2022
Niềm vui của nhà truyền giáo
Niềm vui của nhà truyền giáo
Cha Rafael Marco Casamayor thuộc Hội Thừa sai châu Phi đã kể câu chuyện mà ngài được truyền cảm hứng khi đến thăm thành phố Gaya, Niger.
Trong một lần đến thăm trẻ em khuyết tật tại một trường Công giáo trong thành phố, cha Rafael đã vô cùng xúc động trước một bé gái khiếm thị đọc bài thơ có tựa đề “Ánh sáng ngày mai”. Cha quyết định dành vài tuần ở lại thành phố này. Cha đến thăm trường thường xuyên, và sau cuộc gặp gỡ với những người có trách nhiệm bên giáo dục, dự án CIES ra đời.
Dự án này nhằm mục đích giúp đỡ các trẻ em chịu nhiều thiệt thòi. Các tình nguyện viên, giáo viên… cùng nhau tìm nguồn hỗ trợ thực phẩm, quần áo, dụng cụ học tập và cả phương tiện di chuyển.
Cha Rafael còn phát hiện trong vùng có rất nhiều trẻ em bị khiếm thị do nhiễm giun chỉ từ những con sông, suối. Các em bị gia đình xa lánh, thậm chí nhốt trong nhà, không cho tiếp xúc với xã hội, và bị xem là nỗi ô nhục của gia đình.
Cha Rafael đã thuê một căn nhà để cho các em khiếm thị sống và học tập. Các em được học đọc và viết chữ nổi, các bài tập định hướng, tham gia trò chơi, học nhạc cụ… Cha Rafael chia sẻ, niềm vui chính là nhìn thấy những khó khăn đã vượt qua, những nỗ lực đã đạt được và giấc mơ của các em dần trở thành hiện thực.
Thiện Tâm
2022
Tiến trình tuyên phong chân phước và phong thánh thế nào ?
Tiến trình tuyên phong chân phước và phong thánh thế nào ?
Quảng trường Vatican (vaticannews)
Các thành viên của Giáo hội có thể đạt tới sự thánh thiện
Mọi tín hữu đều được mời gọi nên thánh (Lumen Gentium). Ngay từ ban đầu Giáo hội đã cảm thấy cần nhìn nhận những chứng tá gương mẫu và chính thức nhìn nhận sự trung thành của họ với sứ điệp Tin Mừng. Việc Giáo hội chính thức nhìn nhận sự thánh thiện của một cá nhân Kitô hữu là một truyền thống có từ lâu đời. Ngay từ những ngày đầu của Giáo hội, khi có tin loan truyền về một vị tử đạo nào đó, hay về một ai đó đã sống Tin Mừng cách gương mẫu, họ được đề nghị như gương mẫu sống cho mọi người và là người cầu bầu trước mặt Chúa cho nhu cầu của các tín hữu. Có những tiến trình theo giáo luật và quy luật trong việc tuyên bố rằng một người là một vị thánh. Nhưng điều chính yếu và căn bản đó là: Giáo hội luôn luôn tin rằng các thành viên của Giáo hội có thể đạt tới sự thánh thiện và họ phải được biết đến và được đề xướng cho các tín hữu tôn kính cách công khai.
“Danh tiếng về sự thánh thiện”
Theo tiến trình của việc tuyên phong chân phước và phong thánh cho Các Tôi Tớ Chúa, Bộ Phong Thánh hỗ trợ các giám mục trong quá trình điều tra liên quan đến việc tử đạo hoặc việc dâng hiến mạng sống và các phép lạ của một tín hữu Công giáo, những người mà khi còn sống, khi sắp qua đời và cả sau khi qua đời, được xem là thánh thiện, hoặc do tử đạo hoặc do hiến dâng cuộc sống của họ. Trong mọi trường hợp, điều cần thiết là họ luôn có một “danh tiếng về sự thánh thiện” đích thực, lan rộng và lâu dài, hoặc được cộng đoàn Kitô giáo tin rằng họ đã sống một cuộc sống toàn diện, đã thực thi nhân đức Kitô giáo và cuộc sống của họ đã sinh hoa trái thiêng liêng.
Công việc của tập thể
Đằng sau việc tuyên bố một vị thánh là một sự dấn thân tập thể làm việc cần mẫn kéo dài hàng năm, đôi khi hàng thập kỷ. Tiến trình phức tạp này đòi hỏi sự tham dự của nhiều người với những kỹ năng khác nhau. Được ban hành vào năm 1983, các tiêu chuẩn mới quy định về Phong Thánh đã rút ngắn đáng kể thời gian cần thiết cho một quy trình tuyên phong chân phước và phong thánh. Trong quá khứ, cần phải đợi 50 năm sau khi vị Tôi Tớ Chúa qua đời thì mới bắt đầu nghiên cứu về cuộc đời, các đức tính hoặc sự tử đạo của họ. Ngày nay thì khác. Tuy nhiên, thời gian của án phong chân phước hay phong thánh phụ thuộc vào nhiều yếu tố: một số là yếu tố nội tại (sự phức tạp của chính con người các vị, hoặc của giai đoạn lịch sử mà họ đã sống); những yếu tố khác thuộc ngoại tại (sự sẵn sàng, sự chuẩn bị hoặc sẵn sàng của những người làm việc cho từng án phong: thỉnh nguyện viên, cộng tác viên bên ngoài, nhân chứng, v.v.).
Những người tham gia
Mỗi án phong có số người tham gia khác nhau: các nhân chứng cung cấp lời khai trong các giai đoạn của giáo phận có thể lên đến vài chục. Ngoài ra còn có một số đông những người khác và các chuyên gia tham gia. Mỗi quy trình tuyên phong chân phước và phong thánh đều có các bước riêng: điều tra, lấy lời khai, soạn thảo Positio – tập hồ sơ đúc kết, việc kiểm tra được tiến hành bởi các cố vấn thần học, và tùy theo án phong, có thể có các nhà cố vấn lịch sử. Sau đó, cần có thời gian để tham khảo ý kiến của các chuyên gia y tế khi có thể có phép lạ chữa lành bệnh cần kiểm tra. Sau khi hoàn thành tất cả và mỗi bước đều được chấp thuận, hồ sơ sẽ được trình bày trước phiên họp của các thành viên của Bộ Phong thánh. Một khi toàn bộ quá trình đã được kết thúc, Đức Giáo hoàng là người đưa ra quyết định cuối cùng. Vị Tổng trưởng Bộ Phong thánh đệ trình các án phong khác nhau để ngài chấp thuận.
Thực sự có rất nhiều án phong (hiện tại, các án đang được tiến hành ở Roma là gần 1.500, trong khi các án đang ở cấp giáo phận là hơn 600). Không phải tất cả các án phong đều có kết quả tích cực. Điều này cho thấy sự nghiêm túc của quá trình này. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là những người không được đề nghị cho các tín hữu tôn kính không phải là những người gương mẫu về chứng tá cuộc sống của họ.
Con số đông đảo các vị thánh: Sức sống của Giáo hội ở mọi thời đại
Con số rất nhiều lễ tuyên phong thánh và phong chân phước được Bộ Phong thánh đề xướng là một dấu chỉ cho thấy sức sống của Giáo hội ở mọi thời đại. Trong 50 năm vừa qua, nhờ tiến trình đơn giản hơn nên số người được đề nghị cho các tín hữu tôn kính cũng gia tăng. Họ đến từ mọi châu lục và thuộc mọi thành phấn Dân Chúa. Những lợi ích thiêng liêng và mục vụ trong 50 năm kể từ khi thành lập Bộ Phong Thánh (1969) là rất đặc biệt: tính đến cuối năm 2020, có tổng số 3.003 vị được chân phước và 1.479 vị thánh.
Thông thường Bộ Phong Thánh có hai Phiên họp thường lệ mỗi tháng và bốn án phong được xem xét trong mỗi phiên. Do đó, ước tính số án phong được hoàn tất mỗi năm là từ 80 đến 90. Dữ liệu này và các dữ liệu khác có thể được truy cập tại trang web của Bộ Phong thánh (http://www.causesanti.va/it.html), nơi cung cấp cho mọi người quyền truy cập dễ dàng và đầy đủ vào tất cả thông tin về Bộ Phong thánh và tiến trình phong thánh. Cho đến nay, ngoài các tài liệu và ấn phẩm chính, trang web còn chứa hơn một ngàn mục về các vị chân phước và các vị thánh của bảy triều đại Giáo hoàng cuối cùng, được bổ sung với các hình ảnh, các trích dẫn, tiểu sử, bài giảng, liên kết bên ngoài và tài liệu truyền thông đa phương tiện.
“Nhà máy sản xuất thánh”
Có một thành ngữ vui để gọi Bộ Phong thánh, đó là “nhà máy sản xuất thánh”. Theo Đức Hồng y Semeraro, cách diễn đạt này thậm chí có thể phát huy tác dụng, nếu nó được hiểu theo nghĩa tích cực, nghĩa là đó là nơi mà mọi người làm việc để có được sự trình bày nghiêm túc và trung thực về những người đáng được đề nghị là gương mẫu của sự thánh thiện. Mặc dù số lượng ứng viên khá nhiều, nhưng điều này không làm giảm đi tính chính xác, sâu sắc và thẩm quyền của Bộ Phong thánh.
Tiến trình
Bắt đầu với “danh tiếng về sự thánh thiện và các dấu hiệu” được nhận biết bởi dân Chúa, cuộc điều tra bắt đầu với giai đoạn đầu tiên trong giáo phận (tiến trình mở án, chứng từ và tài liệu được thu thập, một tòa án được thành lập với các chuyên gia thần học và lịch sử). Một khi án phong được gửi đến Roma, một tường trình viên được chỉ định cho án phong, vị này sẽ hướng dẫn thỉnh nguyện viên chuẩn bị tài liệu tổng hợp các bằng chứng thu thập được trong giáo phận để tái tạo lại chính xác cuộc sống của và chứng minh các nhân đức hoặc sự tử đạo của vị được đề nghị tuyên phong cũng như danh tiếng về sự thánh thiện của họ và các dấu hiệu của sự thánh thiện của vị Tôi tớ Chúa. Đây là Positio. Tập sách này sau đó sẽ được nghiên cứu bởi một nhóm các nhà thần học và, trong trường hợp của “án cổ xưa” (liên quan đến một ứng cử viên sống cách đây rất lâu và không có nhân chứng), cũng sẽ được nghiên cứu bởi một Ủy ban Lịch sử. Nếu những phiếu này là phiếu thuận, hồ sơ sẽ được đệ trình lên cho các Hồng Y và Giám mục của Thánh bộ phán quyết tiếp theo. Cuối cùng, nếu những vị này cũng đồng thuận, thì Đức Thánh Cha có thể cho phép ban hành Sắc lệnh về các nhân đức anh hùng hoặc tử đạo hoặc việc dâng hiến mạng sống của Tôi tớ Chúa; vị này sau đó trở thành Đấng Đáng kính. Vị này được công nhận là đã thực thi các nhân đức Kitô giáo (nhân đức hướng thần: tin, cậy và mến; các nhân đức trụ: khôn ngoan, công bình, can đảm và tiết độ; những nhân đức khác: nghèo khó, khiết tịnh, vâng lời, khiêm tốn, v.v.) đến mức độ “anh hùng”, hoặc đã trải qua một cuộc tử đạo đích thực, hoặc đã hy sinh mạng sống của mình theo các yêu cầu mà Bộ Phong thánh đã nêu ra.
Phong chân phước là giai đoạn trung gian trong tiến trình phong thánh. Nếu ứng viên được tuyên bố là tử đạo, vị đó sẽ trở thành Chân phước ngay lập tức, nếu không thì cần phải có phép lạ được công nhận nhờ sự chuyển cầu của ngài. Nói chung, phép lạ này là một sự chữa lành được một Ủy ban Y tế gồm các bác sĩ chuyên khoa, cả những người tin và không tin, xác nhận là không thể giải thích được về mặt khoa học. Đầu tiên, các cố vấn thần học và sau đó là chính các Hồng y và Giám mục của Bộ Phong Thánh cũng tuyên bố về những phép lạ này và Đức Thánh Cha cho phép ban hành sắc lệnh liên quan đến phép lạ. Để được phong thánh, nghĩa là để một người có thể được tuyên bố là một vị thánh, thì phải có một phép lạ thứ hai xảy ra sau lễ phong chân phước và được cho là nhờ sự chuyển cầu hiệu quả của Chân phước.
Chi phí
Dưới nhiều khía cạnh khác nhau, một án phong chân phước là một quá trình phức tạp và chi tiết. Do đó, có những chi phí nhất định liên quan đến công việc của các ủy ban, việc in ấn tài liệu, các cuộc họp của các chuyên gia (lịch sử và thần học có nhiệm vụ nghiên cứu tài liệu hoặc các bác sĩ khi có phép lạ). Bộ Phong thánh luôn chú ý đến việc giới hạn các chi phí để yếu tố kinh tế có thể không là trở ngại cho sự tiến triển của các án phong. Theo nghĩa này, các quy tắc hành chính được Đức Thánh Cha phê chuẩn vào năm 2016 đảm bảo sự quản lý minh bạch và thường xuyên. Được tài trợ bằng nhiều cách khác nhau, một “Quỹ Liên đới” do Bộ quản lý đã được thành lập cho những án phong có ít nguồn lực hơn. Bộ cũng đang nghiên cứu các cách hỗ trợ khác. Chi phí của Toà Thánh dành cho công việc này trong năm 2021 là khoảng 2 triệu euro.
2022
Hiệp hành là lối sống của Hội Thánh
HIỆP HÀNH LÀ LỐI SỐNG CỦA HỘI THÁNH
Đức TGM Giuse Nguyễn Năng
Toàn thể Dân Chúa khắp nơi đang tích cực thực hiện tiến trình của Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới lần thứ 16 vào năm 2023, bắt đầu từ cấp giáo phận, với chủ đề : “Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành : hiệp thông – tham gia – sứ vụ”. Để đi đúng hướng và đạt kết quả như Đức Thánh Cha Phanxicô mong đợi, cần xác định những điều thiết yếu, kẻo chúng ta lạc đường vì loay hoay với chữ nghĩa, lý thuyết, hay kỹ thuật thực hiện, hoặc bị chi phối bởi những bận tâm thái quá.
- Hiệp hành là một lối sống
Synodos được dịch là “hiệp hành”, tức là đi trên cùng một con đường, theo một ý nghĩa cụ thể nhất và mạnh nhất.
Một biểu lộ cụ thể về hiệp hành, đó là đời sống hôn nhân. Hai vợ chồng không chỉ đồng hành với nhau, mà đi trên cùng một con đường, kết hợp mật thiết với nhau, chia vui sẻ buồn trong mọi biến cố (hiệp thông), cùng nhau bàn bạc và gánh vác bổn phận theo vai trò riêng là chồng hoặc là vợ (tham gia), thi hành sứ vụ trong gia đình và xã hội (sứ vụ).
Trên bình diện cứu độ, Con Thiên Chúa làm người để hiệp hành chứ không chỉ đồng hành với nhân loại. Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa luôn đồng hành với Dân của Người. 400 năm nô lệ bên Ai Cập hoặc 70 năm lưu đày tại Babylon, hay vào những giai đoạn đau thương trong lịch sử, có bao giờ Thiên Chúa bỏ rơi Dân mình! Người vẫn theo sát Dân, tuy nhiên có thể nói Người vẫn ở trên cao, chưa đi trên cùng một con đường với Dân, chưa nói bằng tiếng nói của con người. Khi tới thời viên mãn, Con Thiên Chúa đã hiệp hành, thực sự trở nên một con người, đi trên cùng một con đường với nhân loại, nói tiếng nói của con người, mang lấy những yếu đuối khổ đau như con người, thậm chí chết đau thương hơn cả con người.
Trong diễn văn với 4 ngàn đại biểu của giáo phận Roma ngày 18/9/2021, Đức Thánh Cha giải thích hiệp hành là lối sống và hành động của Hội Thánh: “Đề tài hiệp hành, synodalità, không phải là một chương trong khảo luận Giáo hội học, và càng không phải là một kiểu thời trang, một khẩu hiệu hay một từ ngữ mới cần sử dụng hoặc lèo lái trong các cuộc gặp gỡ của chúng ta. Không phải vậy, hiệp hành biểu lộ bản chất của Hội Thánh, là cách thức, lối sống và sứ mạng của Hội Thánh”.
Trong thánh lễ khai mạc Thượng Hội Đồng tại Roma ngày 10/10/2021, Đức Thánh Cha nói: “Lời Chúa hướng dẫn Thượng Hội Đồng, ngăn không cho nó trở thành một hội nghị của Hội Thánh, một cuộc nghiên cứu học hỏi hay một hội nghị chính trị, một quốc hội, nhưng đúng hơn là một sự kiện đầy ân sủng, một tiến trình chữa lành được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần”.
Các sinh hoạt trong giai đoạn chuẩn bị hoặc trong chính Thượng Hội Đồng không phải chỉ là một hội nghị bàn về chủ đề hiệp hành, nhưng thực chất là một bài tập thực hành để mọi thành phần Dân Chúa thực hiện lối sống hiệp hành.
Từ ngữ có thể là mới mẻ khó hiểu, nhưng đừng quên rằng sau từ “hiệp hành”, có hai chấm (:), nghĩa là dù không hiểu hết nội dung của từ “hiệp hành”, chỉ cần thực hiện được ba nội dung: hiệp thông, tham gia và sứ vụ, thì đã là đạt được mục tiêu rồi. Vì “hiệp hành” mang ý nghĩa như trên, nên ta hiểu tại sao không dịch là “đồng hành”, hoặc “đồng nghị”, quen thuộc và dễ hiểu hơn. Trong ngôn ngữ hiện nay, “đồng hành” (accompaniment) là cùng đi với nhau, nhưng có thể là không đi trên cùng một con đường: người ta có thể đồng hành online với một người ở xa. Còn “đồng nghị” lại nhấn mạnh tới việc cùng nhau thảo luận để đưa ra quyết định, chứ không nói tới chia sẻ cùng một sự sống.
- Lối sống hiệp hành trong Hội Thánh
Khi kêu gọi thực hiện lối sống hiệp hành, Đức Thánh Cha không làm gì khác hơn là triển khai Giáo hội học hiệp thông của Công đồng Vaticanô II, và sâu xa hơn, đó là đạo lý về Hội Thánh như một thân thể đã được thánh Phaolô diễn giải trong thư II Corintô.
Lối sống hiệp hành
Lối sống hiệp hành trong Hội Thánh được nêu lên ngay trong chủ đề của Thượng Hội Đồng : hiệp thông – tham gia – sứ vụ.
(1) Hiệp thông
“Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người… Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12, 4-6.12-13).
Tất cả mọi Kitô hữu, dù nhiều và đa dạng, nhưng hiệp thông sâu xa với nhau vì có chung một sự sống thần linh và làm nên một Hội Thánh duy nhất. Tất cả mọi Kitô hữu, do việc lãnh nhận bí tích rửa tội, dù là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân, khác nhau về chức năng, nhưng xét về phẩm giá thì tất cả đều bình đẳng (x. LG 32). Để có sự hiệp thông, luôn phải giữ hai điều: tôn trọng sự khác biệt và duy trì hợp nhất. Sự hiệp thông là phẩm tính thiết yếu và là tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá mọi sinh hoạt trong Hội Thánh.
(2) Tham gia
“Chân không thể nói: “Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể”. Tai không thể nói: “Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể”. Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi? Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. Vậy mắt không thể bảo tay: “Tao không cần đến mày”; đầu cũng không thể bảo hai chân: “Tao không cần chúng mày” (1Cr 12, 15-21).
Một thân thể triển nở khỏe mạnh khi mọi chi thể hoạt động theo đúng chức năng của mình trong sự hài hòa của toàn thân. Tất cả mọi Kitô hữu đều có quyền và bổn phận tham gia vào sự tăng trưởng của Hội Thánh, tùy theo chức năng và đặc sủng Chúa ban cho mình, làm đúng và làm tròn vai trò của mình, đồng thời luôn tôn trọng vai trò của người khác. Trong Hội Thánh, không ai được thụ động hay dửng dưng; không ai là độc quyền; không ai bị loại trừ; không ai được coi thường vai trò của người khác, dù đó là một chi thể bé mọn nhất.
(3) Sứ vụ
“Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ” (1Cr 12, 7-10).
Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người một đặc sủng là để thi hành sứ vụ xây dựng Hội Thánh và Phúc Âm hóa thế giới. Sứ vụ trong Hội Thánh thì nhiều: rao giảng, thánh hóa, phục vụ, quản trị…, tùy theo Chúa Thánh Thần hoạt động nơi từng người, theo ơn gọi riêng và cách thế riêng của người ấy.
Ba việc cần làm
Để có được lối sống hiệp hành như thế, cần làm ba việc như Đức Kitô phục sinh đã làm đối với hai môn đệ trên đường Emmaus (x. Lc 24, 13-35). Ngài đã đến gặp gỡ và cùng đi với họ trên cùng một con đường. Chính Ngài gợi chuyện và lắng nghe tâm tư buồn phiền thất vọng của họ, sau đó Ngài cùng với họ đọc lại Kinh Thánh để phân định kế hoạch của Thiên Chúa. Sau khi nhận ra Chúa Phục sinh qua việc bẻ bánh, lòng họ đã bừng cháy, họ đổi chiều để đi ngược lại con đường vừa đi và trở về Giêrusalem loan báo Tin Mừng Phục sinh cho các Tông đồ. (x. Đức Kitô đang sống, ss. 236-237).
Trong bài giảng khai mạc Thượng Hội Đồng (10/10/2021), Đức Thánh Cha chỉ rõ có 3 việc cần làm:
(1) Gặp gỡ trực tiếp
Cần gặp gỡ trực tiếp, mặt đối mặt, nhìn vào nhau và chia sẻ lịch sử của cuộc đời từng người. Cuộc đời của ai đó có thể thay đổi chỉ bằng một cuộc gặp gỡ. Đức Giêsu đã không vội vã hoặc nhìn vào đồng hồ để kết thúc buổi họp. Cần dành thời gian cho việc gặp Chúa và gặp anh chị em, chứ đừng tập trung quá nhiều cho việc tổ chức các sự kiện hoặc suy tư lý thuyết về các vấn đề. Chúa muốn chúng ta từ bỏ những thói quen cũ. Mọi thứ sẽ thay đổi khi chúng ta có thể gặp gỡ Chúa và gặp gỡ nhau cách chân thành, không hình thức giả tạo, không tính toán, nhưng bằng con người thật của chúng ta.
(2) Lắng nghe
Để thực sự là cuộc gặp gỡ, cần biết lắng nghe. Đức Giêsu đã lắng nghe bằng con tim, với thái độ bình tĩnh và kiên nhẫn, chấp nhận mất thời gian, không vội đưa ra giải pháp có sẵn, chung chung. Chúng ta cần lắng nghe Chúa và lắng nghe nhau, đừng đóng cửa. Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, – tất cả những người đã được rửa tội –, mỗi người đều có quyền nói và cũng có bổn phận lắng nghe. Tránh những phản ứng giả tạo, nông cạn và đưa ra những giải đáp được đóng gói sẵn. Chúa Thánh Thần yêu cầu chúng ta lắng nghe những thắc mắc, mối quan tâm và hy vọng của mọi thành phần Hội Thánh, của mọi người, mọi quốc gia, của thế giới.
(3) Phân định
Gặp gỡ và lắng nghe, nhưng không kết thúc ở đó và để lại mọi thứ như trước. Mọi sự phải được thay đổi. Lời Chúa soi sáng tận thâm tâm để mỗi người nhìn vào bên trong và khám phá ý định của Thiên Chúa về cuộc đời mình. Một người có thể nói ra những bức xúc hay những tổn thương trong tâm hồn, nhưng không phải để chấm dứt với những cay đắng giận hờn; trái lại, sau đó cần được Lời Chúa soi chiếu để bước sang một giai đoạn mới. Thượng Hội Đồng phải là một tiến trình của sự phân định thiêng liêng, một sự phân định mang chiều kích Hội Thánh, được thực hiện trong cầu nguyện và đối thoại với Lời Chúa. Không thể có hiệp hành nếu không có cầu nguyện và bầu khí thiêng liêng.
- Tâm thế để thực hiện lối sống hiệp hành
Cần nhắc lại một lần nữa rằng tiến trình chuẩn bị cũng như giai đoạn cử hành Thượng Hội Đồng không phải là một hội nghị chính trị hay tâm lý xã hội, cũng không phải là một cuộc nghiên cứu học hỏi, hay một tòa án pháp lý hoặc một thứ quốc hội, mà là một cuộc gặp gỡ để lắng nghe Chúa và lắng nghe nhau, rồi cùng nhau phân định dưới ánh sáng Lời Chúa và tác động của Chúa Thánh Thần.
Vì thế, để việc thực hiện lối sống hiệp hành đem lại hiệu quả, cần chuẩn bị tâm thế thích hợp.
(1) Cảm thức Hội Thánh (sensus Ecclesiae)
Cần khơi dậy cảm thức Hội Thánh để mọi thành phần Dân Chúa tích cực tham gia tiến trình. Phải thành thật nhìn nhận rằng cảm thức Hội Thánh nơi nhiều người còn yếu kém, mờ nhạt. Những người giữ nhiệm vụ điều hành các cộng đoàn, đặc biệt các linh mục, bề trên, trưởng nhóm…, có bổn phận thúc đẩy mọi người tham gia tiến trình hiệp hành; và ngược lại, các thành viên hãy nhiệt tình hưởng ứng. Đừng theo kiểu làm cho có, làm một cách hình thức chiếu lệ, hoặc thậm chí không làm gì cả.
Tiến trình hiệp hành là con đường bắt buộc đối với Hội Thánh hôm nay. Nếu không sống hiệp thông và cùng nhau tham gia thi hành sứ vụ, Hội Thánh sẽ rất yếu vì không huy động được tổng lực cho công cuộc Phúc Âm hóa thế giới. Không thể cứ mãi an phận với thứ “mục vụ bảo tồn” lâu đời mà không dám “hoán cải mục vụ” (Niềm vui Tin Mừng, ss. 25- 27) để nhiệt tình dấn thân cho sứ vụ. Không thể cứ khư khư bảo vệ cơ chế và duy trì não trạng cũ kỹ để dửng dưng đứng ngoài cuộc.
Nếu Hội Thánh không chuyển sang lối sống hiệp hành, uy tín của Hội Thánh sẽ ngày càng suy giảm. Có biết bao nhiêu người bé mọn và khổ đau, những anh chị em đứng ở ngoại biên, những người đang bước đi giữa đêm đen cuộc đời. Họ đã không được lắng nghe, không cảm thấy Hội Thánh là nhà của mình, không tìm thấy nơi Hội Thánh một sự cảm thông nâng đỡ, một bàn tay cứu giúp, nên đã thất vọng về Hội Thánh. Vì Hội Thánh không quan tâm tới họ, nên họ đã rời bỏ Hội Thánh mà đi ra. Nếu không hiệp hành với họ, Hội Thánh sẽ không còn đáng tin nữa.
(2) Tinh thần rộng mở và bao gồm
Rộng mở là không khép kín co cụm; bao gồm là không loại trừ, cực đoan, nhưng tích hợp và ôm trọn tất cả. Thái độ tinh thần cần được mở rộng để không bị đóng khung trong định kiến cá nhân cũng như không bị giới hạn trong một quan niệm thần học thiên lệch. Cần giữ sự quân bình.
Chẳng hạn, kiến tạo Hội Thánh hiệp thông hay hiệp hành không có nghĩa là loại trừ cơ chế phẩm trật do chính Đức Kitô thiết lập; hoặc loại trừ não trạng giáo sĩ trị không có nghĩa là giáo dân sẽ thay thế giáo sĩ. Chính vì muốn loại bỏ cả óc giáo sĩ trị lẫn óc giáo dân trị mà Hội Thánh cần theo lối sống hiệp hành. Cũng thế, trong cộng đoàn, không được quyền loại trừ nhau, nhưng tôn trọng sự khác biệt, ôm ấp cả những người đối kháng, lắng nghe cả những tiếng nói khác mình. Người đứng đầu đừng để tiếng nói của mình ngăn chặn tiếng nói của các thành viên, đừng tạo ra bức tường cách âm.
(3) Sự thật trong đức ái
Một nguyên tắc lớn được thánh Phaolô đưa ra cho việc xây dựng Hội Thánh là “sống theo sự thật và trong tình bác ái” (Ep 4, 15). Đức Kitô vừa là sự thật vừa là tình yêu. Nếu chỉ dừng lại ở sự thật, cuộc gặp gỡ sẽ biến thành tòa án. Nếu chỉ có bao dung thương xót, sẽ không thể canh tân Hội Thánh.
Hội Thánh đang phải đối diện với những sự thật đau thương, không thể tránh né. Hãy dám nhìn vào sự thật, dám nghe sự thật. Đừng vội biện minh để làm giảm sự thật, nhất là những sự thật đau lòng từ các thừa tác viên. Mọi hào quang phải được hạ xuống để sự thật giải thoát chúng ta, để sự thật đổi mới Hội Thánh, để Hội Thánh lấy lại uy tín.
Đàng khác, cuộc gặp gỡ của tiến trình hiệp hành cần được diễn ra trong tâm trạng thanh thản. Cả người nói lẫn người nghe cần làm chủ những cảm xúc của bản thân. Cảm tính có thể làm méo mó sự thật. Có những bức xúc chính đáng, những tổn thương đau đớn, nhưng hiệp hành không phải là lúc xả những phẫn uất bực bội hay tố giác lên án nhau, mà là cơ hội mọi người nhìn vào sự thật để Chúa Thánh Thần chữa lành và canh tân Hội Thánh. Đừng để lòng khát vọng một Hội Thánh thánh thiện biến trái tim thành cứng cỏi, bất khoan dung, mất kiên nhẫn, đòi nhổ cỏ lùng ngay tức khắc; trái lại, cần chấp nhận thời gian để hạt cải lớn lên, kiên nhẫn chờ đợi như Chúa từng kiên nhẫn chờ đợi bản thân ta hoán cải. Cuộc gặp gỡ hiệp hành không nhằm đưa ra câu trả lời để giải quyết các vấn đề ngay trong chốc lát, nhưng là để Chúa soi chiếu và lay động tâm hồn mỗi người.
Để có được tâm thế của sự thật và đức ái, cần có lòng khiêm tốn thẳm sâu. Mỗi người đều là tội nhân. Ta thấy cái rác trong mắt người khác, nhưng lại quên cái xà to lớn trong mắt ta. Lòng khiêm tốn giúp mỗi người gặp gỡ và lắng nghe nhau trong kiên nhẫn, với tâm thế nhẹ nhàng, thanh thản, bình an.
Hai năm sắp tới là thời gian của ân sủng để Hội Thánh thực tập sống hiệp hành. Ngạn ngữ Pháp có câu: chính lúc đang thực tập rèn là ta trở thành thợ rèn (“C’est en forgeant qu’on devient forgeron“). Nhờ tập sống hiệp hành, chúng ta sẽ trở thành một Hội Thánh hiệp hành.
Nào, chúng ta cất bước lên đường.
+ G. Nguyễn Năng
2022
Yêu thương cho đến cùng: Thần học về bệnh suy giảm trí nhớ
YÊU THƯƠNG CHO ĐẾN CÙNG: THẦN HỌC VỀ BỆNH SUY GIẢM TRÍ NHỚ
Tác giả: Xavier Symons
– Cách này hay cách khác, bệnh suy giảm trí nhớ đã ảnh hưởng đến cuộc sống của hầu hết chúng ta. Thật đau lòng khi chứng kiến người mình quen biết, yêu thương cứ hao mòn đi vì chứng bệnh này. Đó là chưa kể đến nỗi đau tinh thần mà bản thân người mắc bệnh này thường phải trải qua. Tuy vậy, những lúc đó họ vẫn ở “với chúng ta” ngay cả khi họ đã mất khả năng giao tiếp.
Thần học có thể nói gì về bệnh suy giảm trí nhớ? Ở mức độ nào đó, chứng bệnh đang tiến triển này, kèm với sự mất dần nhận thức về bản thân, luôn là một ẩn số. Tuy nhiên, chìa khóa trả lời các câu hỏi hiện sinh về mối liên hệ giữa ý thức, trí nhớ và kinh nghiệm của chúng ta về Thiên Chúa có lẽ nằm nơi thuyết nhân vị Kitô giáo.
Tìm hiểu bệnh suy giảm trí nhớ
Suy giảm trí nhớ là một thuật ngữ dùng để mô tả một số bệnh ảnh hưởng đến não và khả năng thực hiện các công việc hàng ngày của một người. Các dạng suy giảm trí nhớ phổ biến bao gồm bệnh Alzheimer, bệnh Parkinson và một số dạng bệnh đa xơ cứng. Hơn 6 triệu người Mỹ và 400.000 người Úc mắc phải một dạng suy giảm trí nhớ nào đó.
Sự hiểu biết chung về bệnh suy giảm trí nhớ đang được cải thiện qua từng thế hệ. Trong những năm gần đây, một số bộ phim được giới phê bình đánh giá cao vì đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về thực tế cuộc sống của những người mắc bệnh suy giảm trí nhớ, như Nebraska (2013), Still Alice (2019) hay The Father (2020). Tuy nhiên, sự kỳ thị [về căn bệnh này] vẫn còn. Bạn vẫn nghe gọi những người bệnh suy giảm trí nhớ là bị điên, bị tâm thần.
Về sự phổ biến và nghiêm trọng của bệnh suy giảm trí nhớ, có rất ít suy tư thần học về sự phổ biến và nghiêm trọng của bệnh này trong những năm gần đây. Rất ít sách và chỉ một số nhỏ các bài báo chuyên ngành đề cập trực tiếp đến ý nghĩa của bệnh đối với mối tương quan giữa một tâm hồn với Thiên Chúa. Sự khan hiếm những chỉ dẫn thần học và mục vụ này có thể đưa đến một ấn tượng sai lầm rằng, bệnh suy giảm trí nhớ là một dạng của cái chết tâm linh và xã hội.
Thuyết nhân vị Kitô giáo
Thuyết nhân vị là một trường phái suy luận triết học và thần học tập chú đến tính độc nhất vô hạn và chiều sâu của mỗi con người. Trong thế kỷ qua, những vị như Dorothy Day, Gabriel Marcel, Martin Luther King, và Karol Wojtyla (Giáo hoàng Gioan Phaolô II sau này) được cho là theo thuyết nhân vị; tuy nhiên, phong trào này vẫn chưa được biết đến nhiều ngoài phạm vi thần học Kitô giáo. David Brooks – một nhà bình luận của tờ New York Times viết, thuyết nhân vị bắt đầu bằng cách vẽ ra ranh giới giữa con người và những loài vật khác:
Con chó của bạn thì tuyệt, nhưng mỗi phẩm tính người mang một chiều sâu, độ phức tạp và phong phú vượt trội, khiến con người ấy có phẩm giá độc đáo và vô hạn. Những người theo thuyết nhân vị tin rằng con người là “một tổng thể mở”. Họ tìm thấy sự viên mãn của chính mình trong sự hiệp thông với những nhân vị toàn vẹn khác. Những câu hỏi quan trọng trong cuộc sống không phải là về “cái gì” – tôi phải làm “cái gì”? Mà là những câu hỏi về “ai” – tôi theo “ai”, tôi phục vụ “ai”, tôi yêu “ai”?
Điều quan trọng đối với người theo thuyết nhân vị không phải là tài năng, năng suất hay thành công của một người, mà đúng hơn là những gì họ cam kết nơi thâm tâm của họ.
Có lẽ, Đức Karol Wojtyla là người theo thuyết nhân vị nổi tiếng nhất. Trong tác phẩm Love and Responsibility (Tình Yêu và Trách Nhiệm), Wojtyla viết “con người là duy nhất, độc đáo và không thể trùng lặp, họ được nghĩ tới và được chọn từ muôn đời, được mời gọi và xác định đích danh”. Nói cách khác, mỗi người đều có một căn tính khiến họ trở nên độc đáo và tách biệt như một con người trong mắt Thiên Chúa. Con người đặc biệt vì chúng không thể bị trùng lặp, có khả năng tiếp nhận và trao ban tình yêu thương. Wojtyla lập luận rằng, tiếng gọi và nguồn gốc nền tảng cho sự viên mãn của con người là trao phó bản thân cho Thiên Chúa và yêu thương tha nhân: “con người là một loại thực thể mà tình yêu là cách thế duy nhất vừa thích hợp vừa tương xứng để nối kết lẫn nhau”. Nói cách khác, yêu thương chính là chức năng để xác định con người.
Quan trọng là, yêu thương không phải là thứ tình cảm nhất thời. Đối với người theo thuyết nhân vị, yêu thương là cam kết với ai bằng chính thâm tâm con người mình. Điều này được thể hiện qua một cuộc đời phục vụ và hy sinh cho những người thân yêu, cũng như trung thành với những lý tưởng làm nên con người bạn. Điều này cũng giúp làm rõ tại sao chủ đề trung thành lại xuất hiện rất nhiều trong cuộc đời và sự nghiệp của Wojtyla hay những người khác theo thuyết nhân vị.
Thần học nhân vị về bệnh suy giảm trí nhớ
Bằng cách nào thuyết nhân vị có thể giúp chúng ta hiểu về bệnh suy giảm trí nhớ? Một trong những thách thức lớn nhất gắn liền với bệnh suy giảm trí nhớ là sự kỳ thị của xã hội. Đó là ý tưởng cho rằng, những người mắc bệnh suy giảm trí nhớ không còn có địa vị lẫn phẩm giá của con người. Triết học duy lý và duy nghiệm hiện đại liên kết con người với ý thức, điều đó dễ dàng nhận thấy qua khái niệm Cogito (Tôi suy tư) của Rene Descartes hoặc khảo luận của John Locke khi xem con người như là “một hữu thể trí tuệ biết tư duy, có lý tính và suy tư cũng như có thể tự nhận biết chính mình”. Những triết lý này chủ trương rằng, khi một người mất ý thức và trí nhớ, họ cũng mất đi địa vị con người.
Tuy nhiên, thuyết nhân vị cho rằng bản chất của địa vị con người sâu xa hơn ý thức rất nhiều. Điều làm nên đặc tính người không phải là những trạng thái tinh thần, nhưng đúng hơn là năng lực yêu thương, tạo tương quan và trao ban bản thân. Tình yêu được phản ánh nơi thiên hướng tâm hồn của mỗi người – thành quả của một đời đấu tranh tinh thần hơn là một hành vi nhận thức riêng biệt hay một ý tưởng nào đó trong tâm trí.
Nhìn từ góc độ này, những người mắc bệnh suy giảm trí nhớ vẫn có khả năng có mối tương quan quà tặng – trao ban quà tặng tình yêu – đó là chức năng để xác định một con người. Dù suy giảm khả năng nhận thức, họ vẫn có thể trao ban bản thân cho người khác và cho Thiên Chúa.
Thật vậy, giống như con người, bệnh suy giảm trí nhớ là một hiện tượng bí ẩn, bằng chứng là những người mắc bệnh nghiêm trọng cũng có những lúc minh mẫn và quan tâm vô vị lợi đến người khác mà không thể giải thích được. Các nghiên cứu đã ghi lại cách những người mắc bệnh suy giảm trí nhớ nghiêm trọng đã quan tâm lại những người chăm sóc họ. Khi bệnh nhân được đối xử cách tôn trọng với sự ân cần, trìu mến và bằng những cách thức giao tiếp không lời, họ sẽ đáp lại những cử chỉ này qua nụ cười, sự đụng chạm hay đơn giản là sẵn sàng hợp tác vì họ nhận ra người chăm sóc họ là một con người.
Những người mắc bệnh suy giảm trí nhớ cũng giữ được sự nhạy bén về tâm linh ngay cả khi các chức năng nhận thức và điều hành khác đã suy giảm. Một nghiên cứu định tính năm 2013 trên tạp chí Nursing Ethics mô tả tầm quan trọng của việc cầu nguyện và lập đi lập lại lời kinh đối với sức khỏe tinh thần của bệnh nhân suy giảm trí nhớ. Nghiên cứu mô tả một bệnh nhân luôn kết thúc ngày sống bằng việc cầu nguyện và hát thánh ca với nhân viên. Ngiên cứu này cũng nêu ra một trường hợp đáng chú ý, đó là một bệnh nhân đã được ban phép lành khi đang hấp hối và sau đó, anh khăng khăng rằng nhân viên chăm sóc cho anh cũng nhận được sự chúc lành này.
Thật vậy, sách vở xác nhận mối liên hệ chặt chẽ giữa tâm linh và bản sắc riêng biệt cá nhân. Một nghiên cứu năm 2003 đã khám phá đời sống tâm linh của những người suy giảm trí nhớ thông qua 28 cuộc phỏng vấn không hoàn toàn sắp xếp sẵn. Một người tham gia phỏng vấn nói rằng, tư cách đạo đức và các mối tương quan của họ đã phong phú hơn nhờ trải nghiệm bệnh suy giảm trí nhớ:
Tôi kết luận rằng mọi thứ đều có mục đích; Đức Chúa nhân lành biết điều gì là tốt nhất cho chúng ta. Có lẽ chứng bệnh này là để tôi sống chậm lại mà tận hưởng cuộc sống, vui với gia đình và những gì bên ngoài. Và ngay bây giờ, tôi có thể nói rằng tôi là một người khá hơn đối với chứng bệnh này.
Những suy tư như vậy xác nhận rằng những người trải nghiệm bệnh suy giảm trí nhớ thực sự vẫn là con người và là những hữu thể tâm linh sâu sắc dẫu phải chịu những ảnh hưởng của việc suy giảm nhận thức. Thật vậy, nhân vị được phong phú hơn nhờ sự chú tâm hiện sinh mà bệnh tật đưa vào cuộc sống con người.
Bệnh suy giảm trí nhớ và Chúa Ba Ngôi
Nhưng những người đang trải nghiệm các dạng suy giảm trí nhớ nghiêm trọng nhất thì sao? Những người mắc “bệnh suy giảm trí nhớ giai đoạn cuối” thậm chí không thể nhận ra nét mặt hay phản ứng lại trước một cái chạm nhẹ hoặc âu yếm. Những người trong tình trạng như vậy có thực sự đã đánh mất địa vị con người và sự gắn kết với Thiên Chúa không?
Các học giả lập luận rằng “không”. Hai đóng góp tương đối gần đây vào văn phẩm thần học về bệnh suy giảm trí nhớ làm nổi bật mối tương quan giữa những người mắc chứng bệnh này và Chúa Ba Ngôi (Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – hiệp nhất nhờ tình yêu) theo cách mà chúng ta cảm nhận được ý nghĩa và giá trị cuộc sống của những người mắc bệnh suy giảm trí nhớ giai đoạn cuối.
Cuốn sách xuất bản năm 2012 của John Swinton: Dementia: Living In the Memories of God (Bệnh suy giảm trí nhớ: Sống trong ký ức của Thiên Chúa) giúp phát triển một thần học thực tiễn về bệnh suy giảm trí nhớ khi ông khảo sát hai câu hỏi chính: “Tôi là ai khi tôi quên mất mình là ai?”, và “Yêu Chúa và được Chúa yêu có ý nghĩa là gì khi tôi quên mất Chúa là ai?” Swinton rút ra một phép loại suy từ Chúa Ba Ngôi, xét như “được cấu thành bởi tương quan”, để đưa vào quan điểm xem con người cũng được cấu thành như vậy. Ông lập luận rằng, điều này không nhấn mạnh đến sự tự nhận thức cá nhân, nhưng định vị nhân tính của một người trong cộng đồng mà họ thuộc về. Bằng cách tái định nghĩa bệnh suy giảm trí nhớ dưới ánh sáng của câu chuyện tương phản có sức biến đổi, là Tin mừng, Swinton có thể đưa ra lời giải thích cảm động nhưng mạnh mẽ về lý do tại sao những người đã suy giảm trí nhớ nặng vẫn nên được đối xử như những nhân vị và tâm hồn có sự kết hiệp sâu xa cùng Đức Kitô.
Tương tự, Peter Kevern cố gắng định hình lại sự hiểu biết của chúng ta về bệnh suy giảm trí nhớ bằng cách mô tả chứng bệnh như phương thức độc đáo để tham dự vào thập giá Đức Kitô. Trong bài viết “Sharing the Mind of Christ” (Chia sẻ tâm trí Đức Kitô), Kevern lập luận rằng, Đức Kitô “đã suy giảm trí nhớ” trên thập giá, và như thế đã kết hợp với nỗi đau của những người mắc bệnh này.
Điều đó có nghĩa là, Đức Kitô chịu đóng đinh đã trải qua sự mất nhận thức, theo đó “Ngài chỉ có thể hoạt động chút ít về tinh thần, lờ mờ nhận thức môi trường xung quanh, sứ mạng và bản thân”. Ít nhất, Đức Kitô đã “mê man” và “có vẻ như trong những phút cuối đời trên thập giá, Ngài đã không còn nhận thức đầy đủ.” Kevern viết, Đức Kitô suy giảm trí nhớ “đã liên đới với những người suy giảm trí nhớ, hôn mê và thiểu năng trí tuệ”. Ông khẳng định: “Thế giới của những người suy giảm trí nhớ không phải là một vùng phi-ân-sủng”.
Kevern cũng lập luận rằng con người không được định nghĩa bằng việc biết tự nhận thức, nhưng đúng hơn bằng “câu chuyện của cả cuộc đời” và những lựa chọn được thực hiện trong suốt cuộc sống. Trong trường hợp Đức Kitô, chúng ta không cần quá nhấn mạnh đến hành vi tự hiến hoàn toàn tỉnh táo và đầy đủ ý thức của Ngài cho đến giây phút cuối cùng trên thập giá. Đúng hơn, việc cứu chuộc kéo dài suốt cả cuộc đời Đức Kitô và tiếp tục bên kia nấm mồ. Với quan niệm như thế, Kevern lập luận rằng:
Ngay cả khi một Kitô hữu suy giảm trí nhớ mất đi khả năng tự nhận thức đến mức không còn bất kỳ ký ức nào về việc từng có đức tin, thì việc họ là sự nối dài mang tính lịch đại và nhân quả của người đã từng nhận thức mình có đức tin, cũng đủ tạo tin tưởng về tình trạng của họ trước mặt Thiên Chúa.
Nói cách khác, việc thiếu khả năng tự nhận thức của những người mắc bệnh suy giảm trí nhớ không được xem là gây tổn hại đến mối tương quan của họ với Thiên Chúa. Đúng hơn, họ vẫn có thể kết hợp mật thiết với Đức Kitô nếu thiên hướng nền tảng của cuộc đời họ là hướng về Thiên Chúa. Điều này chắc chắn khác xa với ý tưởng cho rằng, những người mắc bệnh suy giảm trí nhớ nặng thì “đã chết về mặt tâm linh”.
Kết luận
Thật ngạc nhiên khi có rất ít suy luận thần học về bệnh suy giảm trí nhớ. Tuy nhiên, thuyết nhân vị Kitô giáo đưa ra một lăng kính độc đáo mà qua đó chúng ta có thể khám phá ý nghĩa của bệnh suy giảm trí nhớ và những gợi ý cho tâm hồn và tương quan của một người với Thiên Chúa do chứng bệnh này gây ra. Ngay cả những người mắc bệnh này nghiêm trọng, họ vẫn giữ được dạng thức cơ bản nhất của tác nhân tinh thần – khả năng yêu thương. Mặc dù bệnh suy giảm trí nhớ là một tập hợp các tình trạng gây tổn thương, làm giảm đáng kể khả năng thực hiện các hoạt động thông thường trong cuộc sống, nhưng chứng bệnh này không tước đi phẩm giá nền tảng của một người cũng như không làm suy yếu mối tương quan giữa họ với Thiên Chúa.
Có lẽ, chúng ta gần gũi Thiên Chúa nhất khi cái tôi của bản thân hạ xuống mức thấp nhất và hơn bao giờ hết, khi chúng ta hoàn toàn cởi mở trước hành động của ân sủng? Chí ít điều này cũng đúng: điều quan trọng nhất không phải là trạng thái của tâm trí mà là thiên hướng nền tảng của cõi lòng chúng ta.
Nhóm Sao Biển chuyển ngữ từ Church Life Journal | University of Notre Dame (03/12/2021)