2022
Thư chung Tết Nhâm Dần của Đức cha Alôisiô Nguyễn Hùng Vị – Giám mục Giáo phận Kon Tum
Thư chung Tết Nhâm Dần của Đức cha Alôisiô Nguyễn Hùng Vị – Giám mục Giáo phận Kon Tum
TOÀ GIÁM MỤC KONTUM
146 Trần Hưng Đạo – Kontum – Việt Nam
Số 25/VT/’22/Tgmkt
THƯ CHUNG
TẾT NHÂM DẦN
Kính gửi: Quý Cha, quý Tu sĩ nam nữ, quý Chủng sinh, và quý ông bà anh chị em trong gia đình Giáo phận.
Thưa anh chị em, tuy ba ngày Tết đã dần khép lại, nhưng năm mới Nhâm Dần chỉ mới bắt đầu. Tôi xin mượn những dòng chữ này, để cầu chúc các thành viên trong gia đình Giáo phận một Năm Mới Nhâm Dần nhiều niềm vui và phúc lành của Chúa. Như anh chị em đã biết, Giáo phận chúng ta vừa trải qua những ngày đau buồn vì sự ra đi quá đột ngột và đau thương của Cha Giuse Trần Ngọc Thanh, tu sĩ Dòng Đa Minh, người vừa được bổ nhiệm đặc trách giáo họ Sa Loong, thuộc giáo xứ Đăk Mót. Cho đến lúc này, vẫn còn nhiều uẩn khúc chung quanh sự việc thương tâm này. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi có thêm những thông tin liên quan, để tránh những hiểu lầm không đáng có, và nhất là để gia đình Giáo phận thêm hiệp thông trong lời cầu nguyện, tôi xin được có đôi lời với anh chị em.
Giáo họ Sa Loong lâu nay vốn thuộc giáo xứ Đăk Mót. Thời gian gần đây, giáo họ đang có những bước chuẩn bị để thành lập giáo xứ mới. Trong đó, có chương trình kêu gọi giúp đỡ để có thể xây dựng cho anh chị em nơi đây ngôi nhà thờ. Và để tiếp tục công việc của vị tiền nhiệm, Cha Giuse Thanh được bổ nhiệm về đây, thay thế cho người anh em cùng Dòng. Là một linh mục còn rất trẻ, Cha Giuse Thanh được biết đến là một con người ăn nói nhỏ nhẹ, hiền lành và dễ mến.
Sự việc đáng tiếc đã xảy ra vào chiều thứ bảy, 29/1/2022: anh Nguyễn Văn Kiên đã ra tay sát hại Cha Giuse Thanh, lúc Cha đang ngồi tòa giải tội sau thánh lễ. Vì vết thương trên đầu quá nặng, nên Cha Giuse Thanh đã không qua khỏi. Cha mất tại bệnh viện vào lúc 23g30 thứ bảy, ngày 29 tháng 01 năm 2022.
Tuy quá bất ngờ và rất bộn bề những ngày giáp Tết, quý Cha, quý Tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân cũng đã thu xếp để đến thăm viếng, chia sẻ và dâng lễ cầu nguyện cho Cha Giuse Thanh tại Tu xá Dòng Đa Minh và tại nhà nguyện Plei Đon. Đặc biệt, gia đình Giáo phận cũng đã quây quần dâng lễ và tiễn biệt Cha, trước khi Cha được đưa về an táng tại Cộng đoàn Martinô Hố Nai, Biên Hoà (Gp. Xuân Lộc). Xin cảm ơn quý Cha, quý Tu sĩ nam nữ cùng anh chị em.
Sáng mồng một Tết vừa qua (1/2/2022), Cha Simon Phan Văn Bình (nhà hưu Tòa Giám mục) cùng với Cha Gioan Baotixita Đỗ Thanh Tùng (chính xứ Đăk Mót) đã vào thăm Sa Loong và cùng với giáo dân cầu nguyện cho Cha Giuse Thanh chính nơi máu ngài đã đổ ra. Đồng thời, hai Cha cũng đã đến thăm gia đình anh Kiên, người đã ra tay sát hại Cha Giuse Thanh.
Anh Nguyễn Văn Kiên thuộc gia đình công giáo. Cha mẹ anh hiền lành, ngoan đạo. Anh có hai em trai và một em gái. Em gái học nội trú nhà các Soeurs. Tuy nhiên, bản thân anh Kiên thì lơ mơ, không sống đạo. Qua những thông tin có được từ cha mẹ anh Kiên, anh Kiên không phải là người điên khùng theo cách hiểu thông thường. Anh vẫn biết làm ruộng, làm rẫy, sửa xe,… Tuy nhiên, thỉnh thoảng, anh có thể nổi điên quậy phá, chửi bới, đập tivi, đánh đập ngay cả người nhà, thậm chí đập phá bàn thờ gia đình… Anh còn hoang tưởng bị người ta ức hiếp, ngăn cản không cho lấy vợ. Anh quát mắng mẹ anh khi bà phủ nhận lời anh nói như thế.
Kính thưa anh chị em, trên đây là một vài thông tin chúng tôi có được cho tới lúc này. Mong sao những uẩn khúc chung quanh biến cố đau thương này sớm được sáng tỏ.
Nói gì thì nói, máu người vô tội đã đổ! Trước nỗi mất mát này, là những người có niềm tin, ngoài những lời cầu nguyện dành cho Cha Giuse Thanh, ngoài những chia sẻ, ủi an và nâng đỡ dành cho gia đình Cha, cho Dòng Đa Minh, cách riêng cho các anh em Đa Minh đang phục vụ trên cánh đồng truyền giáo Kon Tum chúng ta, cho bà con giáo dân giáo họ Sa Loong, chúng ta được mời gọi sống chứng tá tình yêu và tha thứ. Mong sao hận thù và bạo lực lui xa, để yêu thương và hiệp nhất thêm tròn đầy, ngõ hầu “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên” (Tv 85,11).
Xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho Cha Giuse Thanh, cho gia đình Cha, cho các linh mục và tu sĩ nam nữ đang phục vụ trên cánh đồng truyền giáo Kon Tum chúng ta. Cũng xin anh chị em thương cầu nguyện cho tôi và cho gia đình Giáo phận thân yêu của chúng ta nữa.
Hiệp thông trong Đức Kitô.
Mùng 3 Tết năm Nhâm Dần (2022)
(đã ấn ký)
+ Aloisiô Nguyễn Hùng Vị
Giám Mục Giáo Phận Kon Tum
2022
ĐTC Phanxicô: Giữa chúng ta và các thánh trên trời có sự liên kết không thể bị phá huỷ
ĐTC Phanxicô: Giữa chúng ta và các thánh trên trời có sự liên kết không thể bị phá huỷ
Trong bài giáo lý được trình bày trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư ngày 2/2/2022, Đức Thánh Cha đã suy tư về sự hiệp thông của các thánh, một chiều kích của đức tin mà không phải luôn luôn được các tín hữu hiểu rõ. Ngài nói rằng mỗi thành viên của Giáo hội được kết nối chặt chẽ với nhau trong Chúa Kitô. Sự hiệp thông giữa các thánh cũng có thể thiết lập mối quan hệ của chúng ta với các vị thánh và với những người thân yêu đã khuất của chúng ta theo cách tốt nhất có thể.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến,
Trong những tuần gần đây chúng ta đã có thể hiểu sâu sắc hơn về thánh Giuse nhờ để cho mình được hướng dẫn bởi một số thông tin ít ỏi nhưng quan trọng được các Tin Mừng thuật lại, và cũng nhờ các đặc điểm trong nhân cách của ngài mà Giáo hội qua nhiều thế kỷ đã có thể nêu bật bằng kinh nguyện và lòng sùng kính. Bắt đầu từ chính “tình cảm chung” này, điều đã đồng hành với hình ảnh thánh Giuse trong lịch sử của Giáo hội, hôm nay tôi muốn tập trung vào một điều quan trọng về đức tin, điều có thể làm phong phú thêm đời sống Kitô giáo của chúng ta và cũng định hình mối quan hệ của chúng ta với các thánh và với những người thân yêu đã qua đời theo cách tốt nhất có thể: Tôi đang nói về sự hiệp thông của các thánh.
Các thánh không phải là người làm phép lạ, nhưng là Thiên Chúa
Đôi khi, ngay cả Kitô giáo cũng có thể rơi vào những hình thức sùng kính mà dường như phản ánh một não trạng ngoại giáo hơn là Kitô giáo. Sự khác biệt cơ bản chính là lời cầu nguyện của chúng ta và lòng sùng kính của các tín hữu không dựa trên sự tin tưởng vào một con người, vào một hình ảnh hoặc một vật thể, ngay cả khi chúng ta biết rằng chúng là thánh thiêng. Ngôn sứ Giêrêmia nhắc nhở chúng ta: “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, […] phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa” (17,5.7). Ngay cả khi chúng ta hoàn toàn tin cậy vào lời chuyển cầu của một vị thánh, hay thậm chí là lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria, thì sự tin cậy của chúng ta chỉ có giá trị trong mối quan hệ với Chúa Kitô. Con đường đến với vị thánh này hay với Đức Mẹ không dừng lại ở đó, nhưng trong tương quan với Chúa Kitô. Và mối dây liên kết chúng ta với Người và với nhau có một tên gọi cụ thể: “sự hiệp thông của các thánh”. Không phải các thánh là người làm phép lạ, mà chỉ có ân sủng của Thiên Chúa tác động qua họ. Các phép lạ được Thiên Chúa thực hiện, bởi ân sủng của Người ban qua một con người thánh thiện công chính. Một vị thánh là một người chuyển cầu, là người cầu nguyện cho chúng ta và chúng ta cầu nguyện với ngài, ngài cầu nguyện cho chúng ta và Chúa ban cho chúng ta ân sủng.
Sự hiệp thông của các thánh
Vậy “sự hiệp thông của các thánh” là gì? Đức Thánh Cha giải thích: Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo khẳng định: “Sự hiệp thông của các thánh là Giáo hội.” (số 946). Điều đó có nghĩa là gì? Có phải là Giáo hội được dành cho người hoàn hảo? Không. Nhưng có nghĩa nó là cộng đoàn của những tội nhân được cứu độ. Sự thánh thiện của chúng ta là hoa trái của tình yêu thương của Thiên Chúa được thể hiện trong Đức Kitô, Đấng thánh hoá chúng ta bằng cách yêu thương chúng ta trong sự khốn cùng của chúng ta và cứu chúng ta khỏi điều đó.
Thánh Phaolô nói rằng luôn luôn tạ ơn Chúa đã kiến tạo chúng ta thành một thân thể duy nhất, trong đó Chúa Giêsu là đầu và chúng ta là chi thể (x. 1Cr 12,12). Hình ảnh thân thể này ngay lập tức giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của việc ràng buộc với nhau trong sự hiệp thông: Thánh Phaolô viết, “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung. Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1Cr 12,26-27).
Anh chị em thân mến, niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống của tôi ảnh hưởng đến tất cả mọi người, cũng như niềm vui và nỗi buồn xảy ra trong cuộc sống của anh chị em bên cạnh cũng ảnh hưởng đến tôi. Tôi không thể dửng dưng với người khác bởi vì tất cả chúng ta ở trong một thân thể, trong sự hiệp thông. Theo nghĩa này, ngay cả tội lỗi của một cá nhân cũng luôn ảnh hưởng đến mọi người, và tình yêu của mỗi cá nhân ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Nhờ sự hiệp thông của các thánh, mọi thành viên của Giáo hội đều gắn bó với tôi một cách sâu xa, và mối dây liên kết này bền chặt đến nỗi nó không thể bị phá huỷ ngay cả khi chết.
Thật vậy, sự hiệp thông của các thánh không chỉ bao gồm những anh chị em đang ở bên cạnh tôi vào thời điểm này trong lịch sử, mà còn liên quan đến những người đã kết thúc hành trình trần thế của họ và vượt qua ngưỡng cửa của cái chết. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy nghĩ rằng trong Đức Kitô, không ai có thể thực sự tách chúng ta ra khỏi những người chúng ta yêu thương; chỉ thay đổi cách thức ở cùng với họ, nhưng không có gì và không ai có thể phá vỡ mối ràng buộc này. Sự hiệp thông của các thánh gắn kết cộng đồng các tín hữu trên mặt đất và trên trời lại với nhau.
Tình bạn với các thánh trên trời
Đức Thánh Cha giải thích thêm: Theo nghĩa này, tình bạn mà tôi có thể xây dựng với anh chị em bên cạnh tôi, tôi cũng có thể thiết lập với anh chị em trên trời. Các thánh là những người bạn mà chúng ta thường thiết lập quan hệ thân thiện. Điều mà chúng ta gọi là sự sùng kính, nó thực sự là một cách thể hiện tình yêu thương từ chính mối dây gắn kết chúng ta. Và chúng ta đều biết rằng chúng ta luôn có thể hướng về một người bạn, đặc biệt là khi chúng ta gặp khó khăn và cần sự giúp đỡ. Tất cả chúng ta đều cần bạn bè; tất cả chúng ta đều cần những mối quan hệ có ý nghĩa để giúp chúng ta vượt qua cuộc sống. Chúa Giêsu cũng có những người bạn của mình, và ngài hướng về họ vào những thời điểm quyết định nhất của kinh nghiệm làm người của mình.
Trong lịch sử của Giáo hội, có một số điều không thay đổi, luôn đồng hành với cộng đoàn tín hữu: trước hết là tình cảm cao cả và mối dây liên kết rất bền chặt mà Giáo hội luôn có đối với Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và Mẹ chúng ta và cả sự tôn kính và tình cảm đặc biệt mà Giáo hội dành cho thánh Giuse. Sau cùng, Thiên Chúa giao phó cho thánh nhân những gì quý giá nhất của Người: Chúa Giêsu Con của Người và Đức Trinh Nữ Maria. Luôn luôn nhờ sự hiệp thông của các thánh mà chúng ta cảm thấy rằng các thánh nam nữ là những người bảo trợ chúng ta – vì tên chúng ta có, vì Giáo hội mà chúng ta thuộc về, vì nơi chúng ta sống, v.v. Và sự tin tưởng này luôn phải thúc đẩy chúng ta hướng về các ngài vào những thời điểm quyết định trong cuộc đời. Lòng sùng kính các thánh không phải là một điều ma thuật, không phải là mê tín dị đoan; nó chỉ đơn giản là nói chuyện với một người anh, một người chị đang ở trước nhan Chúa, người đã sống một cuộc đời công chính, một cuộc sống thánh thiện, một cuộc sống gươngmẫu, và giờ đây đang ở trước mặt Chúa. Tôi nói với người anh người chị này và xin các ngài chuyển cầu cho những điều tôi cần.
Cầu nguyện với thánh Giuse
Đức Thánh Cha kết thúc bài giáo lý này bằng một lời cầu nguyện với thánh Giuse mà ngài đặc biệt gắn bó và đã đọc hàng ngày, trong nhiều năm. Ngài cho biết: Đây là kinh tôi tìm thấy trong sách kinh của các Nữ tu Chúa Giêsu và Mẹ Maria, vào những năm 1700. Nó thật hay, nhưng nó là một thách đố đối với người bạn này, người cha này, người bảo trợ chúng ta, thánh Giuse, hơn là một lời cầu nguyện.
Lạy cha thánh Giuse vinh hiển, quyền năng của ngài biến điều không thể thành có thể. Xin hãy đến giúp con trong những lúc đau khổ và khó khăn này. Xin hãy đặt dưới sự bảo vệ của ngài những tình huống nghiêm trọng và rắc rối mà con phó thác cho ngài, để chúng được giải quyết tốt đẹp.
Lạy Cha yêu dấu của con, con đặt tất cả sự tin tưởng của con ở nơi cha. Xin đừng để người ta nói rằng con đã cầu xin cha cách luống công, và vì cha có thể làm mọi việc với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, xin tỏ cho con thấy rằng lòng tốt của cha cũng vĩ đại như quyền năng của cha. Amen.
Hồng Thủy
2022
Đức Thánh Cha cử hành Thánh lễ Ngày Đời sống Thánh hiến lần thứ 26
Đức Thánh Cha cử hành Thánh lễ Ngày Đời sống Thánh hiến lần thứ 26
Chiều thứ Tư, 02/02, lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, cũng là Ngày Đời sống Thánh hiến, Đức Thánh Cha cử hành Thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô. Trong bài giảng, ngài mời gọi các tu sĩ hăng say canh tân đời sống; tự hỏi điều gì thúc đẩy con tim và hành động; đâu là cái nhìn đổi mới mà mỗi người được mời gọi; và trên hết hãy ẵm Chúa Giêsu trong vòng tay và kiên nhẫn chờ đợi lòng trung thành của Chúa, không để ai lấy đi niềm vui gặp Chúa mỗi ngày.
Đồng tế với Đức Thánh Cha có Đức Hồng y Tổng trưởng Bộ các dòng tu João Braz de Aviz, hơn 20 Hồng y và Giám mục, cùng gần 400 linh mục, với sự hiện diện của nhiều tu sĩ nam nữ và giáo dân.
Thánh lễ được bắt đầu với nghi thức làm phép nến do Đức Thánh Cha chủ sự. Sau đó, ngài cùng với đoàn đồng tế và một số bề trên nam nữ, đại diện cho các hình thức đời sống Thánh hiến khác nhau, tiến đến Bàn thờ chính.
Trong bài giảng Thánh lễ, đi từ trình thuật của Tin Mừng (Lc 2,22-40) nói về việc Đức Mẹ và Thánh Giuse lên Giêrusalem tiến dâng Chúa Giêsu cho Thiên Chúa, Đức Thánh Cha tập trung vào ba hành động của ông Simêon: được Thần Khí thúc bách, nhìn thấy ơn cứu độ nơi Hài Nhi, và sau cùng ẵm lấy Hài Nhi trên tay.
Chúng ta được điều gì thôi thúc?
Đức Thánh Cha đưa ra câu hỏi: “Điều gì thôi thúc chúng ta?”. Ngài giải thích rằng, ông Simêon lên Đền thờ Giêrusalem vì được Thần Khí thôi thúc. Như vậy, trong trường hợp này, Thánh Thần là nhân vật chính. Chính Thánh Thần khơi lên trong tâm hồn ông Simêon lòng khao khát Thiên Chúa. Đức Thánh Cha mời gọi: “Chúng ta hãy tự hỏi: Chúng ta được lay động bởi Thánh Thần hay tinh thần thế gian?”. Bởi vì, đôi khi người thánh hiến có nguy cơ tìm kiếm những kết quả, mục tiêu, thành công, vị trí. Trái lại, Thánh Thần thì luôn mời gọi lòng trung thành. Trung thành như ông Simêon và bà Anna ngày ngày lên Đền thờ cầu nguyện và chờ đợi không nản lòng hay than phiền.
Đức Thánh Cha cử hành Thánh lễ Ngày Đời sống Thánh hiến lần thứ 26
Mắt chúng ta nhìn thấy gì?
Câu hỏi tiếp theo được Đức Thánh Cha đưa ra là: “Mắt chúng ta nhìn thấy gì?”. Ngài nói: “Ông Simêon thấy ơn cứu độ. Đây là phép lạ vĩ đại của Đức tin: làm mở mắt và biến đổi cái nhìn”. Đức Thánh Cha nhận xét rằng mắt cụ già Simêon mờ đi nhưng đã nhận ra Chúa. Vậy trong đời sống thánh hiến, chúng ta nhìn thấy điều gì? Thế gian thì cho rằng đời sống thánh hiến là một sự “lãng phí”, nhưng chúng ta thấy gì? Chúng ta có khả năng nhìn xa trông rộng của đức tin không? Đức Thánh Cha nói ngài vui khi thấy những người thánh hiến lớn tuổi nhưng vẫn tiếp tục mỉm cười với đôi mắt sáng ngời, mang lại hy vọng cho những người trẻ, mở ra tương lai.
Chúng ta nắm giữ gì trong tay?
Đức Thánh Cha đi đến câu hỏi sau cùng: “Chúng ta nắm giữ gì trong tay?”. Và ngài khẳng định rằng trong Tin Mừng hình ảnh ông Simêon ẵm Hài Nhi trong tay là một hành động đầy ý nghĩa và dịu dàng. Thiên Chúa đã đặt vào đôi tay của ông Con của Người, bởi vì đón nhận Chúa Giêsu là điều chủ yếu, trung tâm của đức tin.
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Ông Simêon cất lên lời chúc tụng Thiên Chúa. Nếu đời sống thánh hiến thiếu lời chúc tụng và thiếu niềm vui, nếu đời sống huynh đệ chỉ là sự mệt mỏi, thì đó không phải vì chúng ta là nạn nhân của một ai đó, mà bởi vì đôi tay chúng ta không ôm lấy Chúa Giêsu nữa”. Ngài khẳng định: “Nếu chúng ta đón Chúa với vòng tay mở rộng thì chúng ta cũng đón tiếp người khác với sự tin tưởng và khiêm nhường. Khi đó xung đột trong đời sống không trở nên trầm trọng”.
Kết thúc bài giảng, Đức Thánh Cha mời gọi các tu sĩ hăng say canh tân đời sống; tự hỏi điều gì thúc đẩy con tim và hành động; đâu là cái nhìn đổi mới mà mỗi người được mời gọi; và trên hết hãy ẵm Chúa Giêsu trong vòng tay; và nếu cảm thấy khó khăn và mệt mỏi thì, như ông Simeon và bà Anna, hãy kiên nhẫn chờ đợi lòng trung tín của Chúa, và không để ai lấy đi niềm vui gặp Chúa mỗi ngày.
Ngọc Yến
2022
Tượng thánh Josephine Bakhita sẽ được đặt tại quảng trường thánh Phêrô
Tượng thánh Josephine Bakhita sẽ được đặt tại quảng trường thánh Phêrô
Pho tượng thánh Josephine Bakhita bằng đồng, một tác phẩm của nghệ sĩ Công giáo người Canada Timothy P. Schmalz, dành cho các nạn nhân buôn người và tất cả phụ nữ, đặc biệt là các nữ tu, những người làm việc để giải phóng phụ nữ khỏi chế độ nô lệ thời hiện đại, sẽ được đặt tại quảng trường thánh Phêrô ở Vatican trước buổi đọc kinh Truyền Tin của Đức Thánh Cha vào Chúa Nhật 6/2/2022.
Tác phẩm nghệ thuật, mô tả vị thánh từng là nô lệ và đã giải phóng rất nhiều người, sẽ đến Vatican trước Ngày quốc tế cầu nguyện và nâng cao nhận thức chống nạn buôn bán người vào ngày 8/2.
Cuộc đời thánh Bakhita
Ngày 8/2 hàng năm được chọn làm ngày cầu nguyện vì đây là ngày lễ thánh Josephine Bakhita, người sinh ra ở Sudan vào năm 1869. Bakhita bị bắt cóc khi mới 7 tuổi và bị bán làm nô lệ bởi những kẻ buôn bán nô lệ Ả Rập. Trong thời gian làm nô lệ, cô đã bị đánh đập, tra tấn và mang thương tích.
Bakhita bị bán cho Phó Lãnh sự Ý, Callisto Legani, vào năm 1883. Ông đưa cô trở về Ý, nơi cô được giao cho một gia đình để làm bảo mẫu.
Sau đó, gia đình này để Bakhita ở lại với các nữ tu dòng thánh Canossa, một dòng tu ở Venezia, trong khi họ đến Sudan để kinh doanh. Bakhita được các nữ tu chăm sóc trong cuộc chiến pháp lý diễn ra sau đó để cô được tự do khỏi chế độ nô lệ. Cuối cùng, một tòa án Ý đã ra phán quyết rằng vì chế độ nô lệ đã bị đặt ngoài vòng pháp luật ở Sudan trước khi cô sinh ra, nên cô không phải là nô lệ hợp pháp.
Với sự tự do mới được tìm thấy, Bakhita đã chọn lãnh nhận các bí tích rửa tội, thêm sức và rước lễ lần đầu vào năm 1890. Ba năm sau, cô trở thành tập sinh của Dòng Nữ Tử Bác Ái thánh Canossa, lấy tên là Josephine Margaret “Fortunata” – tên tiếng Latinh dịch từ tên tiếng Ả Rập của cô; Bakhita, có nghĩa là “may mắn.”
Bakhita được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước vào năm 1992 và phong thánh vào năm 2000. Ngài là vị thánh đầu tiên được phong thánh của Sudan và là vị thánh bảo trợ của đất nước.
Các sáng tác của Timothy P. Schmalz
Ông Schmalz đã sáng tác tác phẩm điêu khắc thánh Bakhita vào năm 2019 và đặt tên cho tác phẩm là: “Hãy để những người bị áp bức được tự do”.
Nghệ sĩ người Canada cũng là người tạo ra một tác phẩm điêu khắc khác được đặt ở quảng trường thánh Phêrô, “Angels Unawares”, mô tả những người di cư trong suốt lịch sử bị nhét trên một con tàu cùng với thánh gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse. Pho tượng đồng này dài hơn 6 mét đã được Đức Thánh Cha Phanxicô đưa đến Vatican vào năm 2019.
Nghệ sĩ Schmalz cũng được biết đến với các tác phẩm điêu khắc “Chúa Giêsu vô gia cư”, một trong số đó được sáng tác cho Thành phố Vatican vào năm 2016. (CNA 03/02/2022)
Hồng Thủy