2022
Anh em là muối cho đời
ANH EM LÀ MUỐI CHO ĐỜI
L.m Montfort Phạm Quốc Huyên O.Cist.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Anh em là muối cho đời” (Mt 5, 13). Ở đây, chắc chắn Chúa Giêsu đã dùng thuật ngữ “muối” theo nghĩa tốt, bởi vì trong Kinh Thánh muối mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Nó mang ý nghĩa xấu như trong câu chuyện sách Sáng Thế kể lại việc Thiên Chúa phạt một phụ nữ, “Bà vợ ông Lót ngoái lại đằng sau và hoá thành cột muối” (St 19, 26). Như vậy, muối là một dụng cụ trừng phạt. Các vùng đất có muối tức là nhiễm mặn, là đất hoang, “không ai gieo vãi, không chi nảy chồi, không cọng cỏ nào mọc lên, giống như cảnh tàn phá ở Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và Xơ-vô-gim, những thành mà Đức Chúa đã phá đổ trong cơn thịnh nộ và lôi đình của Người” (Đnl 29,22). Kẻ chiến thắng rắc muối xuống thành phố bại trận để không ai ở đó được như sách Thủ Lãnh thuật lại: “A-vi-me-léc đã chiếm được thành, tàn sát tất cả dân cư, rồi triệt hạ và rắc muối lên thành” (Tl 9, 45).
Phần chúng ta, với tư cách là những người được thánh hiến, những người môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi trở nên “muối cho đời” nghĩa là đem lại lợi ích đến cho mọi người theo các ý nghĩa tốt của muối trong Kinh Thánh. Những ý nghĩa này xuất phát từ các đặc tính và công dụng hữu ích của muối. Nó có vị mặn, có tính hòa tan trong nước, và phải trải qua thanh luyện mới có được màu trắng tinh khiết. Từ các đặc tính này muối được sử dụng để bảo tồn thực phẩm, tạo nên hương vị thơm ngon cho thức ăn, và thanh tẩy chất độc.
Vậy, trong ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta tìm hiểu những đặc tính và công dụng này của muối diễn đạt những ý nghĩa tượng trưng nào về đời sống thánh hiến, đời sống của những người bước theo Thầy Chí Thánh Giêsu.
I-TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI THIÊN CHÚA
1-Muối tượng trưng cho sự trung tín trong giao ước với Thiên Chúa
Vì yêu thương, Thiên Chúa muốn ký kết một giao ước tình bạn với con người. Trong Cựu ước, Thiên Chúa đã ký kết một giao ước với Aaron và dòng dõi của ông là các tư tế, những người được thánh hiến để chuyên lo phụng sự Thiên Chúa, và Ngài gọi giao ước này là “giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Đức Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi” (Ds 18, 19). Giao ước này bắt nguồn từ câu chuyện về cuộc phản loạn của dân Israel, và Thiên Chúa đã giáng tai họa xuống trên dân. Lúc bấy giờ theo lời ông Môsê, “ông Aaron cầm bình hương, chạy đến giữa công hội, thì này tai hoạ đã bắt đầu hoành hành trong dân. Ông đốt hương và làm nghi thức xá tội cho dân. Ông đứng giữa kẻ chết và người sống, tai hoạ liền chấm dứt” (Ds 17, 12-13). Sau đó theo lời Thiên Chúa phán, Aaron và gia tộc ông “là những người được dâng hiến, thuộc về Đức Chúa, để chuyên lo phục vụ Lều Hội Ngộ” (Ds 18, 6). Ông cùng với các con ông sẽ thi hành chức vụ tư tế trong mọi việc liên quan tới bàn thờ và những gì sau bức màn trướng. Và Thiên Chúa nói: “Ta ban chức tư tế cho các ngươi như dịch vụ và hồng ân” (Ds 18, 7), rồi Thiên Chúa kết luận: “Đó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Đức Chúa, cho ngươi và dòng dõi ngươi” (Ds 18, 19). Từ câu chuyện này, các học giả về văn hóa và tôn giáo Do Thái cho rằng: “Muối là dấu chỉ của sự trung tín trong tình bạn và sự liên đới giữa những người cùng ngồi ăn chung với nhau trong một mối dây liên kết thánh thiêng”.[1]
Trong vùng Palestin, người ta xem chức năng quan trọng nhất của muối là bảo tồn thực phẩm, kế đến nó mới là gia vị.[2] Giao ước mà Thiên Chúa ký kết với các tư tế được gọi là giao ước muối bởi vì nó phải tồn tại vĩnh viễn. Vậy các tư tế có trách nhiệm làm cho Dân Thiên Chúa trung tín trong việc giữ giao ước với Thiên Chúa. Họ phải có sự thánh thiện, chuyên chăm cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa,luôn sống trong tình bằng hữu với Thiên Chúa, có như thế họ mới có thể trở thành những người trung gian để chuyển cầu cho Dân.
Chúa Giêsu gọi chúng ta, những người được thánh hiến, là “muối” bởi vì Ngài cũng muốn chúng ta đi vào giao ước tình yêu với Ngài, sống thân mật với Ngài, trở nên bạn hữu thân thiết của Ngài.Và nhất là Ngài muốn chúng ta trung thành mãi mãi với những gì chúng ta đã khấn hứa, trở nên những người trung gian có trách nhiệm sống thánh thiện, hy sinh để cầu nguyện cho mọi tín hữu khác cũng sống trung tín với Chúa, giống như bổn phận của các tư tế thời Cựu ước đối với dân Israel, Dân riêng của Thiên Chúa.
2-Muối là dấu chỉ của việc được thánh hiến cho Thiên Chúa, dành riêng cho Thiên Chúa
Muối có tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống các nghi thức dâng hiến lễ phẩm cho Thiên Chúa. Người ta gọi đó là “muối của giao ước với Thiên Chúa”. Trong sách Lêvi, Thiên Chúa đã phán: “Các ngươi phải bỏ muối vào mọi lễ phẩm các ngươi dâng tiến; các ngươi không được để lễ phẩm các ngươi thiếu muối của giao ước của Thiên Chúa các ngươi; các ngươi phải dâng muối cùng với mọi lễ tiến của các ngươi” (Lv 2, 13). Như vậy muối là một phương thế để đóng dấu ấn trên mọi lễ vật dâng cho Thiên Chúa, để nói lên việc chúng thuộc về Thiên Chúa.
Trong nghi thức dâng hương, việc bỏ muối vào hương đã làm cho hương trở thành hương thánh hiến dành riêng cho Thiên Chúa, như lời Đức Chúa đã phán với ông Môsê: “Ngươi hãy lấy các thứ hương chất: tô hợp hương, hương loa, phong tử hương, các hương chất và nhũ hương nguyên chất; số lượng mỗi thứ sẽ đồng đều. Ngươi sẽ lấy các thứ hương chất đó chế thành hương để đốt: hợp chất các hương này sẽ là sản phẩm của thợ làm hương; hương đó sẽ là hương pha muối, nguyên chất, và là hương thánh. Đối với các ngươi, đó sẽ là một vật rất thánh. Các ngươi sẽ không được chế hương theo kiểu ấy mà dùng: đối với ngươi, đó sẽ là một vật thánh, dành riêng cho Đức Chúa ” (Xh 30, 34-37).
Cũng theo ý nghĩa này, mà ngôn sứ Êdêkien nói đến việc xát muối cho trẻ sơ sinh Do Thái là một nghi thức nhằm nói lên đứa trẻ được Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc (Ed 16, 4). Trong nghi thức làm phép nước thánh của Giáo hội vào các thánh lễ ngày Chúa Nhật cũng có việc linh mục bỏ muối vào nước. Vị linh mục đọc lời nguyện: “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin đoái thương nhận lời chúng con cầu khẩn mà thánh hóa muối này do chính Chúa dựng nên. Xưa kia Chúa đã truyền cho ngôn sứ Êlia bỏ muối vào nước, để nước nên trong lành. Giờ đây, khi chúng con rảy nước đã pha muối nơi nào, xin Chúa xua đuổi ma quỷ ra khỏi nơi ấy, và sai Thánh Thần đến ngự trị, để Người gìn giữ chúng con luôn mãi” (Sách Lễ Rôma trang 1053).
Chúa Giêsu gọi chúng ta là “muối”, vì Ngài cũng muốn chúng ta được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa. Cuộc đời của chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa một cách trọn vẹn, phải dành riêng cho một mình Thiên Chúa thôi, như lời thánh Phaolô nói: “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người có vợ thì lo lắng việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác” (1 Cr 7, 32-34).
II-TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI NHỮNG NGƯỜI KHÁC
1-Muối mặn tượng trưng cho sự thánh thiện và khôn ngoan có ảnh hưởng trên người khác
Chúa Giêsu nói trong bài giảng trên núi: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Mt 5, 13). Khi Chúa Giêsu sử dụng từ “muối” để nói về các môn đệ của mình, Ngài đã nhìn vào đời sống của họ. Ngài không nói họ trở nên muối, nhưng trở nên mặn hơn, đúng hơn là giữ được vị mặn, bởi vì họ đã là muối rồi. Muối cần thiết cho thức ăn để làm cho nó có đậm đà hương vị. Trở nên giống như muối ngụ ý rằng một người có một sự hiện diện theo cách thức đặc biệt, một lối sống làm cho đức tin của những người khác thêm mạnh mẽ, khích lệ tha nhân kiên trì trong đời sống cầu nguyện, và phục vụ với tấm lòng bác ái yêu thương. Thánh Phaolô đã xem muối là biểu tượng cho sự khôn ngoan: “Anh em hãy ăn ở khôn ngoan với người ngoài; hãy tận dụng thời buổi hiện tại. Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương, để anh em biết đối đáp sao cho phải với mỗi người” (Cl 4, 5-6). Giá trị của muối ở chỗ nó tác động trên những vật khác. Như muối làm cho thức ăn thêm thơm ngon, người môn đệ của Chúa Kitô được mời gọi làm lan tỏa hương thơm thánh thiện cho thế gian này, bằng cách đem đến niềm vui, lòng nhiệt thành và niềm hy vọng cho thế giới. Muối thì khác với thức ăn, nó làm cho thức ăn thêm đậm đà. Cũng vậy, những người sống đời thánh hiến phải sống khác với thế gian, theo nghĩa chúng ta không được phép để cho tinh thần thế gian tác động trên mình, đừng để mình chạy theo lối sống của người đời và suy nghĩ theo não trạng của thế gian như lời thánh Phaolô đã nói: “Anh em đừng có rập theo đời này” (Rm 12, 2).
Nếu muối không thể dùng để ướp mặn các vật khác, nó sẽ thành vô dụng. Đây là tình trạng khi tâm hồn chúng ta thiếu sự thánh thiện và khôn ngoan phát xuất từ Chúa Thánh Thần. Chúng ta được mời gọi theo một cách thức thiêng liêng để thưởng nếm, đón nhận sự thánh thiện và khôn ngoan phát xuất từ việc để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời mình. Sau đó chúng ta sẽ làm cho thế gian thưởng nếm điều này. Nếu chúng ta từ chối việc trở nên muối đất để ướp mặn thế giới này, đức tin của chúng ta sẽ thành trì trệ. Nếu chúng ta cũng chạy theo lối sống ích kỷ chỉ lo hưởng thụ mà thôi như mọi người khác, có lẽ chúng ta sẽ mất đi khả năng làm chứng cho Chúa Kitô.[3]Bởi vì người môn đệ được đánh giá theo ảnh hưởng họ có trên những người khác.
2-Muối hòa tan trong nước như hạt lúa gieo vào lòng đất
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Hạt muối cũng giống như hạt lúa. Khi nấu một món canh, chúng ta bỏ muối vào nồi cho món canh thêm hương vị đậm đà. Nếu hạt muối mặn nhưng không chịu hòa tan vào nước canh thì nó cứ nằm trơ trọi một mình dưới đáy nồi, và món canh vẫn nhạt nhẽo vô vị. Hạt muối hòa tan thì nó mới làm cho món ăn có hương vị. Đúng như Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12, 25). Thuật ngữ “mất” ở đây là đánh mất ý nghĩa của cuộc đời mình. Ý nghĩa của muối là ướp mặn cho đời, nếu muối vì sợ hòa tan nên cứ trơ trơ ra đó thì nó đã đánh mất ý nghĩa của sự hiện hữu của nó. “Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi” (Mt 5, 13).
2-Muối hòa tan tượng trưng cho lối sống ẩn khuất, khiêm tốn của người môn đệ
Khi ví người môn đệ như “muối”, Chúa Giêsu muốn họ sống trong ẩn khuất, khiêm tốn, chớ có phô trương các việc lành của mình ra cho thiên hạ thấy. Chúa nói: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. . . .. Và khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. . . .. Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6, 1-17). Họ phải hòa tan “cái tôi” của mình, phải hủy mình ra không giống như hạt muối tan ra trong nồi canh. Thật vậy, khi nếm một món canh, người ta thưởng thức được hương vị mặn mà của nó, người ta biết có muối ở trong canh, nhưng người ta không nhìn thấy hạt muối bởi vì nó đã hòa tan vào trong canh. Tuy nhiên, cũng giống như nắm men trong ba thúng bột, người ta không thấy men đâu cả, nhưng nó đã làm cho “tất cả bột dậy men” (Lc 13, 21). Thánh Phaolô cũng hiểu như vậy: “Anh em không biết sao? Chỉ một tí men là đã đủ làm dậy men cả khối bột!” (1Cr 5, 6). Những người sống đời thánh hiến càng sống khiêm tốn, nhỏ bé, kín đáo càng làm cho Nước Thiên Chúa được phát triển, và ảnh hưởng của họ trên trần gian càng mạnh mẽ. Chúng ta đã thấy gương của chị thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu sống ẩn khuất, khiêm tốn trong Dòng Kín nhưng đã đóng góp rất lớn cho công việc truyền giáo đến nỗi đã được tôn phong làm bổn mạng của các xứ truyền giáo. Hơn thế nữa, “con đường thơ ấu” của chị đã khơi dạy nơi bao tâm hồn một quyết tâm sống thánh thiện, yêu thương, chấp nhận hủy bỏ “cái tôi” của mình để luôn khiêm tốn, cậy trông vào Thiên Chúa là Cha. Vì thế, chị còn trở thành một vị Tiến sĩ của Hội Thánh nữa.
3-Muối hòa tan tượng trưng cho sự hòa hợp và hiệp nhất
Khi mời gọi chúng ta: “Anh em hãy giữ muối trong lòng anh em và sống hòa thuận với nhau” (Mc 9, 50), Chúa Giêsu muốn nói đến tính hòa tan của muối, một biểu tượng cho sự hy sinh bản thân để sống hòa hợp và hiệp nhất với mọi người. Thật vậy nguyên nhân của tranh chấp bất hòa là sự tham lam, ích kỷ, chỉ muốn vơ vét cho bản thân như lời thánh Giacôbê đã nói: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau” (Gc 4, 1-2). Như thế, Chúa mời gọi chúng ta noi gương của Ngài: hy sinh bản thân để sống giống như anh em khác, nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến bản thân như lời thánh Phaolô nói: “Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn hủy mình ra không, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2, 4-7). Chúa Giêsu Kitô chính là hạt muối từ trời xuống, Ngài đã “hòa tan” chính mình trong thân phận phàm nhân. Ngài đã tự hủy mình ra không đến nỗi trở nên giống hệt mọi người khác ở Nadarét, khiến người ta chỉ biết ông Giêsu là “bác thợ mộc, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giô-xết, Giuđa và Simôn” (Mc 6, 3). Như vậy, những người sống đời thánh hiến không được phép đòi hỏi những đặc quyền, đặc lợi vượt trội những người khác, cũng không được tỏ ra mình là con người đặc biệt, tách mình ra khỏi mọi người theo kiểu “biệt phái”. Chúng ta hãy sống khiêm tốn như hạt muối hòa tan trong biển cả là cộng đoàn, theo lời thánh Biển Đức nói: “Bậc khiêm nhường thứ tám là đan sĩ không làm gì ngoài luật chung của đan viện và gương lành các vị cao niên” (Tu luật Biển Đức chương 7). Nếu tu sĩ nào cũng sống như thế sẽ tạo nên sự hiệp nhất trong cộng đoàn tu trì.
4-Muối tượng trưng cho sự thử thách và thanh tẩy
Chúa Giêsu nói: “Quả thật, ai nấy sẽ được luyện bằng lửa như thể ướp bằng muối” (Mc 9, 49). Ở đây, lửa và muối nói đến sự thanh luyện qua những thử thách và việc từ bỏ. Thật vậy, theo bản chất của muối thì muối luôn luôn mặn và hòa tan trong nước. Tuy nhiên, muối vẫn có thể trở thành vô dụng nếu muối bị nhiễm độc và dơ bẩn. Hơn nữa, chỉ khi muối đã trở nên tinh khiết rồi nó mới có thể được dùng để thanh tẩy những vật khác, như sách Các Vua quyển thứ hai 2, 21 thuật lại việc ngôn sứ Êlisa ném muối xuống dòng nước gần thành Giêricô và thanh tẩy nó, làm cho nước được thanh sạch để dân cư trong thành có thể uống được.
Những người sống đời thánh hiến cũng phải thanh tẩy bản thân và những công việc trần thế của mình, để có thể thánh hóa những người sống chung quanh mình. Những công việc trần thế tự chúng là tốt, nhưng chúng không có giá trị tuyệt đối. Hơn nữa, công việc của con người bị tội lỗi gây thương tích rồi. Chúng có tính hàm hồ: có thể hữu ích, cũng có thể làm hại. Con người thật sự có quyền trên vũ trụ, trên hành vi của chính mình nhờ đặc ân tự do, nhưng đồng thời mỗi người đều có kinh nghiệm đã bị tội khống chế vì lạm dụng tự do. Vì thế, thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Anh em đừng có rập theo đời này” (Rm 12,2) nghĩa là “đừng buông mình ham chuộng hư danh và gian xảo, khiến sinh hoạt con người vốn quy hướng về việc phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, lại biến thành phương tiện phạm tội” (Hiến chế Mục vụ “Vui mừng và Hy vọng”, số 37). Như vậy, những người sống đời thánh hiến phải thanh tẩy bản thân và mọi sinh hoạt trần thế của mình đang bị lâm nguy vì kiêu ngạo, và ích kỷ. Chúng ta thanh tẩy chúng nhờ đời sống cầu nguyện và hy sinh, từ bỏ những dính bén có thể nguy hại cho các lời khấn và chấp nhận những thử thách, đau khổ do Chúa gửi đến khi thi hành bổn phận hàng ngày, như lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Chỉ với điều kiện này, những người sống đời thánh hiến mới đủ khả năng thánh hoá mình và làm ích cho tha nhân.
KẾT
Qua việc học hỏi và nghiền ngẫm những lời Kinh Thánh nói về muối, chúng ta đã hiểu được ước muốn của Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta: “Anh em là muối cho đời” (Mt 5, 13).
Là “muối” nghĩa là những người sống đời thánh hiến phải có vị mặn thánh thiện và khôn ngoan, có đời sống cầu nguyện thâm sâu để có thể trung tín với các lời khấn là giao ước tình yêu với Chúa, để thuộc trọn về Chúa, dành cả cuộc đời cho một mục đích duy nhất là tìm Chúa, và gặp Chúa rồi thì đem Chúa đến cho người khác. Là “muối” nghĩa là chúng ta phải sống mầu nhiệm kenosis: tự hủy mình ra không như muối hòa tan trong nước, để có thể sống âm thầm, hy sinh, khiêm tốn, hòa hợp, và hiệp nhất với mọi người. Là “muối” nghĩa là chúng ta phải trải qua thanh luyện, phải chịu thử thách, đau khổ, phải từ bỏ những dính bén độc hại, và vác thập giá hàng ngày để có được màu trắng tinh khiết của muối.
Xin Chúa trợ giúp chúng ta, để một khi hiểu được ý Chúa rồi thì chúng ta cũng đem ra thực hành lời Chúa đã nói: “Anh em là muối cho đời” (Mt 5, 13).
Trích Nội san Linh Đạo Đan Tu “Hạt Giống Chiêm Niệm”, số 17 năm 2015.
[1]Xem Mark R. Francis, “The Collegeville Pastoral Dictionary of Biblical Theology”, trang 866.
[2] Xem: The NIV Thematic Reference Bible trang 1497.
[3] x.Vima Dasan “His Word Challenges” trang 18.
2022
Thư hướng dẫn những người sống đời thánh hiến tham gia Thượng hội đồng giám mục về tính hiệp hành
THƯ HƯỚNG DẪN NHỮNG NGƯỜI SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN
THAM GIA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VỀ TÍNH HIỆP HÀNH
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: Synod.va (17/01/2022)
Hôm 17/1/2022, Đức Hồng Y João Braz de Aviz, Tổng Trưởng Bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Đời sống Tông đồ cùng với Đức Hồng Y Mario Grech, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục đã gửi một lá thư đến các Bề trên Thượng cấp của các Dòng tu Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Đời sống Tông đồ; các Liên hiệp Bề trên Thượng cấp (USG), Liên hiệp quốc tế Bề trên Thượng cấp (UISG) và Hiệp Hội toàn cầu các Tu hội đời (CMIS) với những thông tin liên quan đến việc hướng dẫn họ tham gia vào tiến trình hiệp hành của Thượng Hội đồng Giám mục XVI. Sau đây là nội dung lá thư:
THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
Số: 210382
BỘ ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
VÀ HIỆP HỘI ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ
Số: Sp.R. 2633/21
Vatican, ngày 17 tháng 01 năm 2022
Anh chị em thân mến,
Chúng tôi gửi đến anh chị em với lòng biết ơn và hy vọng lớn lao, biết rằng Anh chị em không chỉ có một câu chuyện huy hoàng để kể mà còn là một câu chuyện tuyệt vời để xây dựng. Lịch sử của Anh chị em là lịch sử của Giáo hội và câu chuyện của Giáo hội là câu chuyện của Anh chị em.
Như Anh chị em đã biết, con đường hiệp hành mà Giáo hội đang trải qua được nên phong phú một cách vô giá nhờ các đặc sủng do Thánh Thần nâng đỡ; trong số những đặc sủng này, những đặc sủng của Anh chị em có một vị trí đặc biệt.
Chúng tôi viết thư này để đáp lại một số thỉnh cầu về sự tham gia của Anh chị em vào con đường hiệp hành.
- Mục tiêu của giai đoạn đầu tiên của tiến trình hiệp hành là “tham khảo ý kiến Dân Chúa về chủ đề của Thượng hội đồng” (EC 5, 2), và theo những gì đã được Văn phòng Tổng thư ký của Thượng Hội đồng ấn định, tiến trình trên sẽ được tiếp nối bằng sự phân định của các Mục tử trong các Hội đồng Giám mục ở cấp quốc gia và châu lục.
Bằng sự khẳng định rằng “sự tham khảo ý kiến của Dân Chúa diễn ra trong các Giáo hội địa phương” (EC 6, 1), dựa trên nguyên tắc Giáo hội học, theo đó Giáo hội duy nhất tồn tại trong và từ các Giáo hội địa phương (x. LG 23), cần phải coi rằng cách thức thông thường để thực hiện việc tham vấn Dân Chúa là do các Giám mục khởi xướng trong các Giáo hội địa phương của các ngài (x. EC 6, 1).
- Trong khuôn khổ của sự quy chiếu này, những người nam và nữ thánh hiến, cũng như mọi thành phần Dân Chúa, được mời gọi góp phần mình vào ơn gọi ngôn sứ và việc phân định trước hết trong các Giáo hội địa phương nơi họ hiện diện. Nếu thiếu sự hiện diện này, thì chính nguyên tắc về Giáo hội-Dân Chúa, vốn đòi hỏi sự tham gia của tất cả mọi người do phẩm giá chung khi chịu Phép Rửa, nguyên tắc ấy sẽ bị đặt thành vấn đề, và bản thân việc tham khảo ý kiến sẽ bị nghèo nàn cách nghiêm trọng, bởi lẽ một tiếng nói cơ bản trong đời sống của Giáo hội bị mất đi do cố ý.
Do đó, những người nam và nữ thánh hiến, và chính các cộng đoàn, tùy theo đặc sủng và trong phạm vi hiến định của mình, phải tham gia tích cực vào con đường hiệp hành của các Giáo hội địa phương, nơi họ sống đặc sủng và thi hành thừa tác mục vụ của mình.
- Các Liên hiệp, Liên hội đồng và các Dòng tu Đời sống Thánh hiến, Hiệp hội Đời sống Tông đồ (x. EC 6, 2), và các Tu hội đời cũng như các Hiệp hội của các Tín hữu (x. EC 6, 3), có thể khởi động một cuộc tham khảo ý kiến nội bộ trong các Dòng tu khác nhau, với sự tham gia của tất cả các thành viên. Trong trường hợp này, các thành viên của các Dòng tu nên suy ngẫm về sự đóng góp mà đời sống thánh hiến, vốn luôn được đặc trưng bởi các phong cách và hình thức tham gia vào đời sống và quản trị của các cộng đoàn, có thể cống hiến cho sự tăng trưởng của một Giáo hội hiệp hành đích thực.
Trong trường hợp các cuộc tham khảo ý kiến nội bộ này được khởi xướng, mỗi Dòng tu của Đời sống thánh hiến, Hiệp hội Đời sống Tông đồ hoặc Tu hội đời sẽ gửi trực tiếp một đóng góp cho Bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Đời sống Tông đồ trước ngày 30/6/2022, và không thông qua các Hội nghị toàn quốc như đã thông báo trước đây. Đến ngày 15/8/2022, Thánh bộ sẽ gửi bản tóm tắt của những đóng góp nhận được cho Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục.
Các điều phối chung cũng sẽ phản ánh về việc thực hiện quản trị trong các Dòng tu riêng lẻ và mối tương quan giữa các Dòng tu khác nhau. UISG, USG và CMIS sẽ thu thập những đóng góp này và gửi một bản tóm tắt đến Văn phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục trước ngày 15/ 8/ 2022 (x. EC 7, 1).
Quyền gửi các góp ý trực tiếp đến Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng Giám mục vẫn không thay đổi (x. EC 7, 2) nhưng luôn luôn theo một cách ngoại thường.
Hồng Y Mario Grech
Tổng Thư ký
Thượng Hội đồng Giám mục
Hồng Y João Braz de Aviz
Tổng Trưởng
Bộ Đời sống Thánh hiến
và Hiệp hội Đời sống Tông đồ
2022
Sống chiều kích hoán cải vì một Hội thánh hiệp hành
SỐNG CHIỀU KÍCH HOÁN CẢI VÌ MỘT HỘI THÁNH HIỆP HÀNH
An Bình, C.Ss.R.
Một Hội Thánh hiệp hành
Như đã biết, chủ đề của Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI (THĐGM XVI) là hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Ngoài sự mới mẻ của hạn từ “Chiesa sinodale – Hội Thánh hiệp hành”, nghĩa là “mọi thành phần trong Hội Thánh bước đi cùng nhau trên cùng một con đường”[1], thì các hạn từ còn lại xem ra quá quen thuộc với người Kitô hữu. Nhưng vì quá quen thuộc nên chúng ta dễ dàng tầm thường hóa chúng. Thiết nghĩ, để tránh việc biến những hạn từ này thành câu “khẩu hiệu” quen thuộc hay trở thành những câu chữ trên mặt giấy, chúng ta được mời gọi phải làm rõ mục đích của Thượng Hội đồng hơn là cố gắng giải thích chủ đề của Thượng Hội đồng. Chính ĐTC Phanxicô khẳng định, Thượng Hội đồng không phải để tạo ra các tài liệu, mà là để “gieo mầm ước mơ, làm sống lại tính ngôn sứ và tầm nhìn, làm trổ sinh niềm hy vọng, khơi dậy niềm tin, băng bó các vết thương, cùng nhau kiến tạo tương quan, đánh thức bình minh hy vọng, học hỏi lẫn nhau và tạo ra những hiệu ứng tích cực giúp khai mở trí tuệ, sưởi ấm trái tim, phục hồi sức mạnh đôi tay”[2]. Như vậy, Hội Thánh hiệp hành là một Hội Thánh “cùng nhau hành động, cùng nhau bước đi” chứ không phải “cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa các hạn từ”. Những câu hỏi được đặt ra và phải cùng nhau trả lời là: Làm sao để có được một Hội Thánh hiệp hành? Làm sao để thực hành tính hiệp thông, tham gia và sứ vụ? Chứ không phải giải thích và học hỏi tính hiệp hành, tính hiệp thông, tính tham gia và sứ vụ là gì?
Theo đó, ý định của Thượng Hội đồng là đặt Hội Thánh trong tình trạng lên đường, một Hội Thánh ở trạng thái “chuyển động”, chứ không phải “đứng yên”. Hay nói cách khác, một Hội Thánh mà trong đó, mọi thành phần cùng nắm tay, cùng bước đi, trên cùng một con đường như chính hạn từ “hiệp hành” định nghĩa. Hiệp hành không phải là đi trên cùng một con đường hiểu theo nghĩa kẻ trước người sau và giữa những người lữ hành không quen biết nhau, không liên hệ đến nhau và không thuộc về nhau. Nhưng hiệp hành nghĩa là tôi biết rõ người bên cạnh tôi là ai, hoàn cảnh của người đó như thế nào? Tôi cũng biết mối liên hệ và ràng buộc giữa tôi và những người đồng hành với tôi. Trong hành trình cùng nhau đó, mọi người đóng vai là những người lữ hành, không phân biệt tư tế thừa tác (phẩm trật) hay tư tế phổ quát, trí thức hay bình dân, giàu sang hay nghèo khổ, lành mạnh hay bệnh tật, cao niên hay mới sinh và đảm bảo rằng mọi người được tôn trọng phẩm giá như nhau và không một ai bị bỏ lại phía sau. Hơn thế nữa, trên quãng đường cùng đi giữa những người lữ hành phải làm phát sinh sự quan tâm, nâng đỡ, đối thoại, đồng cảm, thấu hiểu và bình đẳng với nhau.
Đích điểm cuối cùng của Thượng Hội đồng là làm cho Hội Thánh tiến gần hơn tới chiều kích viên mãn của mình. Với những người lữ hành, hành trang họ mang theo là nhu yếu phẩm cần thiết để duy trì hành trình. Thì cũng vậy, tiến trình Thượng Hội đồng cần phải chuẩn bị cho mình hành trang cần thiết để đảm bảo rằng, mọi người đều có thể đạt tới đích điểm cuối cùng. Hành trang đó không gì khác hơn đó là đời sống cầu nguyện. Vì, ngang qua cầu nguyện, chúng ta mời và cho phép Đức Kitô cùng đi với chúng ta và đặt Ngài vào vị trí Người Dẫn Đường. Và do đó, trong hành trình “hiệp hành” giữa tôi và bạn, hay giữa hai đối tượng bất kỳ, không chỉ có hai người cùng đi mà là ba: tôi, bạn và Đức Kitô. Nếu chúng ta không cho phép Đức Kitô “hiệp hành” với chúng ta, coi chừng chúng ta đang đi chệch hướng. Đó cũng là tiến trình của Thượng Hội đồng hướng tới, chúng ta bước đi cùng nhau và cùng với Đức Kitô trên cùng một con đường.
Thiết nghĩ, để bước vào tiến trình của Thượng Hội đồng và hiện thực hóa chủ đề mà Thượng Hội đồng đã đề nghị, thì lời mời gọi đầu tiên dành cho mọi thành phần Dân Chúa là lời mời gọi hoán cải: hoán cải để trở về với con người thật của mình; hoán cải để quyết tâm thay đổi đời sống; hoán cải để mở ra một hướng đi và thiết lập mối tương quan mới; hoán cải để có cảm thức thuộc về nhau và hoán cải để cùng nhau sống sự hiệp thông, tham gia và sứ vụ trong Hội Thánh.
Hoán cải là gì?
Ba nhà đạo sĩ trong câu chuyện Tin Mừng (x. Mt 2,1-12) sẽ chỉ cho chúng ta câu trả lời hoàn hảo: hoán cải là thay đổi lối đi. Thật vậy, sau khi được thỏa mãn khao khát gặp gỡ Vua Dân Do Thái, các ông tiến dâng cho Ngài những gì quý giá nhất và sau đó đã đi lối khác mà trở về quê hương mình (x. Mt 2,12). Một điểm đáng chú ý, các ông không thể tự mình thay đổi lối đi, nhưng cần có sự tác động và sự chỉ dẫn của Thiên Chúa. Như vậy, hoán cải luôn là một đòi hỏi kép, một đàng chính chủ thể dấn thân gặp gỡ Thiên Chúa và đàng khác là biến đổi đời sống. Chúng ta chỉ chắc chắn mình đã gặp gỡ Đức Kitô khi hướng đi của cuộc đời: suy nghĩ, hành động, lối sống, tâm trí và con tim của chúng ta được biến đổi.
Tại sao phải hoán cải?
Trong Tin Mừng, thánh sử Mác-cô thuật lại cho chúng ta việc Đức Giêsu chữa lành người bị bại tay (Mc 3,1-6). Chúng ta thấy gì nơi những người Pha-ri-sêu? “Họ rình xem Đức Giêsu có chữa người ấy trong ngày sa-bát không để tố cáo Người” (c.2). Nghĩa là họ không hướng ánh nhìn vào người đang chịu đau khổ đang hiện diện trước mặt, mà họ tập trung vào hành động và lời nói của Đức Giêsu để bắt bẻ Người. Chúng ta cũng có thể là những người “Pha-ri-sêu thời đại mới”, nếu chúng ta không có cái nhìn của Đức Giêsu, tức là cái nhìn hướng đến nỗi đau của người khác. Trong tiến trình Thượng Hội đồng, nếu chưa có sự hoán cải, nghĩa là chưa thay đổi toàn bộ con người mình cả về cách suy nghĩ lẫn hành động, cả về lối sống lẫn con tim, chúng ta có nguy cơ trở thành những “Pha-ri-sêu khác”. Khi đó, trong sự gặp gỡ, lắng nghe, thay vì để thấu hiểu và đồng cảm lẫn nhau, chúng ta lại biến chúng thành cơ hội để chỉ trích và lên án những lầm lỗi, những thiếu sót và thậm chí cả tội lỗi của nhau. Hệ quả là phân định chỉ dừng lại ở việc “rút kinh nghiệm” chứ không phải là tìm một hướng đi mới cho hành trình của Hội Thánh dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Nhưng thay vào đó, nếu có sự hoán cải, thì trong những cuộc gặp gỡ, lắng nghe và phân định, chúng ta sẽ mang lấy cái nhìn của Đức Giêsu. Chúng ta tập trung vào những thương tích, những gánh nặng, những khổ đau của nhau, không bỏ rơi nhưng cam kết đồng hành với nhau. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta không thể lãng quên quá khứ, nó là một phần tất yếu của cuộc sống, nhưng thay vì nhìn về quá khứ để than vãn, trách móc và nuối tiếc chúng ta hãy nghĩ về tương lai trong sự quyết tâm cùng nhau thay đổi. Hoán cải là để tìm về lại với con người thật của mình, trong sự mỏng giòn, yếu đuối, nhưng riêng biệt, không lặp lại. Chỉ khi nào chúng ta kinh nghiệm được sự bất toàn, sự giới hạn và cả tội lỗi của mình, chúng ta mới hy vọng có một con tim biết chạnh thương trước nỗi đau của người khác. Như vậy, nhờ sự hoán cải chúng ra dễ dàng cảm thông, chia sẻ, sẵn sàng gánh lấy trách nhiệm cùng nhau và tìm cách chữa lành những vết thương cho nhau.
Nếu như chưa có sự hoán cải mà đã đi vào sự hiệp thông, sự tham gia và sứ vụ thì chúng ta cũng có nguy cơ rơi vào tình trạng bi đát mà Tin Mừng cảnh báo: “Rượu mới mà đổ vào bầu da cũ thì rượu sẽ làm nứt bầu, rượu sẽ chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu da mới” (x. Lc 5, 37-38). Tinh thần của Thượng Hội đồng được ví nhưng một “làn gió” mới mẻ và tươi mát thổi vào đời sống của Hội Thánh, để canh tân Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Kitô. Hội Thánh không phải là một tổ chức hành chính, nhưng là một cơ cấu có phẩm trật, nơi đó mỗi người Kitô hữu là một chi thể, và mọi chi thể dính dự và liên đới với nhau. Công Đồng Vatican II xác định: “Trong Hội Thánh, mọi người bình đẳng với nhau về phẩm giá nhưng mỗi người có bổn phận khác nhau tùy theo bậc sống của mình” (LG, #32). Phẩm trật sinh ra trong Hội Thánh là để phục vụ và giữ gìn, chứ không phải để quản trị hiểu theo nghĩa trần thế. Giờ đây, Hội Thánh với sự đa dạng nhưng duy nhất của mình cùng nắm tay nhau bước đi trên cùng một con đường – con đường mang tên Giêsu. Điều đó cũng có nghĩa là giờ đây không còn chuyện “của tôi”, chuyện “của bạn”, chuyện “của anh ta”, chuyện “của họ”, chuyện “của Giáo Hoàng, của các giám mục, của các linh mục” nhưng là chuyện “của chúng ta”. Hội Thánh là của mỗi chúng ta, những người đã được chịu Phép Rửa trong Đức Kitô. Hội Thánh không thuộc về con người cách thuần túy, nhưng thuộc về chính Đức Kitô, Đấng là Đầu và là Người Dẫn Đường. Vì thế, chúng ta không được “thay thế”, nghĩa là làm mọi sự hoàn toàn theo ý riêng của mình, vai trò dẫn dắt Hội Thánh, nhưng hãy để Thần Khí của hướng dẫn và hành động trong chúng ta. Điều cần thiết là chúng ta cần có sự nhạy bén và khôn ngoan để lắng nghe sự mách bảo của Ngài. Vì thế, tinh thần mới mẻ đó của Thượng Hội đồng không thể được thổi vào những tâm hồn vẫn còn ở lại mãi trong con người cũ của mình, nhưng phải là những con người đã được hoán cải, nghĩa là đã được đổi mới tâm trí và con tim. “Rượu mới” đã sẵn sàng thì đòi hỏi “bình” cũng phải mới. Khi được đổi mới, người ta mới sẵn sàng đi vào sự hiệp thông, tham gia và sứ vụ một cách tích cực và hứng khởi. Vì cái tôi và con người cũ đã bị bỏ lại sau lưng, giờ đây tôi chỉ hướng về phía trước, chỉ nghĩ về cái chung – cái của chúng ta, với một tinh thần lạc quan và xây dựng, tràn đầy niềm vui và hy vọng. Hoán cải để có được cảm thức thuộc về. Tôi không chỉ thuộc về gia đình tôi, giáo xứ tôi, hội dòng tôi mà giờ đây tôi và bạn thuộc về Hội Thánh của chúng ta, cũng là Hội Thánh của Đức Kitô. Trong đó, mỗi người là một thành phần không thể thay thế.
Những ai cần hoán cải?
ĐTC Phanxicô nhận định: “Bước đi cùng nhau, cả Giáo dân, Mục tử, Giám mục Rôma, là một ý niệm dễ diễn tả bằng lời, nhưng không dễ để đưa ra thực hành”[3]. Do đó, để có thể cùng nhau hiệp hành một cách tự do thì mọi thành phần dân Chúa, từ Giáo Hoàng đến giáo dân, ở cấp độ cá nhân hay tập thể, đều được mời gọi hoán cải. Mỗi cá nhân được mời gọi duyệt xét và làm mới lại mối tương quan của mình với Thiên Chúa, với tha nhân, với vũ trụ vạn vật và với chính mình. Mỗi gia đình, hội đoàn, giáo xứ, cộng đoàn dòng tu cũng hoán cải về chính ơn gọi, bổn và sứ vụ của mình. Và cuối cùng, mỗi vị mục tử được giao trách nhiệm chăm sóc và gìn giữ Hội Thánh cũng cần phải hoán cải vai trò mục tử của mình.
Làm sao để hoán cải?
Như đã nói ở trên, hoán cải luôn là một đòi hỏi kép: gặp gỡ Thiên Chúa và biến đổi chính mình. Bước đầu tiên của việc hoán cải là mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi giáo xứ, mỗi giáo phận và toàn thể Hội Thánh phải đích thân gặp gỡ Thiên Chúa. Hãy để cho Đức Kitô đụng chạm vào những “vết thương” của chúng ta và cho phép Ngài chữa lành chúng. Mẹ Hội Thánh cung cấp nhiều cách thế khác nhau giúp con cái mình được gặp gỡ Thiên Chúa, nhưng cách hữu hiệu nhất là Lời của Ngài và các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể. Bởi vì, Lời Chúa thì có khả năng chất vấn, thức tỉnh và làm biến đổi lương tâm; Lời Chúa thì có sức mạnh giúp chúng ta vượt qua những cám dỗ của thế gian và xác thịt; Lời Chúa là kim chỉ nam cho những suy nghĩ và hành động của chúng ta. Còn bí tích Thánh Thể, không những Ngài là Thần Lương nuôi dưỡng xác hồn, nhưng Ngài còn sẵn sàng lắng nghe và chuyện trò với con người. Ngài ở bên cạnh ta, Ngài ở trong ta ngay cả trong những hoàn cảnh bi thương, đau khổ nhất. Vì vậy, chúng ta cần chạy đến với Ngài để được Ngài hướng dẫn và chở che.
Sau khi đã gặp gỡ được Chúa, chúng ta hãy can đảm làm theo sự chỉ dẫn của Ngài, như ba nhà đạo sĩ, hãy “bước sang lối khác mà đi”, đừng trở về lối mòn trước đây nữa. Nghĩa là sẵn sàng khước từ những thói quen không phù hợp với tinh thần Tin Mừng và can đảm nhận lấy những nhiệm vụ mới mà Đức Kitô mời gọi.
Thay lời kết
Chính Đức Giêsu, ngay sau khi công khai sứ vụ rao giảng, điều đầu tiên Ngài hướng đến dân chúng là lời mời gọi sám hối, thay đổi đời sống và tin vào Tin Mừng (x. Mc 1, 15). Cũng vậy, Hội Thánh đang khởi đầu tiến trình hiện thực hóa THĐGM XVI, lời mời gọi hoán cải vẫn rất quan trọng và mang tính cấp thiết đối với mọi người. Hoán cải để hiểu nhau, hoán cải để đón nhận nhau và hoán cải để bước đi cùng nhau. Khi có sự hoán cải thì Thượng Hội đồng không là nơi để bày tỏ chính kiến của cá nhân và tìm kiếm sự đồng thuận của số đông, nhưng là nơi thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện. Hay nói theo ngôn ngữ của linh mục Luigi Maria Epicoco:“Thượng Hội đồng không dành cho những người bỏ phiếu hay biểu lộ ý kiến, nhưng là nơi dành cho những người chuyên cần cầu nguyện”[4]. Đức Hồng Y Grech, Tổng thư ký THĐGM, trong một bài phỏng vấn với báo Vatican News cũng bày tỏ: “Tôi mơ về thời điểm chúng ta sẽ không cần bỏ phiếu trong Thượng Hội đồng nữa, bởi vì chúng ta có thể hiểu nhau mà không cần tới đa số hay thiểu số”[5]. Khi chúng ta nghĩ về một Thượng Hội đồng không cần bỏ phiếu, thì cũng đồng nghĩa mỗi nghị viên đã được gặp Chúa, đã được hoán cải và được hướng dẫn bởi một Thần Khí duy nhất. Ước mong sao trong thời gian diễn ra Thượng Hội đồng, mọi thành phần Dân Chúa ý thức đầy trách nhiệm về căn tính và ơn gọi của mình, can đảm làm một cuộc hoán cải tận căn để cùng nắm tay nhau, cùng bước bên nhau trên Con Đường Giêsu tiến về quê hương vĩnh cửu.
[1] x. Ủy ban Thần học quốc tế, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, các số 3-5.
[2] ĐTC Phanxicô, Diễn từ khai mạc Thượng Hội đồng về giới trẻ năm 2018, https://www.vatican.va/content/francesco/it/speeches/2018/october/documents/papa-francesco_20181003_apertura-sinodo.html
[3] ĐTC Phanxicô, Diễn từ kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội đồng giám mục, https://www.vatican.va/content/francesco/it/speeches/2015/october/documents/papa-francesco_20151017_50-anniversario-sinodo.html
[4] Luigi Maria Epicoco, Bài viết trên báo Quan Sát Viên Roma, https://www.osservatoreromano.va/it/news/2021-10/quo-230/il-sinodo-e-dei-poeti-e-di-chi-prega.html
[5] Đức Hồng y Grech, Trả lời phỏng vấn với báo Vatican News, https://www.vaticannews.va/it/vaticano/news/2021-09/sinodo-vescovi-grech-intervista-documento-preparatorio.html
2022
Sứ điệp cho Ngày Thế giới Bệnh nhân lần thứ 30 (11.02.2022)
“Hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Ðấng nhân từ ( Lc 6, 36); Đứng bên người đau khổ trên nẻo đường Đức ái” là chủ đề của Sứ điệp Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Ngày Thế giới Bệnh nhân lần thứ 30, sẽ được cử hành tại Roma vào ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức 11.02.2022. Sau đây là toàn văn nội dung Sứ điệp của Đức Thánh Cha.
“Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em Ðấng nhân từ” (Lc 6, 36).
Đứng bên người đau khổ trên nẻo đường đức ái
Anh chị em thân mến,
Cách đây 30 năm, Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập Ngày Thế giới Bệnh Nhân để khuyến khích dân Chúa, các tổ chức y tế Công giáo và xã hội dân sự lưu tâm đến bệnh nhân và những người chăm sóc họ.[1]
Chúng ta tạ ơn Chúa vì những tiến bộ đạt được trong những năm gần đây trong các Giáo hội địa phương trên toàn thế giới. Đã có nhiều bước tiến, nhưng vẫn còn một chặng đường dài phía trước để đảm bảo rằng tất cả mọi bệnh nhân, ngay cả những người sống ở những nơi, những hoàn cảnh đói nghèo cùng cực và bị loại ra bên lề, đều nhận được sự chăm sóc sức khỏe mà họ cần, cũng như sự chăm sóc mục vụ, để giúp họ trải nghiệm bệnh tật trong sự kết hợp với Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh. Ước mong Ngày Thế giới bệnh nhân lần thứ 30 năm nay – dù vì đại dịch, nên không thể diễn ra tại thành phố Arequipa ở Peru như dự kiến nhưng tại Đền thờ thánh Phêrô ở Vatican – giúp chúng ta gia tăng sự gần gũi và phục vụ bệnh nhân và gia đình của họ.
- Thương xótnhư Chúa Cha
Chủ đề được chọn cho Ngày Thế giới lần thứ 30 này, “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Ðấng nhân từ” (Lc 6, 36), mời chúng ta, trước hết hãy hướng nhìn lên Chúa, Đấng “giàu lòng thương xót” (Ep 2, 4); Đấng luôn đoái nhìn đoàn con bằng tình yêu thương của một người cha, ngay cả khi chúng quay lưng với Ngài. Thương xót là danh xưng hoàn hảo của Thiên Chúa; thương xót, không hiểu như một tình cảm ủy mị nhất thời mà là một động lực luôn hiện hữu và tích cực, diễn tả chính bản tính của Thiên Chúa. Lòng thương xót kết hợp cả sức mạnh và sự dịu dàng. Đây là lý do tại sao chúng ta có thể nói, với sự ngạc nhiên và biết ơn rằng, lòng thương xót của Thiên Chúa bao gồm cả tình phụ tử lẫn tình mẫu tử. (x Is 49, 15). Thiên Chúa chăm sóc chúng ta bằng sức mạnh của một người cha và bằng sự dịu dàng của một người mẹ; Ngài luôn mong muốn ban cho chúng ta sự sống mới trong Thánh Thần.
- Chúa Giêsu, lòng thương xót của Chúa Cha
Chứng nhân tối cao cho tình yêu thương xót của Chúa Cha dành cho bệnh nhân là Con Một của Ngài. Biết bao lần các sách Phúc âm kể lại những lần gặp gỡ của Chúa Giêsu với những người mắc nhiều chứng bệnh khác nhau! Người “đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân.” (Mt 4, 23). Chúng ta cũng nên tự hỏi tại sao Chúa Giêsu lại tỏ ra quan tâm đến những người đau yếu như vậy, đến nỗi Người coi đó là điều tối quan trọng trong sứ mạng của các tông đồ, những người được Thầy sai đi loan báo Tin Mừng và chữa lành những người đau yếu (x. Lc 9, 2).
Một nhà tư tưởng của thế kỷ XX gợi ý cho chúng ta một lý do: “Đau đớn là sự cô lập tuyệt đối và chính từ sự cô lập tuyệt đối này làm nảy sinh nhu cầu thu hút người kia, kêu gọi người kia”.[2] Khi một người trải qua sự yếu đuối và đau đớn trong thân xác của mình vì bệnh tật, trái tim họ trở nên nặng trĩu, nỗi sợ hãi lan rộng, những bất ổn nhân lên, và những câu hỏi về ý nghĩa của những gì đang xảy ra trong cuộc sống của họ trở nên cấp thiết hơn. Về vấn đề này, làm sao chúng ta có thể quên được rất nhiều bệnh nhân, những người trong thời gian đại dịch này, đã trải qua chặng cuối cùng của cuộc đời trần thế trong cô đơn, tại một phòng chăm sóc đặc biệt, tuy được các nhân viên y tế tận tình chăm sóc, nhưng lại phải xa cách những người thân yêu, và những người quan trọng nhất trong cuộc đời của họ? Điều này giúp chúng ta thấy quan trọng biết chừng nào sự hiện diện của những chứng nhân về lòng nhân từ của Thiên Chúa bên cạnh chúng ta, họ là những người, theo gương Chúa Giêsu là chính lòng thương xót của Chúa Cha, đổ dầu an ủi và rượu hy vọng lên vết thương của bệnh nhân.[3]
- Chạm vào thân xác đau khổ của Đức Kitô
Lời mời gọi của Chúa Giêsu hãy có lòng nhân từ như Chúa Cha có ý nghĩa đặc biệt đối với các nhân viên y tế. Tôi nghĩ đến các bác sĩ, y tá, kỹ thuật viên phòng thí nghiệm, trợ lý và nhân viên chăm sóc bệnh nhân, cũng như rất nhiều tình nguyện viên đã dành thời gian quý báu của họ để giúp đỡ những người đau khổ. Các nhân viên y tế thân mến, việc phục vụ của các bạn bên cạnh bệnh nhân, được thực hiện bằng tình yêu và năng lực, vượt qua ranh giới của nghề nghiệp và trở thành một sứ mạng. Bàn tay của các bạn, chạm vào da thịt đau khổ của Chúa Kitô, có thể là dấu chỉ của bàn tay nhân từ của Chúa Cha. Hãy nhớ đến phẩm giá cao cả của nghề nghiệp của các bạn, cũng như trách nhiệm mà nghề này đòi hỏi.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa về những tiến bộ mà y khoa đã đạt được, nhất là trong thời gian gần đây; những công nghệ mới đã giúp thiết lập các liệu pháp mang lại lợi ích to lớn cho bệnh nhân; nghiên cứu tiếp tục đóng góp có giá trị trong việc đánh bại các bệnh lý cũ và mới; y học phục hồi chức năng đã mở rộng rất nhiều về chuyên môn và kỹ năng. Tuy nhiên, tất cả những điều này không bao giờ được phép khiến chúng ta quên đi tính độc nhất, phẩm giá và sự yếu đuối của từng bệnh nhân.[4] Người bệnh luôn quan trọng hơn căn bệnh của họ, và đó là lý do tại sao bất kỳ phương pháp điều trị nào cũng không thể bỏ qua việc lắng nghe bệnh nhân, câu chuyện của họ, những lo lắng và sợ hãi của họ. Ngay cả khi không thể chữa lành, vẫn luôn có thể chăm sóc. Luôn có thể an ủi, luôn có thể làm cho người ta cảm nhận được sự gần gũi, đó là quan tâm đến chính con người hơn là đến bệnh lý của họ. Vì lý do này, tôi hy vọng rằng các khóa đào tạo nhân viên y tế có thể giúp họ phát triển khả năng lắng nghe và tương tác với người khác.
- Các trung tâm chăm sóc, “ngôi nhà của lòng thương xót“
Ngày Thế giới Bệnh nhân cũng là một dịp thuận lợi để tập trung sự chú ý của chúng ta vào các trung tâm chăm sóc. Qua nhiều thế kỷ, việc bày tỏ lòng nhân ái đối với bệnh nhân đã khiến cộng đoàn Kitô mở ra vô số “những nhà trọ của người Samaritanô nhân hậu”, nơi mà những bệnh nhân thuộc mọi loại bệnh tật có thể được chào đón và chăm sóc, cách riêng những người không được đáp ứng những nhu cầu sức khỏe vì nghèo túng hoặc bị xã hội loại trừ hoặc do những khó khăn liên quan đến việc điều trị một số bệnh lý nhất định. Trong những tình huống này, trẻ em, người già và những người yếu đuối nhất thường phải hứng chịu hậu quả. Nhân từ như Chúa Cha, vô số các nhà truyền giáo đã kết hợp việc rao giảng Tin Mừng với việc xây dựng bệnh viện, trạm xá và nhà dưỡng lão. Đây là những phương thế quý giá nhờ đó đức ái Kitô giáo được thành hình và tình thương của Đức Kitô, mà các môn đồ của Người làm chứng, trở nên đáng tin hơn. Tôi đặc biệt nghĩ đến những người ở những khu vực nghèo nhất trên hành tinh của chúng ta, nơi mà đôi khi phải đi một quãng đường dài để tìm các trung tâm điều trị, mặc dù với nguồn lực hạn chế, chỉ cung cấp được những gì sẵn có. Chúng ta vẫn còn một chặng đường dài để đi; tại một số quốc gia, việc tiếp cận với dịch vụ chăm sóc thích hợp vẫn còn là điều xa xỉ. Chúng ta thấy điều này, chẳng hạn, trong sự khan hiếm vắc-xin phòng chống Covid-19 tại các nước nghèo; nhưng hơn thế nữa, trong việc thiếu phương tiện điều trị cho những căn bệnh cần những loại thuốc đơn giản hơn nhiều.
Trong bối cảnh này, tôi muốn tái khẳng định tầm quan trọng của các cơ sở chăm sóc sức khỏe Công giáo: chúng là một kho tàng quý giá cần được bảo vệ và gìn giữ; sự hiện diện của những cơ sở này đã ghi dấu ấn trong lịch sử của Giáo hội, cho thấy sự gần gũi của Giáo hội với người bệnh tật và người nghèo, và với những tình huống bị người khác coi thường.[5] Có biết bao các vị sáng lập các gia đình Dòng tu đã lắng nghe tiếng kêu than của những anh chị em của họ, những người không được tiếp cận chăm sóc hoặc được chăm sóc kém, và đã hết mình hiến thân phục vụ họ!
Ngày nay cũng thế, ngay tại những nước phát triển nhất, sự hiện diện của các trung tâm y tế này là một phúc lành, vì ngoài việc chăm sóc thể lý với các kiến thức chuyên môn cần thiết, họ luôn có thể cống hiến món quà của đức ái, tập trung vào bản thân người bệnh và gia đình của họ. Trong thời đại mà văn hóa vứt bỏ lan tràn và sự sống không phải lúc nào cũng được nhìn nhận là đáng được chào đón và sống, thì những cơ sở này, như “ngôi nhà của lòng thương xót”, có thể là mẫu mực trong việc bảo vệ và chăm sóc dành cho mọi sự sống, dù là mong manh nhất, ngay từ lúc khởi đầu cho đến khi kết thúc cách tự nhiên.
- Mục vụ thương xót: hiện diện và gần gũi
Trong suốt 30 năm qua, mục vụ chăm sóc sức khỏe cũng được coi là sự phục vụ không thể thiếu và ngày càng được nhìn nhận. Nếu sự phân biệt đối xử tồi tệ nhất mà người nghèo phải gánh chịu – kể cả người đau bệnh, tức là nghèo về sức khỏe – là sự thiếu quan tâm về mặt thiêng liêng, thì chúng ta không thể không cống hiến cho họ sự gần gũi của Thiên Chúa, phúc lành và Lời của Người, cũng như việc cử hành các Bí tích và cơ hội cho một hành trình tăng trưởng và trưởng thành trong đức tin.[6] Về vấn đề này, tôi muốn nhắc nhở mọi người rằng việc gần gũi với bệnh nhân và chăm sóc mục vụ dành cho họ không chỉ là nhiệm vụ của một số thừa tác viên được chỉ định cụ thể; việc thăm viếng bệnh nhân là một lời mời mà Chúa Kitô ngỏ với tất cả các môn đệ. Có biết bao bệnh nhân và biết bao người già đang sống tại nhà và chờ người đến thăm! Thừa tác vụ an ủi là bổn phận của mỗi người đã được rửa tội, hãy tâm niệm lời của Chúa Giêsu: “Ta đau yếu, các ngươi đã thăm Ta” (Mt 25, 36).
Anh chị em thân mến, tôi xin phó thác tất cả các bệnh nhân và gia đình của họ cho lời chuyển cầu của Mẹ Maria, Đấng cứu kẻ liệt kẻ khốn. Ước gì nhờ hiệp nhất với Đức Kitô, Đấng gánh chịu nỗi đau của thế giới, họ có thể tìm được ý nghĩa, sự an ủi và niềm tín thác. Tôi cầu nguyện cho các nhân viên y tế ở khắp nơi, rằng, với đầy lòng nhân ái, họ có thể trao tặng cho các bệnh nhân sự chăm sóc thích hợp, cùng với sự gần gũi huynh đệ của họ.
Tôi ưu ái ban phép lành Toà thánh cho tất cả mọi người.
Roma, Đền thờ thánh Gioan Lateran, ngày lễ Đức Mẹ Loreto 10/12/2021
PHANXICÔ
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: press.vatican.va (04.01.2022)
[1] X. Thánh Gioan Phaolô II, Thư gửi Đức hồng y Fiorenzo Angelini, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về mục vụ chăm sóc sức khỏe cho người lao động, để thành lập Ngày thế giới bệnh nhân (ngày 13.5.1992)
[2] E. Lévinas, «Une éthique de la souffrance», trong Souffrances. Corps et âme, épreuves partagées, biên tập bởi J.-M. von Kaenel, Autrement, Paris 1994, trang 133-135.
[3] X. Sách lễ Roma, Kinh tiền tụng chung VIII, Đức Giêsu Người Samaritanô nhân hậu.
[4] X. Diễn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô cho Liên đoàn quốc gia của các hội bác sĩ và nha sĩ Ý, ngày 20.9.2019
[5] X. Kinh Truyền Tin từ bệnh viện Gemelli, Rome, ngày 11.7.2021.
[6] X. Tông huấn Evangelii Gaudium (ngày 24.11.2013), 200.