2022
Dây Pallium, biểu tượng của truyền thống và trách nhiệm
Dây Pallium, biểu tượng của truyền thống và trách nhiệm
Nhìn bề ngoài, dây Pallium dệt từ lông chiên chỉ là một trang phục nhẹ nhàng, nhưng đây lại là biểu tượng nhắc nhở các vị giáo hoàng và tổng giám mục về nhiệm vụ đi tìm và chăm sóc những con chiên lạc.
Hằng năm, vào lễ kính thánh Phêrô và Phaolô tông đồ, Đức Giáo Hoàng có truyền thống trao dây Pallium cho các vị tân TGM Chánh tòa. Dây Pallium là một loại trang phục bằng len giống khăn choàng màu trắng (pallium, tiếng Latinh nghĩa là “áo choàng”), bề ngang cỡ 3 ngón tay (khoảng 5cm), đeo trên vai vòng quanh cổ, với hai dải, một dải thả xuống phía trước ngực, một dải ở sau lưng. Trên dây Pallium của TGM có thêu 6 hình Thánh giá màu đen. Các TGM được mang dây Pallium khi cử hành nghi thức phụng vụ các nhà thờ trong Tổng Giáo phận của mình. Chỉ có Đức Thánh Cha mới được mang dây này ở mọi nơi mà ngài dâng lễ.
Mục tử nhân lành
Được làm bằng lông chiên, dây Pallium là biểu tượng cho con chiên lạc mà Chúa Giêsu vác trên vai và đem về nhà. Theo đó, hình ảnh các vị TGM mang dây Pallium mang ý nghĩa đây là những vị mục tử sẵn sàng dấn thân hy sinh, phục vụ đàn chiên của mình. Theo trang tin Aleteia, dây Pallium xuất hiện từ thế kỷ thứ 4, kể từ khi hoàng đế La Mã Constantine I công bố Sắc lệnh Milan, với nội dung chấp nhận Kitô giáo và bãi bỏ những trừng phạt đối với các Kitô hữu. Đến thế kỷ thứ 7, Đức Giáo Hoàng mới trao dây này cho các vị TGM. Và vào thế kỷ 11, các TGM phải xin phép Đức Thánh Cha trước khi mang Pallium. Điều này dẫn đến thông lệ hằng năm, các TGM mới nhậm chức từ khắp nơi trên thế giới cùng tề tựu về Rome và được Đức Giáo Hoàng trao dây Pallium, biểu tượng cho sự hiệp thông và trung thành của vị được nhận với người kế vị thánh Phêrô.
Dây Pallium giáo hoàng
Trước đây, dây Pallium giáo hoàng là loại đặc biệt, chỉ dùng trong ngày lễ đăng quang của các ngài. Tuy nhiên, vào ngày 3.9.1978, Đức Gioan Phaolô I đã đeo dây này thay vì đội mũ giáo hoàng, và sau đó, Đức Gioan Phaolô II cũng làm như người tiền nhiệm. Từ đó, các vị giáo hoàng bắt đầu sử dụng thường xuyên hơn dây Pallium trong các dịp lễ trọng. Ngoài ra, vào thời Đức Bênêđictô XVI, dây Pallium giáo hoàng dài đến 2,6m, rộng 11cm, cũng làm bằng lông cừu. Trên dây có gắn hình 5 dấu thập giá biểu tượng của 5 dấu đinh của Đức Kitô với 3 chiếc đinh cài tượng trưng cho 3 dấu đinh thập giá. |
Đến năm 2015, Đức Phanxicô công bố quyết định giáo hoàng sẽ không trực tiếp choàng dây Pallium cho các tân TGM. Thay vào đó, các vị vừa nhậm chức sẽ đến Rome tham dự thánh lễ kính thánh Phêrô và Phaolô tông đồ. Đức Thánh Cha sẽ làm phép cho các dây Pallium, sau đó trao tận tay các TGM. Kế đến, một buổi lễ long trọng sẽ được tổ chức ở Tổng Giáo phận để các vị chính thức được choàng dây này. Qua đó nhấn mạnh tầm quan trọng của các giáo phận và cho phép nhiều tín hữu được chung vui với sự kiện quan trọng của vị chủ chăn, bởi dây Pallium là biểu tượng cho quyền giám mục ở mức viên mãn, theo Wikipedia. Đồng thời, thông qua dây Pallium, sự hiệp thông giữa Tòa Thánh và Giáo hội địa phương càng thêm vững chắc.
Ý nghĩa sâu sắc
Pallium được làm từ lông của những con chiên đặc biệt được nuôi từ bàn tay của các tu sĩ thuộc dòng Luyện Tâm (Trappist) ở Tu viện Tre Fontane, còn gọi là Tu viện các thánh Vincent và Anastasius ở Rome. Theo truyền thống, hằng năm, Đức Giáo Hoàng làm phép cho hai con chiên chưa đầy 1 tuổi vào ngày lễ thánh Agnes ở Rome (21.1), do tên của vị thánh có điểm tương đồng với từ Latinh chỉ con chiên là agnus. Đến ngày Thứ Năm Tuần Thánh, lông cừu sẽ được lấy. Thánh Agnes tử đạo vào đầu thế kỷ thứ 4, được biết đến với sự thanh khiết trinh nguyên, đã bị giết hại khi mới 13 tuổi vì không chịu theo dị giáo. Nữ thánh được chôn ở Vương Cung Thánh Đường sau mang tên ngài. Để biểu trưng cho sự thanh khiết của thánh nữ, khi được giáo hoàng làm phép, một trong hai con chiên được choàng vòng hoa trắng, trong khi con còn lại đội vòng hoa đỏ nhằm tưởng nhớ sự tin tưởng vào đức tin cho đến lúc chết.
Các nữ tu dòng Biển Đức tại Vương Cung Thánh Đường Cecilia dùng lông chiên đã qua nhiều công đoạn xử lý, sau đó được làm phép, để dệt thành dây Pallium. Dây của TGM được tô điểm bởi 6 cây thánh giá làm từ sợi tơ màu đen, còn của giáo hoàng là 6 thánh giá đỏ. Các dây dệt xong sẽ được đặt trong chiếc hộp đồng, đặt gần ghế của thánh Phêrô, phía trên mộ ngài cho đến ngày được trao.
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã giúp các tín hữu hiểu rõ hơn về ý nghĩa của dây Pallium trong bài giảng đầu tiên sau khi ngài được mật nghị hồng y bầu chọn : “Biểu tượng của dây Pallium còn xa hơn thế : lông chiên đại diện cho những con chiên bị lạc bầy, gặp bất hạnh hoặc trong tình trạng ốm yếu được chủ chăn đặt trên vai và mang chúng đến nơi có nước hằng sống”. Vì thế, dây Pallium nói đến vai trò chủ chăn của TGM và nhắc nhở về “gánh nặng” mà Chúa Giêsu đã nhận lãnh khi từ bỏ vinh quang, xuống thế làm người. Hàm ý này càng được nhấn mạnh hơn nữa bởi sự hiện diện 6 thánh giá đen trên dây, nhắc nhở về sự tồn tại của những thánh giá mà TGM sẽ gánh vác để dẫn dắt cộng đoàn dân Chúa.
Một lần khác, Đức Bênêđictô XVI cũng đề cập dây Pallium trong bài giảng vào lễ thánh Phêrô và Phaolô tông đồ năm 2011 : “Dây Pallium mang ý nghĩa chúng ta cần phải là những người chăn chiên vì sự hiệp nhất, và trong sự hiệp nhất. Và chỉ trong sự hiệp nhất được đại diện bởi thánh Phêrô, chúng ta mới có thể dẫn dắt đàn chiên đến với Thiên Chúa”.
2022
Cha Stanley Jaki và sự giao thoa giữa khoa học và đức tin
Cha Stanley Jaki và sự giao thoa giữa khoa học và đức tin
Cha Stanley L. Jaki là linh mục dòng Biển Ðức người Mỹ gốc Hungary, người đã dành cả cuộc đời để viết về mối quan hệ giữa khoa học và đức tin Công giáo.
Năm 2018, trang tin về Công giáo Aleteia đã vinh danh cha Jaki là một trong 5 nhà khoa học Công giáo “đã nhào nặn nên sự hiểu biết của con người về thế giới này”. Những người còn lại là kinh sĩ Nicolaus Copernicus (phát minh thuyết nhật tâm), linh mục Gregor Mendel (cha đẻ của di truyền hiện đại), linh mục Giuseppe Mercalli (nhà nghiên cứu núi lửa và phát minh thước đo cường độ địa chấn) và linh mục Georges Lemaitre (cha đẻ thuyết Big Bang).
Học giả làm việc không mệt mỏi
Chào đời ở Gyor, Hungary vào năm 1924, từ nhỏ cha Jaki theo học tại các trường do dòng Biển Ðức quản lý. Ðến năm 1942, chàng thanh niên Jaki gia nhập dòng tu và trải qua thời gian tại đan viện Pannonhalma được xây dựng ở Hungary từ thế kỷ thứ 10. Sáu năm sau, thầy được truyền chức linh mục khi 24 tuổi. Năm 1950, cha Jaki nhận bằng tiến sĩ về thần học ở Viện Thánh Anselm của Giáo Hoàng tại Rome. Ngài chuyển đến Mỹ và bắt đầu bước vào con đường giảng dạy tại một chủng viện ở bang Pennsylvania. Thế nhưng, sự cố trong lúc phẫu thuật cắt amidan khiến vị linh mục tạm thời mất khả năng nói chuyện trong nhiều năm và không thể tiếp tục việc dạy học. Vì vậy, ngài quay về trường, tiếp tục nghiên cứu vật lý và cuối cùng lấy bằng tiến sĩ ngành này ở Ðại học Fordham, TP New York (Mỹ). Giáo sư hướng dẫn ngài là Victor F. Hess, người đoạt giải Nobel nhờ vào công trình phát hiện bức xạ vũ trụ (chỉ sự tồn tại của những chùm tia các hạt có năng lượng cao xuất phát từ vũ trụ và liên tục “dội bom” xuống Trái đất).
Sau đó, năm 1965, cha Jaki quay về công tác giảng dạy ở Ðại học Seton Hall tại TP South Orange, bang New Jersey, trên cương vị giáo sư vật lý, và gắn bó với trường này cho đến khi qua đời vào năm 2009. Bên cạnh hoạt động giảng dạy, cha Jaki là chuyên gia đi đầu trong lĩnh vực triết học khoa học và lịch sử khoa học, đặc biệt trong mối quan hệ giữa khoa học và Công giáo. Khi ngài được Chúa gọi về, trong cáo phó trên báo The New York Times, cha Jaki được gọi là “học giả làm việc không mệt mỏi” vì mục đích gầy dựng quan hệ giữa khoa học và đức tin. Cha là tác giả của 40 đầu sách, bao gồm các nghiên cứu về nhà thần học người Anh G.K. Chesterton và Ðức Hồng y John Henry Newman (vừa được Ðức Giáo Hoàng Phanxicô tuyên thánh vào năm ngoái).
Ðức tin và khoa học
Trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của vị linh mục có cuốn The Relevance of Physics (tạm dịch: Sự tương quan của vật lý) xuất bản vào năm 1966 và cuốn Science and Creation (Khoa học và Công trình Sáng tạo) năm 1974. Trong cả hai quyển sách này, cha Jaki “tranh luận rằng ngành khoa học không thể khả thi và duy trì sự tự chủ cho đến thời điểm tái sinh trong cộng đồng Kitô giáo thời Trung Cổ ở châu Âu, và sự phát triển của khoa học đã hỗ trợ, cho phép các Kitô hữu có thể hiểu được Ðấng Sáng Tạo”. Trong bài viết trên chuyên san Journal of Science and Religion năm 1967, ngài thậm chí còn đi xa hơn với tuyên bố rằng “đức tin tạo dựng nên nền tảng cuối cùng để con người nắm vững kiến thức khoa học”.
Trong những công trình sau này, cha Jaki khám phá ranh giới giữa khoa học và tôn giáo, và nhận định rằng cả hai tương thích và hỗ trợ lẫn nhau. Năm 1987, vị linh mục dòng Biển Ðức được trao giải thưởng Templeton, dành cho những nhân vật dấn thân trên con đường tìm về với Thiên Chúa.
2022
Chính phủ Ấn Độ phá huỷ tượng Chúa Giê-su cao 6 mét ở một làng Kitô giáo
Chính phủ Ấn Độ phá huỷ tượng Chúa Giê-su cao 6 mét ở một làng Kitô giáo
Các quan chức ở làng Gokunte thuộc bang Karnataka, phía tây nam Ấn Độ, đã phá huỷ một bức tượng Chúa Giê-su cao 6 mét đã được dựng lên từ 18 năm.
Chính quyền địa phương nói rằng pho tượng được xây dựng trên khu đất được dành làm đồng cỏ chăn nuôi và tuyên bố rằng Tòa án Tối cao đã ra lệnh phá dỡ tượng. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Kitô giáo trong khu vực nói rằng vụ việc vẫn chưa được giải quyết.
Cha Theres Babu, cũng là một luật sư, nói rằng các Kitô hữu không hề được xem bức thư ra lệnh phá dỡ tượng. “Chính quyền đã nhiều lần nói rằng công văn phá dỡ đã được ban hành. Chúng tôi đã yêu cầu chính quyền xuất trình lệnh phá dỡ. Không rõ đó có phải là một phán quyết hay không. Nhưng [quan chức chính phủ] không bao giờ cho chúng tôi xem lệnh.”
Pho tượng Chúa Giêsu được xây dựng bên cạnh nhà thờ thánh Phanxicô của làng Gokunte vào năm 2004. Theo dân làng, một vài thành viên của tổ chức ủng hộ Ấn giáo muốn gây căng thẳng trong khu vực và đã đệ đơn lên Tòa án tối cao.
Làng có khoảng 600 người, và tất cả đều là Công giáo, trừ bốn gia đình. Một giáo dân nói với nói với đài truyền hình địa phương rằng 400 đến 500 cảnh sát đã tham gia vào chiến dịch này. “Chúng tôi đã cầu nguyện tại tượng này từ năm 2004. Họ thậm chí không nghe chúng tôi và chỉ loại bỏ mọi thứ bằng cách sử dụng máy xúc đất.”
Người này nói thêm: “Mặc dù chúng tôi đã yêu cầu chính quyền [địa phương] dỡ bỏ pho tượng một cách an toàn và giao cho chúng tôi, nhưng tượng đã bị phá bỏ và mang đi bằng một chiếc máy kéo. Có khoảng 14 công trình kiến trúc nhỏ và một vòm cũng đã bị phá bỏ. Chúng tôi đã góp vốn và làm việc chăm chỉ để xây dựng tượng.”
Cha Ivel Mendanha, Bề trên giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế ở Mumbai, cho biết: “Đó thực sự là một khoảnh khắc đau đớn khi một bức tượng của Chúa Giêsu bị chính quyền địa phương dỡ bỏ khỏi mặt đất. Đây không chỉ là một bức tượng bất kỳ mà là một tượng của Chúa Giêsu. Các nhà chức trách có thể thể hiện sự hiểu biết, tôn trọng, tôn kính hơn bằng việc gặp các nhà lãnh đạo tôn giáo và yêu cầu thực hiện các việc cần thiết để di dời bức tượng khỏi khu đất nếu nó đúng lệnh của tòa án.” (Crux 19/02/2022)
Hồng Thủy
2022
ĐTC Phanxicô: Bài học về chiến tranh vẫn chưa được chú ý
ĐTC Phanxicô: Bài học về chiến tranh vẫn chưa được chú ý
Trong buổi tiếp kiến các thành viên tham dự khoá họp Toàn thể của Bộ các Giáo hội Công giáo Đông phương, hôm thứ Sáu 17/02, Đức Thánh Cha cảnh báo nhân loại vẫn chưa chú ý đến những thiệt hại do chiến tranh gây ra, đồng thời kêu gọi duy trì sự hiệp nhất trong phụng vụ.
Mở đầu bài phát biểu, Đức Thánh Cha nhắc đến ĐGH Biển Đức XV, người đã sáng lập Bộ các Giáo hội Công giáo Đông phương. Chính ngài đã tố cáo sự tàn khốc của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng lời cảnh báo này đã không được những người đứng đầu các quốc gia chú ý; điều tương tự cũng vậy đối với cuộc chiến tranh ở Iraq, họ cũng không chú ý đến lời kêu gọi ngăn chặn chiến tranh của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Đức Thánh Cha nhận xét rằng nhân loại tự hào về những tiến bộ đạt được trong lĩnh vực khoa học, trong tư tưởng và trong những điều tốt đẹp, nhưng đối với hoà bình thì lại đi lùi, điều này thật đáng xấu hổ. Ngài nói: “Nhân loại dường như vẫn đang dò dẫm trong bóng tối. Chúng ta đã chứng kiến những vụ thảm sát trong các cuộc xung đột tại Trung Đông, tại Syria và Iraq, những cuộc chiến tranh ở vùng Tigray ở Ethiopia; những luồng gió đe dọa đang còn thổi từ các thảo nguyên Đông âu, châm những ngòi nổ và những ngọn lửa vũ khí, làm cho con tim của người nghèo và những người vô tội trở nên giá lạnh. Trong khi đó thảm trạng Liban tiếp tục kéo dài làm cho bao nhiêu người không có bánh ăn, người trẻ và người trưởng thành đã đánh mất hy vọng và bỏ quê hương ra đi”.
Sau đó, nhắc đến việc các Giáo hội Công giáo Đông phương có cùng phụng vụ như các Giáo hội Chính thống và Chính thống Đông phương, Đức Thánh Cha cảnh báo nói: “về hình thức cử hành, tránh những chi tiết phụng vụ biểu hiện sự chia rẽ ở những điểm căn cốt với các Giáo hội tương ứng. Chúng ta không được quên rằng các anh chị em của các Giáo hội Chính thống và Chính thống Đông phương đang quan sát chúng ta. Ngay cả khi chúng ta không thể tham dự chung một bàn tiệc Thánh Thể, nhưng chúng ta dường như luôn cử hành và cầu nguyện với cùng một bản văn phụng vụ”. Vì thế, theo Đức Thánh Cha cần phải chú ý đến những thử nghiệm có thể gây hại cho hành trình tiến đến sự hiệp nhất hữu hình của tất cả các môn đệ Chúa Kitô. Thế giới cần chứng tá hiệp thông. Vì thế cố gắng tránh bất đồng trong tranh cãi liên quan đến phụng vụ.
Ngọc Yến