự trị trong một cộng đoàn, các thành phần được đào tạo sâu xa, vì nó đi vào nội tâm. Tiến trình cùng nhau phân định và quyết định lại là cách Thiên Chúa huấn luyện con cái mình, là cách người tín hữu đào tạo chính mình để nên người môn đệ lắng nghe ngày một hơn và nhờ đó trở thành vị thầy linh đạo. Tiến trình này là cách thức Thiên Chúa đang biến đổi trái tim của người môn đệ thành trái tim của Chúa Giêsu. Đó là trái tim mới của người môn đệ vậy.
Mười chủ đề cốt lõi này làm lộ hiện một GH không chấp nhận quy chiếu về chính mình, khi biết rằng đó là cám dỗ thường hằng của mình. Chúng cho thấy một GH chỉ lấy Chúa Kitô và cung cách của Ngài làm tiêu chuẩn hành động và sống cho mình. Chúng cho thấy một GH không sống theo kiểu hoài cổ với chuẩn mực “trước kia chúng tôi đã từng làm như thế.
Thượng Hội đồng Giám mục này mong đợi cộng đoàn tu sĩ sẽ tỏ lộ được một cộng đoàn môn đệ được thương mến của Đức Kitô khi thực sự lấy TIÊU CHUẨN: CÙNG NHAU ĐI TRÊN CON ĐƯỜNG ĐỨC GIÊSU KITÔ Là cách sống và hành động của mình: lắng nghe – phân định – tiến bước cùng nhau. Không phải một thành phần nào kéo lê mọi phần khác. Trái lại, mọi người lấy tư cách vai chính của mình.
III. ĐỊNH VỊ NGƯỜI TU SĨ TRONG GIẤC MƠ CỦA TOÀN GH ĐỂ XÂY DỰNG MỘT GH HIỆP HÀNH
- CÙNG MƠ VỀ MỘT GH DÙNG TOÀN BỘ NHỮNG GÌ MÌNH CÓ VÀ MÌNH LÀ CHO SỨ MỆNH LOAN BÁO Nước Thiên Chúa
Ước mơ của Vatican II là trình bày một GH dân Thiên Chúa, tất cả cùng nhau tiến về sự thánh thiện của Tin mừng. Không một ai trong GH không được kêu gọi tới đó. Điều ấy toàn GH đã nỗ lực và bộ mặt GH với Vatican II đã để lại những vẻ đẹp không thể chối cãi.
Nhưng thời gian với những lo lắng sự đời có thể làm phai nhạt sự nóng cháy này. Tất cả chúng ta đều kinh nghiệm như thế, y hệt như các tín hữu sơ khai, chẳng hạn tín hữu Thessalonica đã mỏi mệt chờ mong Chúa đến. Và Thiên Chúa không mệt để nhắc lại và thúc đẩy chúng ta một lần nữa. Ngài không mệt để quay trở lại với chúng ta, động viên chúng ta, như đã từng tăng sức và động viên cho Elia trên đường dài tới núi Horeb trong cơn bị bách hại do hoàng hậu Izabel. Ngài là vị mục tử nhân lành, có những lúc đi đầu đoàn chiên, có những lúc đi giữa đoàn chiên, và có những lúc đi cuối cùng đoàn chiên để đảm bảo rằng “những gì Cha đã ban cho tôi, tôi không để mất một ai”.
Đức Phanxicô cho thấy rằng Vatican II cũng muốn cả một sự hoán cải trong cơ cấu, trong mục vụ, chứ không chỉ trong thiêng liêng và thần học mà thôi. Mạnh mẽ hơn, ngài còn nói đến một sự hoàn cải của quyền giáo hoàng (conversion of papacy), để mang tính tập đoàn hơn nữa, để bộc lộ GH đúng là dân Thiên Chúa hơn nữa, vì GH và Synodos, cùng đi với nhau cho sứ mệnh, thì đồng nghĩa.
Chính vì thế, ngài xác quyết Thiên Chúa muốn GH của thiên niên kỷ thứ ba phải trình bày được một diện mạo GH hiệp hành.
GH đó cùng chung tay dùng tất cả những gì mình có và mình là cho việc truyền giáo, không được hiểu như một sự chiêu mộ tín đồ, cho bằng là “không thể không nói lên điều tai nghe mắt thấy” về chính Đức Giêsu và tình yêu của ngài dành cho con người. GH không còn làm một vài việc tông đồ hay việc truyền giáo, song toàn GH là môn đệ truyền giáo. Không một ai trong GH được miễn khỏi sứ mệnh này. Trực giác này được chị Têrêsa diễn đạt khi được tuyên phong là bổn mạng các vùng truyền giáo. Tất cả các bệnh nhân trong GH đều tham dự vào sứ mệnh này bằng cách biết rằng những đau khổ của họ mang một sắc thái mới, một ý nghĩa mới khi tham dự vào mầu nhiệm khổ nạn của Đức Kitô vì nhân loại. Một GH sống niềm vui đến độ dám ra khỏi vùng yên ổn và thoải mái của mình để làm bạn với những người bị đẩy ra ngoài lề; để băng bó vết thương cho những người thương tổn như thể mình thật sự là kẻ bị thương; để khóc với nhân loại đang khóc dưới mãnh lực xâu xé của THẦN TÀI.
Băng bó vết thương có nghĩa là DÁM ĐẶT MÌNH VÀO TÌNH TRẠNG BỊ NGUY CẤP ĐỂ CHO NGƯỜI BỆNH ĐƯỢC SỐNG. Đó là cách nhập thể lối sống của chính Đức Giêsu đến để chết cho người khác.
- DỰA TRÊN KINH NGHIỆM HIỆP THÔNG CHÚA BAN CHO CÁC TU SĨ
Mọi ngày trong cộng đoàn tu sĩ, những con người cùng một chí hướng luôn gặp nhau; mỗi tháng đều tụ họp lại để phân định Ý Chúa. Như thế, xét trên nguyên tắc, sự hiệp thông được tỏ lộ như bầu khí các tu sĩ sống, làm việc, hoạt động và cử hành.
Như chúng ta đã rõ: hình ảnh lý tưởng được Luca vẽ ra trong sách Công vụ về cộng đoàn tín hữu sơ khai một lòng một chí quanh Chúa Giêsu được đại diện bởi các tông đồ được hiện thực một mức nào đó trong cộng đoàn tu sĩ. Các vị sáng lập dòng đều lấy cảm hứng thần linh từ đó cho đặc sủng/đoàn sủng của mình.
Cộng đoàn tu sĩ được Đức Gioan Phaolô II định nghĩa như cộng đoàn hằng ngày bước theo linh đạo hiệp thông trong đó huấn luyện chúng ta thành những người có thể nhìn thấy Đức Giêsu Kitô nơi mọi người, nhất là những người bị bỏ ra bên lề.
Tuy nhiên, nhiều lần chúng ta nghĩ về người khác hơn là trong chính cộng đoàn mình: trong cộng đoàn tu sĩ có ai bị loại ra ngoài lề không? Cộng đoàn tu sĩ có thực sự cùng nhau phân định Thánh Thần đang nói cho mình hay không? Cộng đoàn dám đón nhận tiêu chuẩn sống truyền giáo hơn là “bo bo bảo tồn những cơ sở và cơ cấu” hay không? Nếu duyệt xét được như thế, thì đó đã là một đóng góp quý báu cho Thượng Hội đồng Giám mục 2021-2023 rồi. Như vậy chính tiến trình hình thành một GH hiệp hành trở thành “phần rỗi” cho cộng đoàn tu sĩ, vì cộng đoàn đó đang được Thánh Thần đào tạo thành cộng đoàn tu sĩ hiệp hành.
Hiệp hành là cấu tố của GH; cũng là “cấu tố” của cộng đoàn tu sĩ vậy. Nơi đó, quyền bính là một tác vụ, sự phục vụ chân thật. Hình ảnh “Kim tự tháp lộn ngược” nói gì cho cộng đoàn tu sĩ? Đơn giản: những người đứng ở dưới người khác như người tôi tớ. Và một điều tỏ lộ hơn hết: ecclesia docens và ecclesia discens không còn chia tách nữa. Phải hơn ecclesia docens sẽ sai lầm nếu trước đó không phải là ecclesia discens; học kép: Thiên Chúa và con người.
Lắng nghe, Phân định trong đối thoại là chuyện thường hằng chứ không phải tuỳ dịp. Không ảo tưởng được: đừng hòng có một GH hiệp hành, một cộng đoàn tu sĩ hiệp hành, một GH hiệp hành tại gia mà không có đối thoại. Không thể có GH ấy, nếu chỉ “bằng mặt chứ không bằng lòng”, không thể dám gặp nhau để thảo luận các vấn đề chung cũng như riêng; kinh nghiệm này, Đức Phanxicô đã nói nhiều lần bằng những hạn từ, thí dụ rất cụ thể và hiện sinh.
Sự lắng nghe, phân định và đối thoại đây không phải là chuyện tìm đa số theo kiểu chính trị dân chủ hay đảng phái. Nó bộc lộ ý nghĩa sâu xa của sự hiệp thông: hiệp thông với Thánh Thần, với các sự thánh và với các thánh. Nhưng nó còn diễn đạt sự hiệp thông phẩm trật (communio hierarchica), sự hiệp thông của các GH (communio ecclesiarum) và s75 hiệp thông các tín hữu (communio fidelium) và tất cả nói lên một sensus fidei fidelium: không thể sai lầm trong đức tin và phong hoá nhờ dầu Thánh Thần. Giống như LG chương hai bối cảnh hóa chương 3 (phẩm trật) và chương 4 (giáo dân) thì communio fidelium bối cảnh hoá communio ecclesiarum và communio hierarchica.
- GIÁO HỘI HIỆP HÀNH TRONG TRUYỀN GIÁO
Dân Chúa vui mừng vì trong đại dịch, anh chị em tu sĩ đã chung tay góp sức như một Giáo hội ra khỏi chính mình, chết cho chính mình để anh chị em chúng ta được sống, được an ủi, được yêu thương.
GH hiệp hành không có mục đích nào khác hơn là trở thành cộng đoàn môn đệ truyền giáo. Không chỉ là làm vài việc truyền giáo, song là trở thành GH truyền giáo. Điều này mới đảm bảo cho chúng ta truyền giáo không phải là chuyện chiêu dụ tín đồ.
Lắng nghe, phân định và đối thoại để thấy rõ ý định cứu độ của Thiên Chúa xuyên qua chúng ta: thanh tẩy và biến đổi chúng ta thành dụng cụ hữu hiệu của tình thương ngài.
Kết luận: Hạt nhân sinh động của tiến trình xây dựng một GH hiệp hành
Đòi hỏi ba điều: thời gian. Không thể vội vàng, một sớm một chiều sẽ có ngay một GH hiệp hành: ăn tô cháo nóng phải chậm chậm đi từ vành ngoài; một sự xây dựng lại, phục hồi không chỉ những truyền thống linh đạo của Giáo hội hay những cơ cấu Thượng Hội đồng Giám mục, nhưng là khôi phục nguồn mạch cảm thức đức tin (resourcement of the sensus fidelium), một sự phục hồi việc dân Chúa như cộng đoàn nhớ lại ơn sủng tuyệt vời được ban cho mình; và sứ mệnh: Dân chúa nhìn vào trong chính mình, qua những thực hành hiệp hành và cơ cấu, để sống trung thành giữa những bối cảnh đặc thù, nhưng còn học để sống tiếng gọi tông đồ là gặp gỡ người khác và chia sẻ tin mừng.
Nguồn: tgpsaigon.net (08.01.2022)
[1] X. Đức Phaolô VI, diễn từ khai mạc công đồng Vatican II khoá 4.
[2] X. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Thư chung gởi hậu Đại hội Dân Chúa 2010.
[3] X. EG 23, 27, 40.
[4] X. Đức Phaolô VI, Ecclesiam Suam.
[5] X. Đức Gioan XXIII, Diễn văn khai mạc Công đồng Vatican II; Đức Phaolô VI, Ecclesiam Suam.
[6] X. EG 20, 27, 78-101.
2022
Mạng xã hội và những tác động trên các bạn trẻ tuổi teen
MẠNG XÃ HỘI VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TRÊN CÁC BẠN TRẺ TUỔI TEEN
Lm. Phêrô Phạm Văn Chính, SDB
Dẫn nhập
Thời đại Công nghệ 4.0 đã trở thành niềm tự hào của nhân loại ngày nay khi nhìn lại cả một quá trình lịch sử phát triển tiệm tiến và lâu dài. Nhân loại hãnh diện vì thấy mình hiện nay đạt được đỉnh cao của công nghệ, một điều làm cho cuộc sống trở nên dễ dàng, thuận lợi, tiện nghi và đầy đủ hơn nhiều so với quá khứ. Với sự phát triển của mạng internet và những công cụ công nghệ truyền thông hiện đại, nhân loại cảm thấy gần nhau hơn, có thể chia sẻ với nhau các thông tin và mọi vấn đề của cuộc sống một cách nhanh chóng, tiện lợi. Dựa trên nền tảng của mạng internet và sự phát triển về kỹ thuật công nghệ, các websites đủ loại, tin nhắn, email, các cuộc gọi video, các thể loại mạng xã hội đa dạng… đang ngày càng đi sâu và chi phối cuộc sống cũng như các sinh hoạt đa dạng của con người.
Đối tượng người sử dụng những công cụ hiện đại này cũng bao gồm đủ mọi thành phần và những tổ chức đa dạng thuộc xã hội dân sự và tôn giáo: Từ các hiệp hội, đoàn thể, giáo xứ, giáo phận, công ty, xí nghiệp. đến những tổ chức thuộc cấp thành phố, tỉnh thành, quốc gia, quốc tế; từ những em nhỏ đến cả những người lớn tuổi. Những công cụ họ sử dụng cũng đa dạng: Máy tính, điện thoại di động, điện thoại thông minh, máy tính bảng. Tuy nhiên cần ghi nhận rằng trong đó, thành phần những người trẻ lại là thành phần sử dụng nhiều hơn cả với sự lanh lẹ và sức bật vốn là những nét đặc trưng của tuổi trẻ trước những tiến bộ và thành tựu của nhân loại. Các nghiên cứu của Pew Research Center cho biết 90% các bạn trẻ tuổi teen từ 13 đến 17 tuổi đã sử dụng những mạng xã hội. 75% các em ít nhất đã có một tài khoản riêng trên mạng xã hội, 51% sử dụng mạng xã hội hằng ngày và 2/3 các em có những thiết bị di động truy cập được internet[1]. Bài viết này muốn bàn đến vào mối tương quan giữa những bạn trẻ thuộc lớp tuổi teen (từ 13 – 19 tuổi) và việc sử dụng mạng xã hội hiện nay.
Cũng theo nghiên cứu của Pew Research Center, 5 mạng xã hội đứng đầu được các bạn trẻ tuổi teen sử dụng nhiều:
Cũng theo nghiên cứu của Pew Research Center, 5 mạng xã hội đứng đầu được các bạn trẻ tuổi teen sử dụng nhiều:
MẠNG XÃ HỘI | TRẺ EM (8-12 tuổi) | TUỔI TEEN (13-19 tuổi) |
YOUTUBE | 80 % | 86 % |
26 % | 75 % | |
SNAPCHAT | 26 % | 67 % |
24 % | 70 % |
I. SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI: MỘT ĐIỀU PHÙ HỢP VỚI SỨC BẬT CỦA TUỔI TEEN?
1. Hiểu biết tổng quát về lứa tuổi teen
Hình ảnh của tuổi teen vẫn được dùng để biểu trưng cho vẻ đẹp thuở ban đầu của con người với những nét thật đáng yêu, thanh khiết, tràn đầy sức sống và sức bật vươn lên được mô tả trong thơ ca, hội họa… Thế nhưng với các bậc cha mẹ, thì đó cũng là giai đoạn của sự “đổi tính, đổi nết”, của tuổi “khó bảo, cứng đầu, ương ngạnh, gây bão tố”. Dẫu sao thì trong thực tế với sự phát triển của ngành tâm lý, người ta lại thấy tuổi teen với những nét đặc trưng của lứa tuổi này, lại là một giai đoạn của sự phát triển tất yếu và bình thường cho một đời người.
Người ta có thể phân chia lứa tuổi này thành 2 giai đoạn: Tiền niên thiếu (từ 12-14 tuổi) và Niên thiếu (từ 15-19 tuổi). Dẫu có phân chia như thế, nhưng những nét phát triển về sinh lý lẫn tâm lý của các bạn trẻ vẫn diễn ra theo vòng xoắn ốc đi lên, tức là mỗi giai đoạn lại được phát triển và kiện cường thêm.
Một cách tổng quát, người ta có thể nhận thấy những nét chung của lứa tuổi này:
- Những sự phát triển vềNgoại hìnhvới vóc dáng, thân thể, cơ bắp, phù hợp theo phái tính nam-nữ. Trong khi các bạn trẻ nữ dần phát triển khá đầy đủ về ngoại hình và thể lý, thì các bạn trẻ nam vẫn chưa đầy đủ. Các bạn trẻ nam-nữ trong lứa tuổi này có thể không hài lòng với ngoại hình của mình nên tìm cách cải thiện qua những cách thức: Ăn kiêng, tập thể dục, thể thao, thể hình, yoga… để có một ngoại hình tốt hơn như mình mong muốn.
- Những sự phát triển vềKhả năng Tư duy: Khả năng suy tư trừu tượng, khả năng giải quyết các vấn đề nhận thấy trong cuộc sống;
- Những sự phát triển vềKhả năng nhận thức về Bản thân: Phát triển nhận thức về căn tính của mình, trải nghiệm những tương quan với xã hội bên ngoài: tạo nhóm hay tham gia vào các nhóm bạn bè và chịu ảnh hưởng cũng như sức ép từ họ, tham gia vào các tổ chức, phát triển những tương quan tình cảm với cha mẹ, bạn bè;
Sự nhận thức về bản thân cũng đưa các em đến sự Quan tâm tới bản thân mình và sự Tự đủ của mình. Các em ít để ý đến ý kiến của cha mẹ hay của người lớn, dễ dàng phản kháng lại trước những áp lực trên bản thân chúng.
Cũng trong sự nhận thức về bản thân, các em bắt đầu đặt những câu hỏi về chính mình: Tôi là ai, tôi nên làm gì trong cuộc sống. Những vấn nạn về sự nghiệp tương lai, tôn giáo, triết lý cuộc sống, những vấn đề chính trị, xã hội. dần được đặt ra. Những vấn nạn này sẽ làm các bạn trẻ suy tư về vô số những khả thể cho tương lai của mình trong giai đoạn cuối Trung học và trên cấp Đại học.
- Những sự phát triển vềKhả năng Sử dụng Ngôn từđể diễn tả bản thân, khả năng trao đổi bao gồm việc lắng nghe và đưa ra quan điểm riêng;
- Phát triểnTính Độc lập khỏi Cha mẹtrong cuộc sống: Đây là chuyện quan trọng trong giai đoạn này. Các bạn trẻ ít thời gian dành cho gia đình, nhiều thời gian dành cho bạn bè. Tình cảm dành cho cha mẹ thường được thể hiện hay biểu lộ đi đôi với tính muốn độc lập, thậm chí đôi khi còn biểu lộ qua cả sự thô lỗ trong lời nói và lối hành xử với cha mẹ nữa. Các bậc cha mẹ dễ bị coi là những người hay “xía” vào chuyện của các em. Các em có thể bắt đầu chất vấn cha mẹ và những người lớn về những quy tắc họ đặt ra, những hệ thống tôn giáo, tín ngưỡng và cả những truyền thống văn hóa nữa.
- Những biểu lộ và sự quan tâm về Tính dục: Xu hướng dị tính và đồng tính dần được biểu lộ ra qua những cuộc hẹn hò, gặp gỡ. Những cuộc hẹn hò này cũng hướng tới sự thân mật hơn. Xu hướng tính dục cũng trở nên mạnh mẽ dần đến độ các bạn trẻ cũng có thể có những trải nghiệm về tính dục nữa.
- Phát triểnKhả năng Tổ chức cuộc sống tốt hơnvới những quyết định và kế hoạch cho cuộc sống, hiểu biết về những hậu quả và kế hoạch cho cuộc sống trong tương lai.
2. Một sự quan ngại chính đáng của các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục?
Sự phát triển của ngành Tâm lý học đã cho thấy tuổi teen với những nét đặc trưng của nó là một giai đoạn phát triển tất yếu và bình thường của cuộc sống con người. Đồng thời, sự phát triển về những kỹ thuật công nghệ tiên tiến hiện nay cũng ảnh hưởng đến mọi thành phần nhân loại, trong đó có lứa tuổi teen. Vậy liệu có thể một sự dung hòa tốt đẹp giữa 2 vấn đề này, hay việc sử dụng những công nghệ tiên tiến trở thành một điều quan ngại cho các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục khi họ nhìn thấy sự ảnh hưởng, sự hấp dẫn và thu hút của những công nghệ tiên tiến này trên cuộc sống của các bạn trẻ tuổi teen?
Có lẽ không quan ngại sao được khi thấy các bạn trẻ lúc nào cũng dán mắt vào chiếc điện thoại thông minh, Ipad, máy tính, không chỉ trong giờ rảnh, mà cả trong giờ học, trong giờ đáng lý phải ngủ nghỉ. Không quan ngại sao được khi các bạn trẻ đua đòi chạy theo việc sở hữu những chiếc máy tính mạnh nhất, Ipad, điện thoại mới nhất, hiện đại nhất với nhiều chức năng để truy cập internet một cách dễ dàng, nhanh chóng. Không quan ngại sao được khi các bạn trẻ thu mình trong phòng hay một chỗ nào đó với những công cụ này, mà chẳng để ý hay quan tâm đến ai khác. Không quan ngại sao được khi những giao tiếp của các bạn trẻ với những bạn bè hoặc thậm chí cả những người “vô danh” trên mạng mà không có sự đồng hành của những người có trách nhiệm. Quả là có nhiều điều đáng quan ngại cho các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục khi chứng kiến những sự việc như thế! Rồi cũng từ đó, cha mẹ và các nhà giáo dục lại tìm cách đặt ra những quy tắc về thời gian, về phương thức với những hạn chế mà các bạn trẻ cũng cố tìm cách để “lách” được.
Nhưng ngược với sự quan ngại trên là vô số những mặt tốt đẹp mà mạng xã hội mang lại cho lứa tuổi teen. Đây là những gì chúng ta cần suy tư, cân nhắc và chọn một hướng đi.
II. NHỮNG MẶT TÍCH CỰC CỦA MẠNG XÃ HỘI TRÊN LỨA TUỔI TEEN
1. Mặt xã hội
Lứa tuổi teen là giai đoạn các bạn trẻ dần hòa mình vào trong đời sống xã hội lớn hơn khởi đi từ môi trường học đường: Việc làm quen và kết bạn, tham gia vào các nhóm, các câu lạc bộ, đoàn thể… với những mục đích đa dạng. Trong tất cả những dạng thức này, các bạn trẻ có cơ hội để diễn tả bản thân, nhận biết mình trong tương giao với những người chung quanh, học hỏi những điều tốt đẹp từ người khác.
Hình thành & Phát triển Bản thân: Mạng xã hội cũng chiếm phần quan trọng trong tiến trình phát triển của các bạn trẻ tuổi teen: Giúp hình thành nên căn tính độc đáo của chúng. Mạng xã hội cung ứng một diễn đàn cho các bạn trẻ thực hành những kỹ năng liên quan đến sự phát triển căn tính: Kỹ năng tự trình bày về bản thân, kỹ năng mở rộng và thăng tiến bản thân qua việc chia sẻ ý kiến, quan điểm, tôn giáo và cả những chia sẻ về sở thích nữa.
Trong việc nghiên cứu 219 sinh viên năm đầu của đại học, các nhà nghiên cứu thấy rằng những bạn trẻ nào ở tuổi teen biết diễn đạt ý kiến trên mạng xã hội thì cảm thấy ổn hơn. Một nghiên cứu khác cho thấy các bạn trẻ tuổi teen nào thường diễn đạt bản thân trên mạng, thì cũng có được lối “tư duy lập luận sáng sủa hơn nhiều”[2]. Nói cách khác, các bạn trẻ đó có những lối diễn tả ý tưởng rõ ràng, trong sáng hơn về bản thân chúng. Và việc nhận biết bản thân này cũng giúp các bạn trẻ có được một đời sống tâm lý tốt hơn.
Có cơ hội hiểu biết người khác và phát triển những kỹ năng diễn tả bản thân trong những trò chuyện, trao đổi qua các mạng xã hội là điều mà các bạn trẻ không dễ có dịp để thực hiện trước công chúng, hoặc không dễ để bộc bạch trước công chúng.
Mở rộng tương giao qua việc Làm quen và Kết bạn: Tình bạn là một yếu tố quan trọng cho cuộc sống của các bạn trẻ tuổi teen. Khi những bạn trẻ tuổi teen xây dựng được thứ tình bạn lành mạnh, chúng không chỉ cảm thấy mình được chấp nhận, nhưng còn cảm thấy tự tin hơn và dám kết nối với thế giới quanh chúng. Chính bạn bè cũng có thể nói những điều tốt lành, những điều chân thật cho cuộc sống của chúng và khích lệ chúng vươn đạt tới những ước mơ.
Về việc này, các mạng xã hội có thể giúp các bạn trẻ: Các em có thể kết bạn với nhau, kiện cường những mối tương giao online giữa chúng. Việc kết bạn không bị hạn hẹp về thể lý và không gian, nhưng mở rộng tới những bạn bè ở những nơi chốn xa xôi.
– Các nghiên cứu của Common Sense Media cho biết có khoảng 52% các bạn trẻ tuổi teen nói rằng các mạng xã hội giúp chúng kết bạn với nhau và thăng tiến tình bạn, và chỉ 4% cảm thấy điều đó phiền toái cho chúng mà thôi. Cũng có khoảng 88% các bạn trẻ cho rằng chúng có thể kết bạn với cả những người mà chúng chưa hề gặp gỡ trong cuộc sống thực tế [3].
– Với xu hướng mở rộng về mặt xã hội, các bạn trẻ tuổi teen có xu hướng thích kết bạn mới. Có khoảng 57% các bạn trẻ cho rằng chúng đã kết bạn mới nhờ qua mạng xã hội.
– Theo kết quả của Trung tâm Nghiên cứu Pew trên 743 bạn trẻ từ 13 đến 17 tuổi trong thời gian 2 tháng của năm 2018, có 81% các bạn trẻ cho rằng mạng xã hội giúp chúng tốt hơn trong việc nối kết tình bạn; 2/3 các bạn trẻ cho rằng chúng cảm thấy mình có được những người nâng đỡ trong những lúc gặp khó khăn[4].
Dấn thân cho Điều Thiện: Qua các mạng xã hội, các bạn trẻ tuổi teen cũng có cơ hội hiểu biết và tham gia vào những nhóm từ thiện, dấn thân làm việc thiện cho cộng đồng theo khả năng và sức lực của chúng: Tham gia vào việc gây quỹ để hỗ trợ một chuyện gì đó hay một ai đó. Các bạn trẻ cũng có thể khơi lên một số các phong trào qua mạng xã hội để gây chú ý và ý thức về một vấn đề nào đó trong xã hội của chúng hay trong thế giới: Những tác hại của thiên tai, vấn đề đói nghèo, việc bảo tồn những nguồn nước, bảo tồn những khu rừng, động vật hoang dã… qua những video clips, những bài hát, những poster đăng trên mạng YouTube, Facebook, Twitter, Snapchat… Tất cả vẫn tạo được những dấu ấn mạnh trên thế giới chung quanh và thế giới có thể lắng nghe được tiếng nói của các em. Như thế những mạng xã hội này cũng trở thành những công cụ mang tính giáo dục cho chính các em.
Lợi ích cho Tâm trí & Tinh thần: Việc chia sẻ tình cảm của các bạn trẻ tuổi teen cũng có sức tác động và ảnh hưởng thực sự trên tâm trạng của người khác và bạn bè của chúng: Làm giảm bớt sự cô đơn, mở rộng ra với thế giới; lắng nghe, hiểu biết, thông cảm và chia sẻ trước những nhu cầu của những ai gặp hoàn cảnh khó khăn. Trong cuộc sống thực tế, có trường hợp một bạn trẻ nào đó rơi vào tình trạng thất vọng và cô đơn đến độ nghĩ tới cách giải quyết bằng cái chết, thì sự chia sẻ, đồng cảm, động viên và khích lệ qua các mạng xã hội có thể trở thành một cái phao để bám víu.
2. Mặt giáo dục và học hỏi
Ngày nay, người ta thường nói với nhau: “Điều gì không biết, thì cứ lên mạng hỏi ông Google”. Câu nói vui này cũng phản ánh một sự thật rằng ngày nay, người ta có cả một kho dữ liệu “khổng lồ” trên hệ thống mạng internet. Tất nhiên việc sử dụng sao cho ích lợi cho mình, cho công việc của mình lại là chuyện phải cân nhắc, suy nghĩ. Một cách tổng quát.
Xét như công cụ: Trên mặt giáo dục, những mạng xã hội được phát triển trên nền tảng hệ thống internet đã cho những thầy cô, các nhà giáo dục, làm việc và thông đạt với các học sinh, sinh viên một cách dễ dàng hơn. Cũng theo đó, có tới 50% học sinh, sinh viên dùng mạng xã hội để thảo luận, trao đổi về các bài làm ở trường[5].
Xét như nguồn liệu: Các sinh viên, học sinh thật dễ tiếp cận với những nguồn liệu khổng lồ trên mạng mà qua đó đáp ứng được nhu cầu học tập, nghiên cứu, tìm hiểu của mình. Theo một nghiên cứu, có tới 59% các trường học chấp nhận việc học sinh, sinh viên dùng sự hỗ trợ của mạng xã hội nhằm mục đích giáo dục. Những tài liệu sử dụng trong việc nghiên cứu, làm bài, không chỉ đến từ những kho sách trong thư viện theo truyền thống trước đây, nhưng còn được chấp nhận cả trên những nguồn liệu được lưu trữ trên mạng internet[6].
3. Mặt thông tin
Các mạng xã hội hiện nay đã trở thành nguồn thông tin và cập nhật tin tức đối với nhiều bạn trẻ tuổi teen. Một khi chúng bắt đầu sử dụng những tài khoản và sự kết nối trên mạng, chúng muốn theo dõi những bạn bè với tài khoản của chúng. Chúng muốn biết những thông tin về các sách & tác giả nào đó, các tạp chí, các vận động viên điền kinh, các ca sĩ nổi tiếng, các danh thủ thể thao, các người nổi tiếng trong một số lãnh vực nào đó, các tổ chức phi lợi nhuận,… nói chung là với đủ thể loại thông tin mà chúng quan tâm.
Các bạn trẻ cũng muốn thu thập những thông tin liên quan đến những vấn đề mà chúng quan tâm hay đang ảnh hưởng đến chúng và bạn bè của chúng: Vấn đề ăn kiêng, tập thể dục, biến đổi khí hậu, âm nhạc, thể thao.
III. NHỮNG NGUY CƠ TIỀM TÀNG CỦA MẠNG XÃ HỘI TRÊN LỨA TUỔI TEEN
Thường xuyên “dán mắt vào màn hình”, thu mình trong phòng cả ngày, việc học hành hay ngủ nghỉ bị chi phối, thờ ơ trong các sinh hoạt gia đình hay trong những bổn phận. là những điều khiến cho các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục phải lo ngại khi nhìn vào các em tuổi teen. Tất nhiên, ngoài những điều tích cực được trình bày ở trên, những mặt trái hay những mối nguy cơ tiềm tàng của việc sử dụng mạng xã hội đối với các bạn trẻ tuổi teen là chuyện mà các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục cần lưu tâm.
1. Mạng xã hội và Sự Trầm cảm nơi các em tuổi teen
Nhiều người nêu vấn đề: Liệu việc sử dụng mạng xã hội như Facebook, Twitter, Youtube, Snapchat, Instagram… có khiến cho các em tuổi teen rơi vào tâm trạng lo lắng, tệ hơn là bị rơi vào chứng trầm cảm?
Những nghiên cứu về vấn đề này đã đưa ra những kết quả không hoàn toàn giống nhau, thậm chí còn trái ngược nhau nữa.
- Nguy cơ sử dụng quá nhiều thời gian cho các mạng xã hội:
Theo nhiều nhà nghiên cứu, thì việc thường xuyên dành quá nhiều thời gian mỗi ngày để sử dụng những mạng xã hội, sẽ dễ làm cho hệ thần kinh của các bạn trẻ tuổi teen rơi vào tình trạng bất ổn, chẳng hạn như tình trạng ADHD (chứng rối loạn tăng động giảm chú ý) và cả chứng trầm cảm ở lứa tuổi teen, hoặc có những thái độ chống đối bất chấp, tâm trạng lo lắng, lo âu. Theo họ, chứng trầm cảm ở lứa tuổi teen chắc chắn có liên quan đến tần suất sử dụng các mạng xã hội, vì càng tiêu tốn nhiều thời gian trên các mạng xã hội, thì các bạn trẻ tuổi teen càng gặp phải những vấn đề về tâm lý. Ngược lại, những bạn trẻ nào tham gia vào những hoạt động không dán-mắt- vào-màn-hình, chẳng hạn những hoạt động xã hội mang tính tương tác như thể thao, thể dục, những sinh hoạt nhóm, làm bài tập,… thì dường như ít gặp phải những vấn đề này.[7]
Những nghiên cứu về lứa tuổi teen tại Hoa kỳ cho thấy những triệu chứng trầm cảm và tỷ lệ tự tử nơi lứa tuổi teen đã gia tăng trong thời gian 2010-2015, đặc biệt nơi các bạn trẻ nữ. Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng việc gia tăng số lần và thời gian sử dụng những mạng xã hội trong những năm này là nguyên nhân đưa tới những sự biến đổi đó.
Với nghiên cứu vào năm 2018: Những bạn trẻ trong lứa tuổi từ 14 đến 17 tuổi, sử dụng mạng xã hội 7 giờ mỗi ngày, có nguy cơ bị rơi vào chứng trầm cảm cao gấp đôi so với những bạn trẻ chỉ sử dụng mỗi ngày 1 giờ. Trong trường hợp này, các bạn trẻ đó cần được điều trị bởi những chuyên gia tâm lý và cần sử dụng thuốc nữa, để có được sự điều chỉnh về tâm lý và lối hành xử.
Ngoài ra, theo nghiên cứu của CNN trên những em 13 tuổi sử dụng mạng xã hội, những em sử dụng Facebook hay những mạng xã hội khác trong khoảng từ 50 đến 100 lần mỗi ngày, thì 37% các em rơi vào tình trạng phiền muộn hơn những em chỉ sử dụng khoảng vài lần mỗi ngày. Những em sử dụng hơn 100 lần mỗi ngày, thì nguy cơ đó còn tăng hơn nữa: 47%.[8]
- Mạng xã hội, một cách chữa trị tâm lý mới?
Trong khi đó theo một số nhà nghiên cứu khác, tuổi teen gặp vấn đề như chứng Trầm cảm trong việc sử dụng mạng xã hội thì rất ít, chỉ là 0,4%. Ngược lại, chính khi các bạn trẻ bị trầm cảm, chúng dễ tìm đến những mạng xã hội hơn. Với 594 bạn trẻ tuổi teen và 1.132 sinh viên đại học sử dụng mạng xã hội trên 6 năm, các nhà nghiên cứu thấy rằng việc sử dụng mạng xã hội không đưa tới những triệu chứng trầm cảm nơi các bạn trẻ tuổi teen và các sinh viên đại học [9].
Vậy việc sử dụng các mạng xã hội có nhất thiết đưa tới sự trầm cảm? Theo các nhà nghiên cứu này, những triệu chứng trầm cảm không nhất thiết đến từ việc sử dụng các mạng xã hội, trừ phi có sự lạm dụng quá nhiều thời gian trên các mạng xã hội, tuy nhiên điều này chỉ xảy ra nơi những bạn trẻ nữ thôi.
Theo ghi nhận của Jamison Monroe, người sáng lập và là Giám đốc CEO của Newport Academy, thì chính internet cũng cung ứng tiềm năng trợ giúp các bạn trẻ tuổi teen khi gặp phải những vấn đề về tâm lý: “Những kỹ thuật công nghệ sẽ đưa chúng ta đến một thời đại mới của việc chữa trị tâm lý”.
2. Mạng xã hội và việc So sánh mang tính xã hội của các bạn trẻ tuổi teen
Các bạn trẻ tuổi teen tiêu tốn nhiều thời gian trên mạng để nhìn xem và bình luận về cuộc sống cũng như những hình ảnh, những biến cố của bạn bè. Điều này dễ dẫn đến việc chúng luôn quan tâm đến sự so sánh giữa chúng với bạn bè. Việc này có thể tạo mối nguy cơ cho lòng tự trọng và bản thân chúng. Tệ hơn, nó có thể đưa tới sự trầm cảm. Những sự so sánh trên mạng thường dẫn tới những triệu chứng trầm cảm nơi các em tuổi teen, đặc biệt nơi những em nữ.[10]
So việc so sánh này với những việc so sánh thuộc những thể loại khác, các bạn trẻ tuổi teen thường cảm thấy họ tự đánh giá thấp về mình và giảm bớt sự kính trọng bản thân khi nhìn vào bạn bè trên Facebook hay những mạng xã hội khác, chẳng hạn, khi nhìn thấy những lối sống tốt lành của bạn bè, những biến cố vui, sự thành đạt, ngoại hình đẹp… Cũng từ sự so sánh này, các bạn trẻ tuổi teen sẽ cảm thấy tốt hơn và ổn hơn về mình khi chúng nhận ra mình trội vượt hơn bạn bè khi so chiếu với những thành tích của họ.
3. Hấp lực của việc Lạm dụng mạng xã hội và lối sống “ảo”
Các nhà nghiên cứu cho biết việc sử dụng thái quá mạng xã hội sẽ tạo nên sự kích thích tương tự như những dạng thức lạm dụng hay sử dụng thái quá khác. Não bộ phản ứng lại với việc dùng mạng xã hội như một thứ “phần thưởng” qua việc phóng chất dopamine, một thứ hormone làm con người cảm thấy hưng phấn, chẳng hạn khi các em tải lên những bài viết, những hình ảnh, những video, những nhận xét và bình luận… rồi nhận được những cái “likes”, được “shares”, hoặc khi nhận được những “bình luận” tốt và sự ủng hộ từ bạn bè.
Jamison Monroe, người sáng lập và là Giám đốc CEO của Newport Academy, đã ghi nhận:
“Mỗi cái ‘like’ sẽ làm phát sinh lượng hormone dopamine, tương tự như chất cocain và những thứ ma túy khác. Não bộ nhanh chóng được kích thích tạo ra cảm giác của sự khoan khoái, khoái cảm. Vì thế, các bạn trẻ tuổi teen dễ bị lôi cuốn đến việc sử dụng thái quá mạng xã hội để có được những cảm giác khoan khoái này. Tất nhiên, chuyện này khiến các em thờ ơ đối với những sự khoan khoái, khoái cảm của thế giới thực, như việc xây dựng mối tương quan liên vị chân thực trong cuộc sống” (Jamison Monroe, người Sáng lập Newport Academy)[11].
Cũng thế khi nói về thế giới thực và ảo, Jamison Monroe cũng ghi nhận “Thoạt đầu, các em thực sự không biết làm gì khi không có điện thoại”. Thế nhưng chỉ sau vài ngày, chúng bắt đầu ý thức đến “cuộc sống thực” của chúng. Từ đó, chúng quan tâm đến việc kiến tạo những tình bạn chân thực và mạnh mẽ, song thực tế hơn. Chúng sẽ tái tạo sự kết nối với đời thường với những hoạt động của đời sống thực tế.
Các nhà nghiên cứu cũng thấy rằng ảnh hưởng cha mẹ có thể trở nên kém hiệu quả hơn là những tác động của mạng xã hội trên con cái tuổi teen. Vì thế, những kết nối với đời sống thực tế là chuyện thật sự quan trọng đối với cuộc sống của các bạn trẻ tuổi teen.
Thêm vào đó, Jamison ghi nhận rằng việc sử dụng thái quá mạng xã hội thường đưa tới những vấn đề như bị “stress” kinh niên, lo âu, hay bị những ám ảnh tuổi thơ. Vì thế, Newport Academy cũng đề xuất bắt đầu việc chữa trị bằng cách tách các em ra khỏi việc dùng điện thoại thông minh và những mạng xã hội.
4. Nguy cơ của việc phơi mình trước những nguy hiểm
Bị Bắt nạt trên mạng: Bắt nạt trên mạng là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất mà các bạn trẻ hiện nay dễ phải đối diện. Qua các dạng thức đa dạng của mạng xã hội, nhiều bạn trẻ tuổi teen bị bắt nạt dưới nhiều cách. Một số trường hợp nghiêm trọng đến độ những bạn trẻ đó đã tìm đến cái chết. Những nền tảng mạng xã hội cho phép người sử dụng ẩn danh và tấn công người khác một cách tàn nhẫn, và tất nhiên đưa tới những hệ quả thật nghiêm trọng.
Bị Lạm dụng: Các bạn trẻ tuổi teen cũng dễ bị lạm dụng bởi những kẻ xấu, những kẻ nguy hiểm, với những mưu đồ tính toán dẫn các bạn sa vào những điều tệ hại.
Bị cám dỗ trước những nội dung không phù hợp: Những nội dung không phù hợp và có hại như vấn đề khiêu dâm, ma túy, bạo lực, lừa lọc… được trình bày với nhiều vẻ hấp dẫn và mức độ khác nhau, hẳn cũng trở thành những cám dỗ mạnh đối với các bạn trẻ tuổi teen với những tính chất của một giai đoạn phát triển như đã trình bày ở trên. Đây là chuyện nhức nhối và thực tế đối với các bậc cha mẹ và những nhà giáo dục.
IV. CHA MẸ VÀ CÁC NHÀ GIÁO DỤC NÊN LÀM GÌ?
Suy nghĩ về những điều này, các bậc cha mẹ thường tự hỏi: “Vậy chúng tôi phải làm gì đây? Làm sao để con cái tuổi teen của chúng tôi có thể phát triển lành mạnh và an toàn với những tiến bộ của thời đại công nghệ ngày hôm nay?”.
1. Trao đổi và đặt ra những quy định
Trước tiên, cần trao đổi với con cái và đặt ra những quy định hợp lý về việc sử dụng mạng xã hội. Nên nhớ rằng các bạn trẻ lứa tuổi teen luôn cần những sự nâng đỡ và cả sự giáo dục để phát triển những kỹ năng sử dụng mạng xã hội cách trách nhiệm. Hẳn có nhiều cách để giúp các bạn trẻ tuổi teen học biết sử dụng những mạng xã hội một cách trách nhiệm, thì chính việc đặt ra những quy định với những giới hạn hợp lý sẽ giúp con cái dần biết sử dụng mạng xã hội một cách trách nhiệm trong gia đình, bao gồm cả việc chấp nhận những hậu quả đối với việc lạm dụng hay sử dụng không đúng. Hãy khích lệ chúng đừng để cho mạng xã hội can thiệp vào giấc ngủ, bữa ăn, việc làm bài tập tại nhà và những sinh hoạt của chúng.
2. Giám sát việc sử dụng
Tiếp đến, cần có những cách để giám sát việc sử dụng của các em. Dựa theo lứa tuổi và sự trưởng thành của con cái, hãy xem xét những đề xuất dưới đây:
– Việc kết bạn hay những tài khoản mạng xã hội của con cái cần có sự đồng thuận của cha mẹ, ngay cả việc tải lên những nội dung mà chúng muốn.
– Bảo đảm bật chức năng bảo mật để hạn chế truy cập đến thông tin cá nhân.
– Dạy cho con cái không được chia sẻ họ tên, địa chỉ, số điện thoại, các mật mã, số thẻ an sinh xã hội, tài khoản thẻ tín dụng…
– Tắt phần định vị nơi chốn.
Sử dụng những ứng dụng nào có chức năng giúp hạn chế việc truy cập internet tới các website cần có sự hạn chế về tuổi khi truy cập.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 125 (Tháng 7 & 8 năm 2021)
[1] Pew Research Center, Teens, Social Media & Technology 2018. Nghiên cứu thực hiện từ ngày 7.03 đến 1.04.2018, https://www.pewresearch.org/internet/2018/05/31/teens-social-media-technology-2018/;
[2] Newport Academy, The effects of Social Media on the Teenagers, https://www.newportacademy.com/resources/well-being/effect-of-social-media-on-teenagers/
[3] Hites Bhasin, Impact of Social Media on Youth: Positive & Negative Effects of Social Media
[4] Pew Research Center, Teens, Social Media & Technology 2018. Nghiên cứu thực hiện từ ngày 7.03 đến 1.04.2018, https://www.pewresearch.org/internet/2018/05/31/teens-social-media-technology-2018/;
[5] Hites Bhasin, Impact of Social Media on Youth: Positive & Negative Effects of Social Media
[6] Hites Bhasin, Impact of Social Media on Youth: Positive & Negative Effects of Social Media
[7] Newport Academy, Treatment – Teens & Anxiety, https://www.newportacademy.com/our-approach/teen-anxiety/
[8] Marion K. Underwood & Robert Faris, Social Media and the Hidden world of the Young Adolescents’ Peer Culture https://www.documentcloud.org/documents/2448422-being-13-report.html
[9] Amy Orben & Andrew K. Przybylski, The association between adolescent well-being and digital technology use, https://www.nature.com/articles/s41562-018-0506-1
[10] Newport Academy, The effects of Social Media on the Teenagers, https://www.newportacademy.com/resources/well-being/effect-of-social-media-on-teenagers/
[11] https://www.newportacademy.com/resources/well-being/effect-of-social-media-on-teenagers/
2022
Đức Thánh Cha tiếp các đại sứ cạnh Tòa Thánh
Như truyền thống hàng năm, sáng ngày 10/1/2021, Đức Thánh Cha đã tiếp ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh đến chúc mừng ngài nhân dịp đầu Năm Mới. Ngỏ lời với các đại sứ, Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “chúng ta không thể được cứu một mình và tự mình: những thách thức lớn của thời đại chúng ta đều mang tính toàn cầu.”
Niên trưởng ngoại giao đoàn chúc mừng và cảm ơn Đức Thánh Cha
Mở đầu cuộc gặp gỡ, ông Georges Poulides, đại sứ của Cộng hòa Sýp cạnh Tòa Thánh, niên trưởng ngoại giao đoàn, đã đại diện chúc mừng Năm Mới và cầu chúc Đức Thánh Cha được nhiều sức khỏe. Ông cũng cảm ơn Đức Thánh Cha với sự can đảm Tin Mừng đã trở thành nguồn cảm hứng cho họ trong một năm khó khăn vừa qua. Ông cảm ơn Đức Thánh Cha về sức mạnh ngài thông truyền cho họ, về hoạt động không mệt mỏi của ngài, nguồn hy vọng của nhiều người nam nữ.
Ngỏ lời với ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, Đức Thánh Cha nói rằng, cuộc gặp gỡ của ngài với các đại sứ là cuộc quy tụ gia đình “để giúp giải quyết những bất đồng trong cuộc sống chung của nhân loại, để thúc đẩy sự hòa hợp và nhận ra rằng, một khi vượt qua xung đột, chúng ta có thể khôi phục cảm giác về sự hiệp nhất sâu xa của tất cả thực tại.”
Chăm sóc sức khỏe là nghĩa vụ đạo đức
Sau khi cảm ơn các đại sứ đã quy tụ để thể hiện sự quan tâm của đất nước của họ đối với Tòa Thánh và vai trò của Tòa Thánh trong cộng đồng quốc tế, Đức Thánh Cha đề cập đến cuộc chiến chống đại dịch mà mỗi người đều có vai trò quan trọng. Ngài kêu gọi tiếp tục nỗ lực tạo miễn dịch cho người dân nói chung, càng nhiều càng tốt. Điều này cần sự dấn thân ở cấp độ cá nhân, chính trị và quốc tế. Trên bình diện cá nhân, Đức Thánh Cha nói rằng, mỗi người có trách nhiệm chăm sóc cho chúng ta và sức khỏe của chúng ta và điều này được thể hiện qua việc tôn trọng sức khỏe của những người xung quanh. “Chăm sóc sức khỏe là nghĩa vụ đạo đức.”
Libăng – gương mẫu của sự chung sống hòa bình và huynh đệ giữa các tôn giáo
Nhắc lại những cuộc gặp gỡ với các nguyên thủ và các chính phủ trong năm qua, Đức Thánh Cha đặc biệt đề cập đến cuộc gặp gỡ suy tư và cầu nguyện cho Libăng vào ngày 1/7/2021. Ngài lặp lại sự gần gũi và cầu nguyện cho quốc gia này và hy vọng sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế giúp cho Libăng kiên trì trong việc gìn giữ căn tính của họ như gương mẫu của sự chung sống hòa bình và huynh đệ giữa các tôn giáo khác nhau.
Vấn đề di dân
Trong bài nói chuyện, Đức Thánh Cha cũng đề cập đến vấn đề di dân khi nhắc lại chuyến viếng thăm đảo Lesbos của Hy Lạp, nơi ngài tận mắt chứng kiến lòng quảng đại của những người đón tiếp người di dân, nhưng trên hết là gương mặt của họ, với đôi mắt nói lên những nỗ lực trong hành trình, nỗi sợ hãi về tương lai bất định, nỗi đau rời xa người thân và nỗi nhớ quê hương. Đức Thánh Cha nói: “Trước những gương mặt đó, chúng ta không thể thờ ơ hay núp sau những bức tường và hàng rào kẽm gai với lý do bảo vệ an ninh hay một phong cách sống.”
Ngài nói tiếp: “Vấn đề di cư, cùng với đại dịch và biến đổi khí hậu, đã chứng minh rõ ràng rằng, chúng ta không thể được cứu một mình và tự mình: những thách thức lớn của thời đại chúng ta đều mang tính toàn cầu.” Từ đó, Đức Thánh Cha bày tỏ lo âu về tình trạng bất đồng trong các giải pháp. Ngài nhấn mạnh rằng: cần phải phục hồi ý thức của chúng ta về căn tính chung như một gia đình nhân loại duy nhất.
Khủng hoảng lòng tin trong quan hệ ngoại giao đa phương
Tuy nhiên, Đức Thánh Cha lưu ý về cuộc khủng hoảng lòng tin trong quan hệ ngoại giao đa phương do sự giảm sút uy tín của các hệ thống xã hội, chính phủ và liên chính phủ. “Các nghị quyết, tuyên bố và quyết định quan trọng thường được đưa ra mà không có quá trình đàm phán thực sự mà ở đó, tất cả các quốc gia đều có tiếng nói. Sự mất cân bằng này, hiện đã rõ ràng một cách đáng kể, đã gây ra sự bất bình đối với các cơ quan quốc tế từ phía nhiều quốc gia; nó cũng làm suy yếu hệ thống đa phương nói chung, với kết quả là, nó ngày càng trở nên kém hiệu quả hơn trong việc đương đầu với các thách thức toàn cầu.”
Theo Đức Thánh Cha, “ngoại giao đa phương được kêu gọi phải thực sự bao trùm, không hủy bỏ, nhưng tôn trọng những khác biệt và nhạy cảm đã ghi dấu ấn trong lịch sử của các dân tộc khác nhau.” Như thế, nó sẽ tìm lại được sự tin tưởng và hiệu quả khi đối mặt với những thách đố đang đến. Điều này cần có sự tin tưởng lẫn nhau và sự sẵn sàng đối thoại.
Đối thoại và tình huynh đệ
Đối thoại và tình huynh đệ là hai trọng tâm thiết yếu trong nỗ lực của chúng ta để vượt qua khủng hoảng của thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, chiến tranh và xung đột trên thế giới đang gia tăng. Đức Thánh Cha mời gọi “toàn thể cộng đồng quốc tế phải giải quyết nhu cầu cấp thiết là tìm ra giải pháp cho những cuộc xung đột bất tận mà đôi khi xuất hiện như những cuộc chiến tranh ủy nhiệm thực sự. Ngài nghĩ đến các nước đang chịu chiến tranh xung đột như Syria, Yemen, Libăng, Myanmar, vv.
Đức Thánh Cha nói rằng: “những xung đột này càng trở nên trầm trọng hơn do lượng vũ khí dồi dào trên tay và sự vô lương tâm của những người luôn cố gắng cung cấp chúng. Đôi khi, chúng ta tự đánh lừa mình khi nghĩ rằng, những vũ khí này dùng để xua đuổi những kẻ xâm lược tiềm ẩn.” Đức Thánh Cha nói: “Tòa Thánh tiếp tục kiên định khẳng định rằng: trong thế kỷ XXI, vũ khí hạt nhân là phương tiện phản ứng không đầy đủ và không phù hợp trước các mối đe dọa an ninh, và việc sở hữu chúng là trái đạo đức. Hoạt động sản xuất của chúng chuyển hướng các nguồn lực dành cho sự phát triển toàn diện của con người và việc sử dụng chúng không chỉ gây ra những hậu quả thảm khốc về nhân đạo và môi trường, mà còn đe dọa sự tồn tại của nhân loại.”
Giáo dục và việc làm
Cuối cùng, Đức Thánh Cha nhắc lại Sứ điệp của ngài cho Ngày Hòa bình Thế giới năm 2022, trong đó ngài nêu bật những yếu tố để cổ võ một nền văn hóa đối thoại và huynh đệ, đó là giáo dục và việc làm. Đức Thánh Cha khuyến khích các đại sứ cạnh Tòa Thánh “đừng sợ dành chỗ cho hòa bình trong cuộc sống của chúng ta bằng cách nuôi dưỡng đối thoại và tình huynh đệ.” (CSR_79_2022)
Nguồn: vaticannews.va/vi/
2022
Biện Phân Theo Vinh Sơn
BIỆN PHÂN THEO VINH SƠN
Hugh O’Donnell, CM.
(Đây là bài chia sẻ cho các chị Nữ Tử Bác Ái ở Fort Worth, Texas, ngày 7.3.1992)
Chúng ta hãy suy nghĩ về đoạn văn sau đây được trích từ tiểu sử thánh Vinh Sơn của Abelly, năm 1664, và được xuất bản gần đây bởi Viện nghiên cứu Vinh Sơn.
Trong vô số những suy nghĩ và khuynh hướng không ngừng nảy sinh trong lòng chúng ta, có rất nhiều điều tưởng như là tốt, nhưng lại không đến từ Thiên Chúa, cũng không đẹp lòng Người. Vậy làm sao phân định được chúng? Chúng ta phải quan sát chúng thật cẩn thận, cầu nguyện với Người và cầu xin ánh sáng của Người soi dẫn. Chúng ta phải xem xét động cơ, mục đích và phương tiện để xem liệu tất cả những điều này có phù hợp với ý muốn của Người hay không. Chúng ta nên trình bày tư tưởng của mình với những người thông thái và đón nhận lời khuyên từ những người mà chúng ta trao đổi. Họ là những người lưu truyền kho tàng khôn ngoan và ân sủng của Thiên Chúa. Khi chúng ta làm theo các chỉ dẫn của họ, chính là chúng ta đang làm theo ý muốn của Thiên Chúa[1].
Đây là một bản tóm tắt tuyệt vời về cách phân định của Vinh Sơn. Đầu tiên, thánh Vinh Sơn bắt đầu với việc mở lòng ra với ý muốn của Thiên Chúa. Sau đó, ngài cân nhắc đến những động cơ. Và thứ ba, ngài tín thác bản thân cho một người có cảm thức về vấn đề này. Ngài có một niềm tin tuyệt vời rằng, Thiên Chúa biểu lộ ý muốn của Ngài ngang qua bề trên và những người mà chúng ta có thể tin tưởng. Điểm cuối cùng này có vẻ đặc biệt lôi cuốn thánh Vinh Sơn và Louise.
Chủ đề của chúng ta trong bài viết này là sự phân định. Đó là một trong những chủ đề cần thiết không những ở trong hiện tại mà cả tương lai. Thời thế đã thay đổi rất nhiều kể từ thời điểm tôi làm lời khấn. Tôi đã làm lời khấn trong một xã hội và môi trường Công giáo ổn định. Khi đó, mọi thứ đều ủng hộ các chị và tôi, cuộc sống đã luôn là như thế. Thật khó để gặp rắc rối. Bây giờ xã hội đang đi theo một chiều hướng khác. Theo nhiều cách khác nhau, xã hội đã không còn ủng hộ các quyết định và cam kết của chúng ta. Tuy nhiên, bên cạnh đó, trong ba mươi hay bốn mươi năm qua, thế giới của chúng ta đã trải qua những thay đổi to lớn và dường như sự thay đổi đó đã trở thành cách sống của chúng ta. Chúng ta đã bước ra khỏi một thế giới ổn định và có thể dự đoán được và bước vào một thế giới luôn biến dịch. Chị em có thể thấy ngay bối cảnh để phân định.
Trước đây, mọi thứ đều có thể dự đoán được theo một cách nào đó, và chúng ta có thể làm những gì chúng ta đã làm vào tuần trước trong tuần này. Tôi biết rằng tôi sẽ không bao giờ có thể đủ kiên nhẫn ở trong tu viện Trappist. Tôi đã cố gắng trong tuần đầu tiên, nhưng vào thứ Hai tuần sau tôi nói “Bây giờ, tôi phải làm gì?” Họ nói, “Thứ Hai tuần trước cha đã làm gì?” Tôi nói: “Chà, tốt hơn là tôi nên đi.” Tôi không nghĩ là mình có thể thực hiện các công việc thường ngày. Đây là cuộc sống của chúng ta, phải không? Chúng ta có nhiều dự đoán cho chúng, nhưng không phải hiện tại. Kinh tế, chính trị, xã hội và mọi mặt của xã hội đều có những thay đổi to lớn. Hãy để tôi đề cử một sự thay đổi làm thí dụ điển hình. Thế hệ của chúng ta dường như là những người đầu tiên trong lịch sử nhân loại có thể chấp nhận cuộc sống độc thân trong xã hội.
Trong tất cả các nền văn hóa bộ lạc và xã hội lịch sử, cuộc sống độc thân là điều không mong muốn và cũng là nguyên nhân của sự chế nhạo hoặc thương hại. Khi tôi còn niên thiếu, nếu ai đó còn độc thân, chúng ta có thể đã nghĩ rằng, chắc hẳn họ rất đau lòng. Điều này nói chung là không thể chấp nhận được ngoại trừ việc Giáo hội luôn xem đời sống tu trì là một cách để mọi người sống ơn gọi độc thân. Giờ đây, sau gần hai mươi lăm năm trôi qua, chúng ta đã có một cách nhìn mới và khác về nó. Độc thân là một hiện tượng phổ biến và được xã hội chấp nhận, ít nhất là ở phương Tây. Tôi nghĩ đây là lần đầu tiên trong xã hội xảy ra trường hợp như vậy. Đây chỉ là một thí dụ cho thấy rằng, thế giới chúng ta đang sống đã thay đổi hoàn toàn và đang tiếp tục thay đổi kể từ khi Công đồng Vatican II kết thúc.
Nhân tiện, hãy để tôi nói về phản ứng của chúng ta trước hoàn cảnh mới này. Điều này ngụ ý những cơ hội mới cho giá trị của đời sống độc thân. Món quà độc đáo này mà chúng ta đang đảm nhận, một nửa biết nó là gì, nhưng một nửa không biết nó là gì, sẽ mang một ý nghĩa mới. Chúng ta bắt đầu thấy rằng, có một thế giới mới đang nói về ý nghĩa của đời sống độc thân, không chỉ đơn thuần là một hiện tượng tôn giáo, mà chính xác là một hiện tượng thế tục. Một thế giới và bối cảnh mới xuất hiện, trong đó các giá trị thể hiện trong đời sống độc thân đang thật sự mang lại sự sống cho thế giới mà không chỉ riêng trong đời sống tôn giáo. Thế giới mới này không những là một thách đố, mà còn là một cơ hội và phúc lành của Tin Mừng.
Thứ hai, chúng ta hãy nhìn vào sự thay đổi của ý thức nhân loại. Nếu chúng ta tự hỏi nguồn gốc của hoàn cảnh đương đại của chúng ta là gì, chúng ta có thể nói rằng, nó có thể bắt nguồn từ Việt Nam; hoặc đến từ Thế chiến thứ hai; hoặc ít nhất, nó là một hiện tượng của thế kỷ XX; hoặc trở về thời kỳ Khai Sáng, thậm chí là thời kỳ Cải Cách. Và có lẽ, nguồn gốc, có thể còn sâu xa hơn thế. Trong Giáo hội, điều đó chắc chắn đúng. Chẳng hạn, Karl Rahner, khi đọc diễn văn tốt nghiệp tại Weston, Boston năm 1980, đã đưa ra câu hỏi: “Điểm thần học quan trọng của Công đồng Vatican II là gì?” Ông nói, đó là công đồng đầu tiên nói về “một Giáo hội hoàn vũ”. Nó không phải là công đồng đầu tiên của Giáo hội hiện diện trên thế giới, như nó đã từng hiện diện trong thời gian, nhưng nó là công đồng đầu tiên của một Giáo hội, mà mọi người trên khắp thế giới đều nói bằng chính tên của mình. Hệ thống phẩm trật của Giáo hội Trung Hoa phải đến năm 1922 mới được thiết lập; các giám mục tiên khởi Châu Phi phải đến năm 1926 mới được bổ nhiệm. Giáo hội ở từng quốc gia mang chiều kích Giáo hội địa phương và quyền quản trị thuộc đấng bản quyền của mình mà không còn phụ thuộc bất kỳ quốc gia nào.
Đó là một thế giới mới. Nhận thức của con người đang dần thay đổi. Thẩm quyền ngày càng mất dần tính hữu ích trong việc thông truyền các giá trị, trong khi đó, tính xác thực và tính toàn vẹn cá nhân lại có tính hiệu quả hơn. Các giá trị đó quan trọng, trên thực tế rất quan trọng, nhưng cách truyền tải chúng ít tập trung vào “lắng nghe tôi vì tôi có thẩm quyền” và tập trung nhiều hơn vào “lắng nghe tôi vì tôi là nhân chứng xác thực của Tin Mừng.”
Vâng, có một nhận thức mới đang phát triển, không chỉ là về sự biến đổi và tan biến, mà còn là về ân sủng. Thiên Chúa ở giữa tất cả những điều này. Nhân vị giờ đây được đặt ở vị trí trung tâm nhiều hơn. Giá trị và tầm quan trọng của mỗi cá nhân như một biểu hiện độc đáo và cá vị về Thiên Chúa. Chúng ta đang bắt đầu tìm kiếm nhiều bạn mới hơn và vượt qua ranh giới đã từng chia cách chúng ta khi mà sự khẳng định về con người và tự do được chú trọng.
Khi Chúa “phán” cuộc sống của các chị vào trong thế giới, Người phán một lần và mãi mãi, không bao giờ lặp lại. Người nói điều gì đó đặc biệt nơi mỗi chị và trong những người chị phục vụ và những người bước vào cuộc đời của các chị. Người đã nói một lời mà không bao giờ có thể nói lại, bởi vì Người đã nói nó một cách duy nhất nơi các chị và nơi tôi. Chúng ta bắt đầu thấy rằng, mỗi người là độc nhất, có giá trị và tầm quan trọng to lớn. Tôi không nói ở đây về “cá nhân”. Thomas Merton trong cuốn sách kinh điển, “Kitô giáo và toàn trị” trong Disputed Questions, đã làm rõ sự khác biệt giữa cá nhân và ngôi vị. “Cá nhân là những đơn vị vô danh trong xã hội đại chúng. Họ là những đơn vị tiêu dùng hoặc đơn vị sản xuất, không có tự do và trách nhiệm thuộc về cá nhân. Ngược lại, một ngôi vị thì được tạo ra bởi tình yêu và hiệp thông trong tự do, có trách nhiệm với chính mình, cố gắng nhận ra sự giới hạn nơi bản thân và đấu tranh trong việc tự quyết theo lương tâm, những gì là ý muốn của Thiên Chúa.”[2]
Hơn nữa, một kiểu mẫu mới của tương quan đang phát triển. Ngày 11 tháng 10 năm 1962, trong bài giảng khai mạc Công đồng Vatican II, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã phát biểu – khi ngài đặt chương trình nghị sự canh tân cho Công đồng – rằng, “Chúa Quan Phòng đang dẫn chúng ta đến một trật tự mới về mối tương quan của con người.” Quy chiếu của ngài về Chúa Quan Phòng có một tiếng vang đặc biệt nơi người môn đệ của thánh Vinh Sơn.
Chúa Quan Phòng đang dẫn chúng ta đến một trật tự mới trong các mối tương quan của con người. Đức Giáo hoàng đã làm rõ ý nghĩa đó bằng cách thêm vào: một trật tự mới về mối tương quan của con người, trong đó bạo lực phải được loại trừ, chứ không phải được thêm vào. Nó tạo nên sự khác biệt quan trọng, cho dù bạo lực hay các mối đe dọa bạo lực có xuất hiện trong bối cảnh khi chúng ta tương quan với người khác hay không. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII nói rằng, mối quan hệ của tôi với các chị phải là một mối tương quan Phúc Âm, trong đó việc đe dọa hoặc sử dụng bạo lực không phải là yếu tố cơ bản, mà là mối quan hệ dựa trên sự tôn trọng và quan tâm, trên sự lắng nghe và thách thức, trên những điều xảy ra nơi mối tương quan giữa con người với nhau và trên tình yêu. Có lẽ kinh nghiệm của chúng ta có thể làm chứng cho tầm nhìn của Đức Giáo hoàng Gioan XXIII và chúng ta có thể nói rằng, Chúa Quan Phòng đã dẫn chúng ta đến một trật tự mới trong các mối tương quan của con người. Có được niềm vui và sự bình an khi biết rằng, Chúa Quan Phòng là trung tâm của trật tự mới – sự hấp hối và trỗi dậy – mà chúng ta đã từng được cảm nghiệm.
Đây là thế giới mới, trong đó sự phân định đang tiến vào trung tâm của sân khấu . Những điều không thể dự đoán thì không thể lên kế hoạch được. Chúng ta được mời gọi chú ý đến lịch sử mở ra của chúng ta theo một cách thức mới mẻ.
Tôi rất ngưỡng mộ những gì các chị đã làm được với tư cách là tỉnh dòng. Nó thực sự là một lựa chọn mang tính ngôn sứ mà các chị đã thực hiện. Các chị đã chọn trở thành một cộng đoàn phân định trong thời gian tới.
Đó là một chọn lựa mang tính dứt khoát. Đó là một bước tiến, và đó là chọn lựa mà phía gia đình Vinh Sơn của chúng ta chưa đạt được cụ thể vào lúc này. Trong hai thập kỷ qua, tất cả chúng ta đã cùng nhau tham gia vào việc lập kế hoạch và đã đạt được sự kết nối và theo đuổi nhiều mục tiêu, chiến lược và những thứ khác. Nhưng bản thân của tôi hiếm khi được đánh động như đã từng có trước đây, vì mục tiêu của chúng ta là trở thành cộng đoàn phân định trong vài năm tới. Nó là một dự án khả thi, cụ thể và đầy hứa hẹn.
Chúng ta biết rằng người thầy thực sự trong lãnh vực phân định là thánh Inhaxio. Tất cả chúng ta, kể cả thánh Vinh Sơn và Louise, học được từ thánh nhân và môn sinh của ngài về khía cạnh này. Tuy nhiên, thánh Vinh Sơn và Louise, trong thời đại của các ngài, đã nhập thể vào sự phân định theo một cách thức thực sự độc đáo. Chúng ta đang bắt đầu khám phá làm thế nào để mô tả nó cho chính mình. Chúng ta có lẽ đã luôn cảm thấy nó là quà tặng của các ngài, nhưng bây giờ chúng ta có thể tìm những từ ngữ cho nó.
Vậy thì Phân định, nó là gì? Hai thành phần chính là (1) được hướng dẫn bởi Thần Khí (2) trong tự do. Tự do của chúng ta là tham gia vào sự phân định. Đó là Thần Khí, Đấng dẫn dắt chúng ta đến tự do. Thần Khí kêu gọi chúng ta, mời gọi chúng ta trong tự do để đi theo một hướng và hành động theo một cách nhất định. Đó là sự năng động: hành động của Thánh Linh đụng chạm đến tự do của người con cái Chúa.
Đó là một lựa chọn, không phải giữa thiện và ác, mà là giữa hai hay nhiều điều thiện hảo hơn. Trong một khóa học về phân định tại Chủng viện thánh Thomas, các sinh viên đã được hỏi, “Bạn đã học được gì cho đến nay?” Một sinh viên nói rằng, khi biết sự phân định không phải là lựa chọn giữa thiện và ác, mà là chọn lựa giữa các điều thiện hảo và cậu sinh viên này cảm thấy bản thân mình bị thách thức nhiều so với việc chọn lựa giữa điều thiện và ác. Thật vậy, đó là một thách đố lớn lao đối với chúng ta khi thừa nhận rằng, phân định là lựa chọn giữa các điều thiện hảo.
Một trong những điều đã thay đổi nơi xã hội của chúng ta ngày nay là người trẻ có rất nhiều cơ hội để đưa ra chọn lựa. Khi trưởng thành, tôi cũng chưa có nhiều cơ hội như vậy. Một người có thể lập lại những gì mà bố mẹ họ đã từng làm, có thể bước vào đời tu, hoặc vào cánh cửa đại học. Các chọn lựa bị hạn chế. Sự phân định ngày nay phải đối diện với sự gia tăng các lựa chọn thiện hảo. Đó là tin tốt nhưng cũng hàm chứa sự thách thức và đầy khó khăn.
Thứ hai, sự phân định không những tìm hiểu về điều mà chúng ta cần phải làm, mà nó còn liên quan đến việc lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần bày tỏ cho từng cá nhân, hoặc cho cộng đoàn, hoặc cho tỉnh dòng. Chẳng hạn, nếu các chị đang suy nghĩ về tỉnh dòng, sự phân định có thể được ví như là sự đối nghịch với sản xuất hàng loạt, mà chìa khóa để sản xuất hàng loạt là các bộ phận có thể hoán chuyển cho nhau. Các chị có thể mua cùng một bộ giảm âm như nhau ở California, Florida hoặc Đài Loan. Nhưng đó có chính xác thực sự là những gì gọi là phân định.
Thiên Chúa nói với chúng ta, không những về bản tính con người, mà còn như là những ngôi vị riêng biệt và độc nhất, và là những ngôi vị hiệp thông với nhau trong cộng đoàn địa phương hoặc cộng đoàn lớn hơn của cấp tỉnh dòng hoặc trong sự hiệp thông giữa các cộng đoàn mà chúng ta gọi là Giáo hội. Phân định là một ơn gọi được gửi đến cho tôi, cho các chị, và cho chúng ta trong sự thông hiệp với nhau. Nó hiện hữu, mang tính lịch sử và cá vị. Trọng tâm của nó không phải phân định lương tâm giữa thiện và ác, cũng không phải xác định các tiêu chuẩn thần học điều gì là phổ quát cho mọi người, mà là phân định tính linh hứng của Thần Khí và chiều kích thông hiệp của lịch sử hiện tại.
Từ một quan điểm khác, phân định là câu trả lời cho hai câu hỏi. Đầu tiên: những gì là “có” và những gì là “không” trong đời sống? Tôi biết nhiều về bản thân hơn nếu tôi biết những gì tôi nói “có” và những gì tôi nói “không” với. Chẳng hạn, lời mời gọi căn bản của Kinh thánh, xuất phát từ truyền thống ngôn sứ, là “chọn lựa đời sống”. Chúng ta nói “có” với cuộc sống và “không” với mọi thứ có hại cho cuộc sống. Phân định sau đó là về những gì chúng ta nói “có” với và những gì chúng ta nói “không” với hiện tại và tương lai gần.
Câu hỏi cụ thể thứ hai là: Những thứ chúng ta có – thân thể, thời gian, tiền bạc – chúng thuộc về đâu? Chúng ta có rất nhiều lựa chọn. Đây là những lựa chọn cụ thể mà chúng ta phải thực hiện.
Phân định có ba khuôn mặt khác nhau. Đầu tiên là thứ chúng ta biết rõ nhất. Đó là khuôn mặt ơn gọi. Khi chúng ta nghe thấy ai đó đang phân định, chúng ta tưởng tượng người đó đang tìm câu trả lời cho câu hỏi cuộc đời, chẳng hạn như, tôi có được kêu gọi sống cho cộng đoàn không, tôi sẽ kết hôn chứ, tôi sẽ kết hôn với ai, Chúa có đang gọi tôi sống đời độc thân không? Các vấn đề về ơn gọi xuất hiện trong tâm trí của chúng ta. Hoặc chúng ta có thể nghĩ về các quyết định thay đổi hướng đi, chẳng hạn như thay đổi trong nghề nghiệp. Chúng ta bắt đầu phát hiện ra rằng, trong đời sống tu trì, chúng ta có thể không chỉ có một sứ vụ tông đồ mà là hai hoặc ba hoặc thậm chí là nhiều hơn. Nói chung, chúng ta cho rằng sự phân định đề cập đến các bước ngoặt lớn trong cuộc đời của một con người. Nó bao gồm các quyết định giữa nhiều lựa chọn và chúng ta đã học được nhiều hơn về điều này trong gần ba mươi năm qua.
Điều rõ ràng hơn với tôi hôm nay chính là, không những chúng ta nhận được lời mời gọi đầu tiên, mà, ở đâu đó giữa cuộc đời, chúng ta còn có thể nhận được lời mời gọi thứ hai. Chúng ta cần lắng nghe lời mời gọi này, vì đó là ơn gọi thứ hai của chúng ta. Nó giống như ơn gọi trong một ơn gọi.
Khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong cuộc đời tôi là khi tôi có thể nói “vâng” vô điều kiện theo một hướng duy nhất. Khi “vâng” của tôi là duy nhất và vô điều kiện, tôi có thể sẽ phải chịu đựng rất nhiều. Tuy nhiên, khi trái tim bị phân mảnh, và tiếng “vâng” của tôi có điều kiện thì nguồn cội mọi năng lượng của chúng ta cũng sẽ bị phân tán theo. Điều này đặc biệt đúng đối với chúng ta, những người luôn đặt sự chính trực thiêng liêng là lẽ sống của cuộc đời mình. Bị phân mảnh trong lĩnh vực cam kết là rất đau đớn. Phẩm chất tiếng “vâng” không chỉ quan trọng với cuộc sống của chúng ta mà còn với cả quá trình đưa ra quyết định. Do đó, càng nói “vâng” với ơn gọi, sứ vụ, và cộng đoàn, thì chúng ta càng có nhiều sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta được mời gọi thông dự vào sự quảng đại của Thiên Chúa. Đó là một hồng ân tuyệt vời. Chúng ta hãy để cho sự quảng đại đó lấp đầy cuộc sống của chúng ta đến mức không cần phải giải quyết khi những đổ vỡ, bóng tối, hạn chế và tội lỗi trong cuộc sống của chúng ta xuất hiện. Vì vậy, không có gì là sai với sự quảng đại, ngoại trừ việc tôi bị tiêu hao đi cùng với sự quảng đại.
Thật vậy, một vài câu hỏi khó hơn sẽ xuất hiện trước mắt tôi như một kiểu thanh tẩy. Sau đó, tôi bắt đầu thấy rằng, trong khi Thiên Chúa hiện hữu nơi lòng quảng đại của mình, thì đồng một trật cũng có một chút của bản thân tôi ở trong đó. Đó có thể là một ngày đau khổ, nhưng cũng có thể là một ngày tươi đẹp, bởi vì nếu tôi có đủ kiên nhẫn và can đảm để kiên trì, Thiên Chúa sẽ thanh tẩy tâm hồn tôi. Tình yêu ngày càng trở nên quan trọng hơn. Hành trình tiếp theo là hành trình từ yêu thương bao dung đến yêu thương chính mình. Tình yêu ngày càng trở nên quan trọng hơn trong cuộc sống của chúng ta. Sự quảng đại là một món quà tuyệt vời nhưng tình yêu còn là một món quà lớn lao hơn. Sự chuyển đổi xảy ra khi Chúa Thánh Thần có một mô hình khác, và điều này cũng hiển nhiên trong hành trình: từ hành động đến sự hiện diện. Mô hình này đặc biệt quan trọng trong cộng đoàn các tông đồ, vì một lúc nào đó năng lượng của chúng ta cũng sẽ cạn kiệt. Thật vậy, nếu chúng ta liên kết với những hoạt động và thành tựu mà chúng ta đang có, thì khi năng lượng của chúng ta cạn kiệt, thì cũng là lúc chúng ta bắt đầu nghĩ rằng, tình yêu của chúng ta với Thiên Chúa bắt đầu cạn dần.
Điều thực sự đang xảy ra là cách chúng ta yêu mến Thiên Chúa đang được chuyển đổi từ hoạt động sang hiện hữu. Điều tuyệt vời nhất trong tất cả các ân sủng của Chúa Thánh Thần là sự hiện hữu. Cha Richard McCullen, cựu Bề Trên Tổng Quyền của Tu Hội Truyền Giáo và Tu Hội Nữ Tử Bác Ái, đã nói: “Một vị thánh là người có thời gian.” Đó là sự thật, phải không? Nếu ai đó có thời gian cho chúng ta, nếu tôi có thời gian dành cho các chị hoặc các chị có thời gian dành cho tôi, đó là một món quà tuyệt vời. Một người có thời gian là người có thể hiện hữu bất kỳ lúc nào. Sự chuyển đổi của hiện hữu này đi kèm với sự gia tăng lời cầu nguyện tông đồ. Trái tim của người tông đồ lớn lên trong chúng ta và chúng ta đi đến để đón nhận thế giới của anh chị em mình – niềm vui, nỗi buồn, sự tan vỡ, và niềm hy vọng – trong trái tim đầy lòng trắc ẩn của Thiên Chúa.
Có một động lực ở đây. Khi chúng ta lắng nghe trong sự phân định, chúng ta lắng nghe trong một quá trình cụ thể từ hành động đến hiện hữu. Điều đó không có nghĩa là hành động không được phản đối, cũng không phải là hành động sẽ không tiếp tục, mà là một chuyển động hướng về trọng tâm cùng với một trái tim biết lắng nghe là cốt lõi.
Phân định thực chất là của trái tim. Đây là việc trình bày những gì đang xảy ra theo cách mà chúng ta có thể nghe thấy. Nó xuất phát từ một trái tim biết lắng nghe. Nếu khía cạnh đầu tiên của phân định liên quan đến con đường chúng ta đang đi, thì khía cạnh thứ hai liên quan đến cuộc sống hàng ngày – sống một cuộc sống phân định hàng ngày. Đôi khi chúng ta gọi đó là “sống trước nhan Thiên Chúa”. Quaker sẽ gọi nó là “Hiện hữu với Đấng hiện hữu”. Chúng ta nên hiện hữu cùng với những người khác. Thậm chí còn sâu sắc hơn, nếu chúng ta tìm cách hiện hữu với Đấng hiện hữu nơi mọi người, nơi các biến cố và sự việc. Đó chính là trọng tâm và linh hồn của thánh Vinh Sơn và Louise. Điều các ngài nói là “Chúa ở đây!” Hãy hiện hữu với Đấng hiện hữu – hãy sống bằng trái tim biết lắng nghe, biết chú ý đến sự hiện hữu của Chúa mỗi ngày, có cái nhìn sâu sắc mỗi ngày, và đưa ra quyết định mỗi ngày.
Có lẽ, lời hứa về Đấng Mêsia có thể được tìm thấy nơi lời của vị ngôn sứ Jeremiah / Ezekiel, mà hình ảnh này dường như luôn thiêu đốt trái tim và trí tưởng tượng của chúng ta, nói lên quan điểm này: “Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi, và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt.” (Ed 36, 26). Nhờ Thánh Linh của Đấng Mêsia mà chúng ta được ban cho một quả tim mới. Với quả tim này, chúng ta sẽ được thông dự vào sự hiện hữu của Thiên Chúa trong từng khoảnh khắc của cuộc đời chúng ta. Và cũng với quả tim này, một quả tim đầy lòng trắc ẩn của Thiên Chúa, chúng ta có thể cảm nhận được sự hiện hữu cá vị nơi Đấng mà chúng ta đang đắm chìm. Vie Thorgren đã gọi đây là “sống với một trái tim phân định.”
Cuối cùng, khía cạnh thứ ba của sự phân định liên quan đến việc đưa ra lựa chọn trong các lĩnh vực xã hội, trong mối liên hệ của chúng ta với anh chị em mình. Đôi khi chúng ta gặp rắc rối vì vấn đề quá lớn. Vì vậy, có xu hướng là tự nói với bản thân rằng: “Bất cứ điều gì tôi có thể làm được dù đó chỉ là một giọt nước trong đại dương”, và sau đó quyết định tập trung vào nó và đi theo con đường của riêng mình. Một cám dỗ khác có thể nảy sinh là chúng ta để cho dự định đó kéo dài trong vài ba năm. Chúng ta phải sống như thế nào giữa hai lựa chọn này? Quaker, đặc biệt là Thomas Kelly, đã viết một cuốn sách có tên “A Testament of Devotion”, rất hữu ích về vấn đề này. Quaker gọi nó là sự “quan tâm”.
Thiên Chúa quan tâm đến mọi tạo vật, đến tất cả anh chị em của chúng ta, đến tất cả những người đang cần, nhưng Ngài cũng biết rằng, các chị và tôi không thể làm được tất cả những điều này. Vì vậy, trong số những bận tâm của Ngài dành cho chúng ta, Ngài ban cho mỗi chúng ta một “sự quan tâm” – một quan tâm đặc biệt – trẻ em hoặc người vô gia cư chẳng hạn. Có lẽ Chúa có thể ban cho người nào đó, hai hoặc ba “sự quan tâm”. Dù sao, với kế hoạch to lớn này, Thiên Chúa vẫn sẽ nói riêng với mỗi người trong chúng ta, và mời gọi chúng ta trả lời cho các nhu cầu của anh chị em mình, ở đây và bây giờ, nơi này và thời gian này.
Trong sự quan tâm phổ quát mà Thiên Chúa dành cho tất cả tạo vật, thì Ngài bận tâm đến sự quan tâm cụ thể của các chị và tôi, là giá trị và tự do. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta không cần phải đương đầu với nó, và khi thông hiệp cách trọn vẹn vào trong sự quan tâm của Ngài dành cho mọi người thì chúng ta sẽ không còn thấy kiệt sức nữa, nhưng được sống trong sự bình an của Thiên Chúa. Đồng thời, đó còn là một lời mời gọi của Thiên Chúa dành cho chúng ta ở giữa xã hội này, là tham dự vào trong những mối quan tâm mà Ngài dành cho chúng ta. Vì vậy, đó là khía cạnh thứ ba của phân định.
Một trong những phát triển đáng khích lệ và thú vị nhất trong truyền thống Vinh Sơn là việc người ta giờ đây có thể nghe thấy tiếng nói của thánh Vinh Sơn và Louise từ góc nhìn của người giáo dân. Trong năm vừa qua, Vie Thorgren đã có một bài nói chuyện rất hay về thánh Louise tại Hội nghị chuyên đề “Di sản bác ái”, vừa được công bố trên tạp chí Vincentian Heritage gần đây.[3] Trong năm đó, bà đã dành ra thời gian để chuẩn bị cho bài nói chuyện về những điều đã xảy ra trong cuộc đời của thánh Louise. Có thể các chị đã biết chúng từ lâu, nhưng tôi thì đang nghiên cứu về chúng. Chúng tôi sử dụng chúng trong các khóa học mà chúng tôi dạy về phân định.
Điểm đầu tiên, liên quan đến thánh Louise và cuộc sống ẩn dật của Đức Giêsu tại Nazareth. Khóa học bắt đầu với cuộc sống ẩn dật của Đức Giê-su tại Nazareth, nơi rất gần với trái tim của thánh Louise và là trung tâm đời sống thiêng liêng của ngài. Chúng tôi đã hiểu được rằng, sự phân định phải bắt đầu từ những biểu hiện hàng ngày mang chiều kích vô hình và được ẩn dấu ở Nazareth. Phân định không phải là việc thương thỏa điều tốt với Thiên Chúa, nhưng là việc lắng nghe những gì Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta thực thi. Và một trong những nơi tốt nhất để lắng nghe không phải là đấu trường công cộng mà là một nơi bí mật mang tên Nazareth, cho dù đó là Nazareth về mặt địa lý, nơi mà Đức Giêsu đã dành phần lớn cuộc đời mình ở đó hay Nazareth mà mỗi chúng ta mang trong tim mình. Thánh Louise rất ấn tượng về Nazareth và trong một số bức thư, chúng ta có thể thấy rằng, ngài đã trình bày điều đó cho thánh Vinh Sơn về cảm nghiệm này.
Charles de Foucauld, một trong những người có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần đương đại của Giáo hội, cũng đặt Nazareth ở vị trí trung tâm linh đạo của ngài. Chính chân phước đã dành vài năm ở Nazareth, sinh hoạt trong cộng đoàn của các sơ và dành phần lớn thời gian còn lại của mình trước sự hiện diện của Bí tích Thánh Thể. Linh đạo của các chị em tiểu muội Chúa Giêsu và các anh em tiểu đệ Chúa Giêsu là sống mầu nhiệm Nazareth trong các chiều kích: thinh lặng nội tâm, sự hiện diện khiêm nhường và ẩn dật trong Thiên Chúa. Đó là linh đạo của mầu nhiệm Nazareth, là trái tim hiện hữu của họ nơi người nghèo nhất, nơi cộng sự và đồng loại, và nơi anh chị em của Chúa Giêsu. Có một bức thư tuyệt vời về chủ đề này mà thánh Louise đã viết cho chị Anne Hardemont.
Tôi hết lòng tạ ơn Thiên Chúa vì chị đã nói với tôi về phận vị mà chị đang đảm nhận. Tuy nhiên, tôi xin chia sẻ nỗi đau mà chị đang trải qua vì chị cảm thấy rằng chị chẳng làm được gì cả. Chị thân mến, tôi xin được gửi lời an ủi thân tình của tôi đến với chị, bởi vì tôi nghĩ rằng chị đang bắt chước tình trạng mà Con Thiên Chúa đã tìm thấy chính mình sau khi rời khỏi đền thờ, nơi Ngài đang làm việc cho vinh quang của Thiên Chúa, Ngài đã trở về cùng với Đức Trinh Nữ và thánh Giuse và vâng lời các ngài. Ngài đã hoàn thành ý muốn của Thiên Chúa với các nhiệm vụ khiêm tốn tại cửa hàng thợ mộc trong suốt nhiều năm. Tuy nhiên, vì sự cứu rỗi của toàn thể nhân loại mà Ngài đã làm việc ở giữa thế gian. Chúng ta không biết, thưa chị, tại sao Chúa Quan phòng lại đặt để chị sang một bên, để chị ẩn mình trong Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, bằng cách làm việc một cách khiêm tốn và phục vụ người nghèo trong thinh lặng, chị chắc chắn sẽ hoàn thành các kế hoạch của Chúa Quan Phòng. Nếu chị suy nghĩ về điều này, chị thân mến của tôi, như tôi chắc chắn rằng chị sẽ làm, chị sẽ tìm thấy được sự bình an sâu sắc và chị sẽ đợi chờ trong thái độ yêu thương và tự tin cho đến khi Chúa muốn một điều gì khác nơi chị. Theo cách này, chị đang thực hành một sự dửng dưng thánh thiện.[4]
Thánh Louise nhận ra rằng, chị Anne đang cảm thấy mình như không làm được gì cả, vì vậy thánh nhân mời gọi chị hãy làm việc trong tinh thần an nhiên và để tâm đến điều mà Chúa có thể mời gọi chị làm tiếp theo. Có một sức mạnh tuyệt vời ở đây! Nazareth bên trong trái tim của mỗi người là nơi phù hợp nhất để lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa.
Cách thứ hai mà thánh Louise đã tiết lộ cho chúng ta thấy trái tim của sự phân định là ngang qua lòng yêu mến đối với cơn khát của Chúa Giêsu. Mầu nhiệm này cho thấy rằng ước muốn và lòng khao khát đó khiến cho sự phân định trở nên năng động. Cơn khát của Chúa Giêsu không phải là cơn khát thể lý mà là cơn khát hiệp thông với Chúa Cha và Thánh Linh và còn là cơn khát chia sẻ hoa trái của thập giá cho tất cả anh chị em mình.
Trong cuộc sống của chúng ta, hai trong số những điều mạnh mẽ nhất mà chúng ta có thể đi vào là, thông dự thần linh vào mầu nhiệm Nazareth và thông hiệp trong mầu nhiệm cơn khát của Chúa Giêsu, ngõ hầu chia sẻ tài nguyên của nước trời cho nhân loạị.
Monika Hellwig đã viết về Bí tích Thánh Thể và Những Cơn Đói của Thế giới vào năm 1976 để chuẩn bị cho Đại hội Thánh Thể được tổ chức hai trăm năm một lần của chúng ta. Trong đó, tác giả nói rằng, sự đói và khát là điều không thể chấp nhận được ở Mỹ. Nếu bạn đói hoặc khát, hãy uống Coca Cola, ăn Pizza, Socola. Nhưng trong đời sống tinh thần, đói và khát chính là trung tâm cuộc sống của chúng ta – đó là năng lượng và sức mạnh của chúng ta. Khi cho phép bản thân đói và khát trong phẩm trật tâm linh, chúng ta hãy để cho chính mình được sống trong niềm khao khát nước trời và thông hiệp với Mầu Nhiệm Tuyệt Đối, do bởi điều đó mà trái tim của chúng ta được tạo dựng nên. Chẳng hạn, đói và khát thể lý trong việc ăn chay có thể góp phần vào việc chúng ta sống niềm khao khát đó của con tim.
Nếu chúng ta đang nhìn vào chính mình như những nhà phân định, chúng ta cần phải lưu lại Nazareth, khao khát được tiến vào nước trời và đạt đến được sự thiện hảo nơi anh chị em của chúng ta. Một câu chuyện ngắn gọn. Khi tôi dạy học ở Notre Dame vào những năm bảy mươi, có một linh mục trẻ trong lớp của tôi – một nhà nghiên cứu. Một buổi sáng nọ, đang khi đọc những trang cuối cùng của cuốn sách với nhan đề Cầu nguyện chiêm niệm của Thomas Merton, thì tôi phát hiện có điều gì đó ở đây. Vị linh mục trẻ ấy đã được lên lịch để hoàn thành chương trình của ngày hôm đó. Trước giờ học, cậu ấy đã đến hỏi tôi về việc đã từng đọc cuốn sách I Heard the Owl Call My Name này chưa. Tôi trả lời là chưa. Sau giờ học, cậu ấy bước đến gần và đưa cho tôi cuốn sách đó và nói: “Cảm ơn vì lớp học” và rời đi. Khi về lại phòng, tôi mở cuốn sách ra và thấy có dòng chữ được ghi trên đó. Cậu ấy viết, “Sáng nay tôi đã biết được rằng khi nghe Merton nói, chiêm niệm là nhà của người hành hương.” Tôi đã luôn ghi nhớ những lời này. Nhà không nhất thiết phải là một nơi. Nhà của người hành hương ở trong lòng chúng ta. Đó là Nazareth, một nơi chốn an lành. Hãy suy ngẫm về điều đó, khi Nazareth là nơi chúng ta ở, chúng ta có thể đi bất cứ nơi nào. Có một sự chuyển dịch ý nghĩa về nơi chốn tâm linh đang được phát triển trong thời đại của chúng ta. Một ai đó ở AI-Anon đã chia sẻ với tôi về điều đó khi có được cái nhìn tuyệt vời này. “Chương trình Mười hai bước là tu viện của thế giới.” Một sự chuyển dịch khởi đi từ nơi chốn sang con đường hiện hữu trong thế giới.
Đó cũng là những gì mà thánh Louise muốn nói với chúng ta. Nếu cách sống của chúng ta thuộc về Nazareth và Nước Trời, thì việc phân định sẽ trở nên dễ dàng và có trọng điểm. Ngược lại, khi không còn thuộc về, thì việc phân định sẽ trở nên khó khăn. Nazareth là nơi thích hợp để chúng ta có thể nhìn vào. Một người chỉ có được tầm nhìn tốt nhất khi đứng trên đỉnh núi chứ không phải thung lũng.
Hai phần tiếp theo đây là nói về thánh Vinh Sơn, một phần được trích từ văn bản của Abelly và phần còn lại được lấy từ Dodin. Con đường của thánh Vinh Sơn theo Abelly là một tiến trình; còn theo Dodin là thêm nội dung cho tiến trình.
Trong đoạn văn của Abelly mà chúng ta đã trích dẫn khi bắt đầu buổi nói chuyện sáng nay, nền tảng phân định của Vinh Sơn chính là sự dửng dưng, hoặc nói theo một cách khác, là sẵn sàng làm theo bất cứ điều gì mà Thiên Chúa muốn.
Có lần thánh Vinh Sơn từng viết cho thánh Louise: “Tôi cũng ghét sự không chắc chắn nhiều như chị, nhưng đối với chúng ta, điều thực sự quan trọng là quản lý cuộc đời mình bằng sự dửng dưng chứ không bởi sự căm ghét điều không chắc chắn, nhờ đó chúng ta có thể mở lòng ra với ý muốn của Thiên Chúa. Hãy cố gắng làm cho mình lớn lên trong sự dửng dưng.”
Trong phần lên kế hoạch chuẩn bị cho các cuộc nói chuyện, ban đào tạo và tôi đã nói về “sự dửng dưng” như một từ ngữ nghèo nàn trong tiếng Anh. Nó mang ý nghĩa tiêu cực và hàm ý của sự bất cần, đầu hàng, bị chà đạp, thụ động và phi nhân cách hóa. Vì vậy, chúng tôi đang tìm kiếm một từ khác để diễn tả về điều mà thánh Vinh Sơn muốn nói đến “sự dửng dưng”. Người Pháp có một từ tuyệt vời để mô tả về nó là disponibilite, nhưng chúng ta không thể tìm thấy được một từ tiếng Anh nào tương ứng với nó. Có một cách diễn tả khác để nói về nó “à votre service”, nghĩa là, “tôi là người phục vụ của bạn.” Cách nói này cũng chưa diễn tả hết được ý nghĩa và chúng có nghĩa là “tôi là tôi tớ của bạn”, “tôi là môn đệ của bạn”, “tôi là con gái hoặc con trai của bạn.” Đó là nội dung tích cực của “sự dửng dưng.” Tích cực, nó có nghĩa là “sẵn sàng” – để sẵn sàng, nhưng không chỉ là sẵn sàng. Có một tính từ đi kèm với nó – “sẵn sàng không giới hạn” – để luôn sẵn sàng thực thi những điều Chúa mời gọi. Khi Bernard Lonergan nói về tình yêu của Thiên Chúa, ông đã sử dụng cụm từ “tự nguyện vô điều kiện” để diễn đạt. Nó phải được mở rộng đến vô biên đối với sự hiện diện tròn đầy của Thiên Chúa, chứ không chỉ là một phần của nó. Chúng ta có thể thấy rằng, một thái độ như vậy là trung tâm cuộc sống của chúng ta. “Sẵn sàng không giới hạn”, không còn thuần túy đề cập đến kỹ thuật hay quy trình, nhưng chúng ta đang nói về chiều sâu nhất của nó. “Sẵn sàng không giới hạn” không những là đá tảng góc tường của sự phân định, mà nó còn là trái tim của con người chúng ta. Ơn gọi của chúng ta, con đường của chúng ta, là trở thành những người sẵn sàng không giới hạn. Chúng ta là những đầy tớ và là người môn đệ. Chúng ta luôn sẵn sàng. “Xin hãy làm cho tôi như những gì sứ thần nói.”
Có một câu chuyện mà chị Germaine Price đã kể cho tôi nghe vài năm trước chợt hiện ra trong đầu. Ở Burundi, có một cô bé muốn về nhà với các chị của mình, nhưng họ nói với cô bé rằng, cháu không thể về được. Tuy nhiên, cô bé nói, “Con sẵn sàng ngay đây”. Cô bé chạy đến nơi có chiếc váy nhỏ rồi mặc nó, quay trở lại và nói, “Con đã sẵn sàng, con đã sẵn sàng!”
Có một quan điểm muốn chúng ta tin rằng, sự sẵn sàng không giới hạn đang làm giảm giá trị của con người. Dĩ nhiên, đó là sự thật, rằng điều đó sẽ chống lại nhân vị tính của chúng ta nếu Thiên Chúa độc đoán. Nhưng sự sẵn sàng không giới hạn của chúng ta không hướng tới một Thiên Chúa độc đoán. Thánh Vinh Sơn và thánh Louise đã trao cho chúng ta món quà của sự hiểu biết, và chúng ta luôn sẵn sàng không giới hạn trong tương quan với Thiên Chúa Thiện Hảo. Thật đáng kinh ngạc, hai mươi năm sau cái chết của thánh Vinh Sơn, một vài người bạn và người quen của thánh nhân, cụ thể là vua Louis XIV và những người khác, đã xây dựng cung điện Versailles, như một sự đóng góp cho kỷ nguyên của thời đại Khai Sáng, mà trong thời đại đó, vị trí của Thiên Chúa không còn tồn tại. Kỷ nguyên Khai Sáng là thời đại toàn năng của con người. Thế nhưng, bất chấp sự tự tin vô hạn và nỗ lực hết mức của nhân loại, đau khổ vẫn còn tồn tại. Ai là người đáng trách? Đây không phải là thế giới của thánh Vinh Sơn cũng không phải Thiên Chúa của ngài. Thiên Chúa của thánh Vinh Sơn và Louise là Thiên Chúa Thiện Hảo.
Khi thánh Louise thực thi sứ vụ đầu đời của mình, thánh Vinh Sơn đã viết cho thánh nữ: “Thưa bà, bà hãy ra đi nhân danh Thiên Chúa chúng ta. Nguyện chúc cho sự thiện hảo thần linh luôn đồng hành cùng bà, là niềm an ủi trên cuộc hành trình, là bóng mát chống lại sức nóng và ánh nắng mặt trời, là nơi trú ẩn khi mưa gió và tiết lạnh, là chiếc giường mềm mại trong lúc mệt mỏi, là sức mạnh những khi vất vả, và là Đấng có thể mang lại sự khỏe mạnh và lấp đầy sự thiện hảo nơi bà.”[5]
Chủ đề của đoạn này là “Thiên Chúa Thiện Hảo”. Chúng ta luôn sẵn sàng không giới hạn khi đối diện với Thiên Chúa – Đấng là Thiên Chúa Thiện Hảo của chúng ta. Đó là Sao Bắc Đẩu của thánh Vinh Sơn và Louise, và của chúng ta nữa – Thiên Chúa Thiện Hảo. Chúng ta phải tin rằng, Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người nhiều hơn khi nhân loại chúng ta yêu. Nếu điều đó là sự thật, thì việc sẵn sàng không giới hạn trở thành dụng cụ tùy ý và cầu nối tình yêu của Ngài, không phải là một sự hy sinh gì to lớn.
Cách cụ thể, chúng ta cần tin rằng Thiên Chúa có thể dẫn đưa chúng ta và người khác đến sự sống tốt hơn khi chúng ta làm. Chẳng hạn, tham vấn và đối thoại là tốt và cần thiết. Đối thoại chắc chắn là bản chất của tương lai. Nhưng có hai điều mà chúng ta không thể hiểu rõ về tham vấn và đối thoại: (1) ai sẽ ở đó khi chúng ta đến, vì chúng ta không biết Thiên Chúa sẽ liệu định cho ai xuất hiện trong cuộc đời của chúng ta; và (2) biến cố nào sẽ xuất hiện khi chúng ta ở đó. Ngay cả khi chúng ta tham gia vào tiến trình phân định, những điều quan trọng nhất vẫn còn bị ẩn giấu trước mắt chúng ta – con người và biến cố. Thật vậy, chúng ta đi đến xác tín rằng, Thiên Chúa có thể dẫn đưa chúng ta và người khác đến sự sống tốt hơn khi chúng ta làm. Tôi nói điều này với niềm tin chắc chắn rằng, tiến trình tham vấn và đối thoại là điều hữu ích và cần thiết. Thế nhưng con người và biến cố luôn là một ẩn số của tương lai. Kinh nghiệm cho thấy rằng, đôi khi những vị khách không mong đợi nhất bước vào cuộc đời của chúng ta lại trở thành những phúc lành của chúng ta.
Sau “dửng dưng” hoặc “sẵn sàng vô hạn”, bước thứ hai là bước mà chúng ta thấy có ý nghĩa khi chúng ta nói về sự phân định. Đó là việc cân nhắc các dấu chỉ, ưu và nhược điểm, với một trái tim biết lắng nghe. Abelly, trong đoạn văn chúng ta đọc lúc đầu, có đúc kết các yếu tố này. Chúng ta cần suy ngẫm về động lực, mục đích và phương thế, và suy nghĩ về kết quả và hệ quả; những cân nhắc này liên quan đến các câu hỏi về thông tin, tầm nhìn, sự kiện và tính hữu ích; và sau cùng là thanh lọc các dấu chỉ nội tại và ngoại tại.
Bước thứ ba là tìm kiếm lời khuyên từ những người khôn ngoan. Đây cũng là nét đặc trưng của thánh Vinh Sơn. Trong hoàn cảnh tin cậy, hãy lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa ngang qua họ. Những gì tôi đang nói có một chút khác so với bản văn mà các chị đang cầm. Trong bản văn của Abelly có đề cập đến “tham khảo ý kiến của những người khôn ngoan” – ở số nhiều. Mọi thứ vẫn ổn khi tôi chỉ tham khảo một hoặc hai người, nhưng khi tham khảo ý kiến của bảy hoặc tám người thì tôi lại bị lạc lối. Thật hiếm khi họ cùng đồng thuận một ý. Sau đó, tôi phải đưa ra lựa chọn của mình! Tôi thực sự như đang trên biển và không thể quay lại nơi mà tôi có thể hỏi ý kiến bất cứ ai. Một người phụ nữ khôn ngoan hay người đàn ông khôn ngoan mà tôi tin tưởng vẫn là một trong những kho tàng quý giá nhất của tôi.
Đối với thánh Vinh Sơn, đó là Cha Andre Duval. Khi thánh Vinh Sơn thành lập Tu hội, ngài đã đến gặp cha Duval và trình bày các vấn đề nan giải của mình. Nó đã được diễn ra như sau: “Năm 1617, Bà Gondi đã trao cho tôi 45.000 livres và nhờ tôi tìm một Tu hội để làm đại phúc trong các lãnh địa của bà để cứu rỗi linh hồn của những người sinh sống ở đó. Tôi đã cố gắng trong bảy hoặc tám năm mà không thành công. Sức khỏe của bà Gondi đã yếu dần và mong muốn dự định này được thực hiện trước khi bà ấy qua đời, nhưng không có ai chịu đảm nhận. Tôi phải nói với cha một điều nữa rằng, trong khi chờ đợi, cha Portail, tôi và một vài người khác đã làm điều đó và tôi phải nói với cha một điều nữa rằng, Thiên Chúa đã chúc lành cho công việc của chúng tôi rất nhiều.”
Sau khi thánh Vinh Sơn đã trình bày tình trạng khó khăn của mình với cha Duval, thì ngài nói với cha Vinh Sơn: “Kinh Thánh nói cho chúng ta biết rằng, những ai nghe lời Chúa mà không để tâm thì sẽ nhận phải nhiều hình phạt.” Vinh Sơn đứng dậy khỏi cuộc trò chuyện, ngừng tìm kiếm một tu hội khác để thực hiện công việc đó và thành lập Tu Hội Truyền Giáo.
Đối với tiến trình sẵn sàng vô hạn, Andre Dodin bổ sung thêm vào nội dung phân định Vinh Sơn, sự thận trọng và cố vấn khôn ngoan. Đây là sự xem xét cuối cùng trong phân định Vinh Sơn.
Vào khoảng thời gian nghỉ phép năm 1987-1988, đang khi tìm hiểu linh đạo Vinh Sơn thì đã bị sốc khi đọc bản văn của Dodin, rằng những người tìm kiếm linh đạo Vinh Sơn là ngạo mạn! Dodin nói rằng, Vinh Sơn không phải là một linh đạo mà là một con đường thiêng liêng. Nó gồm ba điểm: kinh nghiệm, đức tin, và hành động; mà đá tảng góc tường của thánh Vinh Sơn là kinh nghiệm. Mẹ Suzanne Guillemin đã nói về điều đó có lẽ còn mạnh hơn cả thánh Vinh Sơn khi mẹ nói: “Thiên Chúa là các biến cố!” Chị Beatrice Brown đã giúp tôi biết về điều đó vào tuần trước, khi chị nói: “Chuyện gì đang xảy ra trong cuộc đời tôi?” Có lẽ, “các biến cố” có nghĩa là “hoàn cảnh”. “Hoàn cảnh, đó là Chúa!” Điều đó thực sự hữu ích. Hoàn cảnh! Các biến cố, hoàn cảnh trong cuộc đời tôi – đó là Chúa. Như vậy, căn tính nào là của thánh Vinh Sơn và Louise. Thiên Chúa ở đây! Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ luôn hiện hữu trong lịch sử và trong các mối tương quan. Đó là lý do tại sao người nghèo là chủ của chúng ta, Thiên Chúa ở đây. Đối với thánh Vinh Sơn, huyền nhiệm phân định là sự hiện hữu của Thiên Chúa nơi người nghèo; còn kinh nghiệm và hành động thì có tính ưu việt. Những hành động phát xuất từ tình yêu hình thành nên khung suy tư của thánh Vinh Sơn. Điều này cũng áp dụng đối với chúng ta. Chúng ta đang tiến vào tương lai và rồi suy nghĩ về nó. Chắc chắn rằng, kinh nghiệm là đá tảng góc tường của thánh Vinh Sơn. Ngài đưa kinh nghiệm vào đối thoại với Phúc âm, với thái độ và hành động của Chúa Giêsu và với mầu nhiệm của người nghèo. Bước hai trong phân định sau đó là cuộc đối thoại giữa biến cố kinh nghiệm và Phúc âm.
Bước thứ ba và sau cùng đối với thánh Vinh Sơn là sự khôn ngoan, nghĩa là hành động trong sự khôn ngoan. Việc chúng ta sử dụng từ “khôn ngoan” thường bao hàm sự thận trọng hơn là sự khôn ngoan thực hành. Vì vậy, có lẽ sẽ tốt hơn nếu chúng ta gọi bước này là sự khôn ngoan thực hành, hoặc, để kiến tạo sự khôn ngoan thần linh mang tính thực hành và có ý nghĩa rõ ràng. Đối với thánh Vinh Sơn, một hành động thực tế là một hành động phát xuất từ sự khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa. Thứ hai, một hành động là tốt khi nó bao trùm cả hai thái cực (tình yêu cảm tính và tình yêu thiết thực). Điều này đến với tôi như một bất ngờ lớn. Đối với thánh Vinh Sơn, hai thái cực đó mang lại sức mạnh. Ý hướng của tôi là để cho hai thái cực đó mở ra và tìm thấy con đường trung gian – chính là ở việc nắm bắt chúng lại với nhau và tạo ra năng lượng. Các chị có thể cảm nhận được năng lượng và sức mạnh đến từ nó. Yêu Chúa và yêu người lân cận. Hãy để cho tình yêu của các chị trở thành thiết thực và cảm tính. Thật không đủ để yêu Chúa nếu người anh em của tôi vẫn chưa yêu Chúa. Điều đó không đủ để nói rằng tình yêu của tôi là cảm tính và thiết thực. Hãy nắm lấy cả hai trong tương quan thiết lập trường động lực của năng lượng, qua đó, Chúa Thánh Thần thỏa sức sáng tạo đến vô tận. Thánh Vinh Sơn không phải là người đi con đường nửa vời. Đây không phải là nước đôi: nó hoàn toàn ngược lại. Năng lượng được tạo ra bằng cách nắm lấy cả hai thái cực. Chúng ta có thể tự hỏi mình là người giàu hay người nghèo? Liệu có con đường nào mà thánh Vinh Sơn dành cho người giàu và người nghèo không? Đó chính là con đường kết nối mà thánh Vinh Sơn theo đuổi. Và chúng ta theo đuổi sự chuyển đổi kết nối của người giàu với người nghèo.
Tiếp tục trong dòng suy tư này, có một từ mà chúng ta có thể sử dụng để mô tả ý nghĩa của Công giáo là gì? Tôi muốn đề nghị nó là từ “và”! Từ Công giáo vĩ đại là “và”. Công giáo có nghĩa bao gồm hơn là loại trừ một ai đó hoặc một cái gì đó. Con đường tuyệt vời của Công giáo là sự liên đới và hiệp thông, cá nhân và cộng đoàn, cộng đoàn và sứ vụ. Và là từ mang lại sức sống tuyệt vời cho thánh Vinh Sơn khi ngài nắm bắt lấy hai thái cực đó. Hãy khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như chim bồ câu.
Phương châm thứ ba và sau cùng của sự khôn ngoan thực hành của thánh Vinh Sơn là chúng ta phải luôn vững vàng về mục tiêu nhưng nhẹ nhàng và linh hoạt về phương tiện. Chúng ta cần biết chúng ta sẽ đi con đường nào, nhưng chúng ta không đi con đường đó tựa như chiếc xe tăng. Chúng ta chỉ cần đến đó như chúng ta có thể đến đó. Tất cả những điều này được ôm ấp bởi Thánh Linh và mầu nhiệm bác ái.
Chuyển ngữ: Lm Phêrô Phạm Minh Triều, CM và thầy Toma Thiện – Phạm Minh Ngọc
Từ: O’Donnell, Hugh C.M. (1994) “Vincentian Discernment,” Vincentian Heritage Journal: Vol. 15: Iss. 1, Article 2.
Tại: via.library.depaul.edu
Nguồn: vinhson.net (18.12.2021)
________
[1] Louis Abelly, The Life of the Venerable Servant of God Vincent de Paul Founder and First Superior General of the Congregation of the Mission (Divided into Three Books), trans. William Quinn, F.S.C., ed. John E. Rybolt, C.M., notes by Edward Udovic, C.M., and John E. Rybolt, C.M., intro. Stafford Poole, C.M. (New Rochelle, NY: 1993), 3:46; Saint Vincent de Paul: Correspondance, entretiens, documents, ed. Pierre Coste, CM., 14 vols. (Paris: 1920-1926), 12:436, n. 4.
[2] Disputed Questions, (New York: 1960), 136
[3] Vie Thorgren, “God is my God’: The Generative Integrity of Louise de Marillac,” Vincentian Heritage 12, no. 2 (1991):201-18.
[4] Louise de Marillac to Anne Hardemont, 20 December 1659, in Spiritual Writings of Louise de Marillac: Correspondence and Thoughts, ed. and trans. Louise Sullivan, D.C. (Brooklyn: New City Press, 1991), 660.
[5] Vincent de Paul to Louise de Marillac, 6 May 1629, in Saint Vincent de Paul: Correspondence, Conferences, Documents. I Correspondence, vol. 1 (1607-1639), newly translated, edited, and annotated from the 1920 edition of Pierre Coste, C.M., ed. Jacqueline Kilar, D.C., trans. Helen Marie Law, D.C., John Marie Poole, D.C., James R. King, C.M., Francis Germovnik, C.M., annotated John W. Carven, C.M., (Brooklyn: 1985), 64-65.