2023
Các tham dự viên Đại hội Thượng Hội đồng kết thúc 3 ngày tĩnh tâm
Thượng Hội đồng, các Phái đoàn Huynh đệ và các khách mời đặc biệt đã rời nhà tĩnh tâm Fraterna Domus ở Sacrofano để trở về Vatican, chuẩn bị cho Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng vào sáng thứ Tư 4/10/2023.
Sau Thánh lễ chiều thứ Ba 3/10/2023 do Đức cha Jaime Spengler, Tổng Giám mục của Porto Alegre, Brazil chủ sự, và sau cơm tối, lúc 9 giờ tối, các thành viên Thượng Hội đồng, các Phái đoàn Huynh đệ và các khách mời đặc biệt đã rời nhà tĩnh tâm Fraterna Domus ở Sacrofano để trở về Vatican, chuẩn bị cho Thánh lễ khai mạc Thượng Hội đồng vào sáng thứ Tư 4/10/2023.
Lắng nghe Chúa, lắng nghe nhau
Mở đầu bài giảng, Đức cha Spengler nói: “Trong những ngày này, chúng ta gặp nhau ở đây để kiến tạo sự hòa hợp hơn với Thánh Thần của Chúa: Người muốn nói với Giáo hội! Người luôn nói với Giáo hội! Tĩnh tâm, vào trong thinh lặng có nghĩa là lắng nghe tiếng nói của Thánh Linh”.
“Trong những thời gian gần đây, theo yêu cầu của Đức Thánh Cha, chúng ta cũng đã thực hiện một hành trình dài lắng nghe: lắng nghe cộng đoàn của chúng ta; lắng nghe người dân”.
Giáo hội là sự phản chiếu của Ba Ngôi Chí Thánh
Ngài nói thêm: “Chúng ta ở đây vì chúng ta được chọn! Được chọn để, trong sự hòa hợp với toàn thể Giáo hội, chúng ta có thể suy tư, suy niệm, cầu nguyện, đối thoại, xây dựng những đường lối khả thi để Giáo hội ngày càng trở thành sự phản chiếu của Ba Ngôi Chí Thánh: hiệp thông, sứ vụ và tham gia”.
Mở ra những chân trời hy vọng
Và Đức cha đưa ra những câu hỏi: “Đức tin Kitô giáo có còn chỗ trong xã hội ngày nay không? Cộng đồng đức tin có tìm được một vị trí và không gian trong nền văn hóa ngày nay không? Chúng ta nên sử dụng ngôn ngữ nào, cách nói nào để truyền tải thông điệp? Đâu là những trường hợp cần thiết để củng cố sự hiệp thông, sứ mạng và sự tham gia? Cần có những thừa tác vụ nào?”
Kết thúc bài chia sẻ ngắn, Đức cha Spengler khẳng định “Chúa ở cùng chúng ta! Với Người, chúng ta hiểu rằng nhiệm vụ của chúng ta là cố gắng “mở ra những chân trời hy vọng cho việc hoàn thành sứ mạng của Giáo hội”.
Quyền bính
Vào ban sáng, Cha giảng thuyết Timothy Radcliffe, dòng Đaminh, đã chia sẻ về hai chủ đề. Trước hết là về quyền bính, trong đó ngài nói rằng “quyền bính có tính đa dạng và tăng cường lẫn nhau. Không cần phải có sự cạnh tranh, như thể giáo dân chỉ có thể có nhiều quyền lực hơn nếu các giám mục có ít quyền lực hơn, hay những người gọi là bảo thủ cạnh tranh quyền lực với những người cấp tiến”.
“Trong Chúa Ba Ngôi không có sự cạnh tranh… Chúng ta sẽ lên tiếng với thẩm quyền đối với thế giới đã mất của mình nếu trong Thượng Hội đồng này chúng ta vượt qua những cách tồn tại kiểu cạnh tranh. Khi đó thế giới sẽ nhận ra tiếng của người mục tử kêu gọi họ đến với sự sống”.
Thần Khí của sự thật
Trong bài suy niệm cuối cùng, về chủ đề “Thần Khí của sự thật”, trong khi lưu ý rằng xã hội ngày nay sợ đối diện với sự thật, Cha Radcliffe khẳng định: “Nếu chúng ta để Thánh Thần chân lý hướng dẫn mình, chắc chắn chúng ta sẽ tranh luận, đôi khi nó sẽ rất đau đớn. Sẽ có những sự thật mà chúng ta không muốn đối diện. Nhưng chúng ta sẽ được dẫn sâu hơn một chút vào mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa và chúng ta sẽ biết niềm vui đến nỗi người ta sẽ ghen tị vì chúng ta có mặt ở đây và sẽ mong mỏi được tham dự phiên họp tiếp theo của Thượng Hội đồng!” (CSR_3853_2023).
Hồng Thủy – Vatican News
2023
ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ TRẢ LỜI CÁC NGHI VẤN CỦA 5 HỒNG Y
TRẢ LỜI CÁC NGHI VẤN CỦA 5 HỒNG Y
1. Nghi vấn liên quan đến khẳng định rằng Mặc khải của Thiên Chúa nên được diễn giải lại dựa trên những thay đổi về văn hóa và nhân chủng học hiện nay.
Tiếp theo những tuyên bố của một số giám mục, những điều chưa được sửa chữa cũng như chưa rút lại, chúng con tự hỏi liệu Mặc khải của Thiên Chúa có nên được diễn giải lại trong Giáo hội theo những thay đổi văn hóa của thời đại chúng ta và tầm nhìn nhân học mới được thúc đẩy bởi những thay đổi này hay không. Hoặc nếu, ngược lại, Mặc khải của Thiên Chúa là ràng buộc vĩnh viễn, bất biến và do đó không thể bị mâu thuẫn, theo Công đồng Vatican II, vốn khẳng định rằng “sự vâng phục bằng đức tin” phải được bày tỏ với Thiên Chúa, Đấng Mặc khải, (Dei Verbum 5); rằng những gì được mặc khải để cứu rỗi mọi dân tộc phải “mãi mãi nguyên vẹn và sống động”, và được “truyền lại cho mọi thế hệ” (7), và rằng sự tiến bộ về hiểu biết không bao hàm bất kỳ sự thay đổi nào về sự thật của sự vật và lời nói bởi vì đức tin “được truyền lại một lần cho tất cả” (8), và Huấn quyền của Giáo hội không cao hơn Lời Chúa, nhưng chỉ dạy những gì đã được truyền lại (10).
Trả lời cho Nghi vấn thứ nhất
a) Câu trả lời phụ thuộc vào ý nghĩa mà anh em gán cho từ “diễn giải lại”. Nếu nó được hiểu là “diễn giải tốt hơn” thì cách nói đó hợp lệ. Theo nghĩa này, Công đồng Vatican II đã khẳng định rằng điều cần thiết là với công việc của các nhà chú giải – và tôi muốn thêm vào các nhà thần học – “phán quyết của Giáo hội có thể thêm hoàn hảo” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum, 12).
b) Vì vậy, mặc dù sự thật là Mặc khải của Thiên Chúa là bất biến và luôn ràng buộc, nhưng Giáo hội phải khiêm tốn và nhận ra rằng mình không bao giờ hiểu hết sự phong phú khôn dò của Mặc khải và cần phải phát triển trong sự hiểu biết của mình.
c) Do đó, Giáo Hội cũng trưởng thành trong sự hiểu biết về những điều Giáo Hội đã khẳng định trong Huấn Quyền của mình.
d) Những thay đổi về văn hóa và những thách đố mới trong lịch sử không làm thay đổi Mặc khải nhưng có thể kích thích chúng ta diễn tả cách tốt hơn một số khía cạnh của sự phong phú tràn đầy của Mặc khải, điều luôn mặc khải nhiều hơn.
e) Thật không thể tránh khỏi rằng điều này có thể dẫn đến việc diễn đạt tốt hơn của Huấn quyền về một số tuyên bố trước đây, và quả thực, điều này đã xảy ra trong suốt lịch sử.
f) Một mặt, đúng là Huấn Quyền không cao hơn Lời Chúa, nhưng cũng đúng là cả các bản văn Kinh Thánh lẫn các chứng từ của Thánh Truyền đều cần sự giải thích để phân biệt bản chất vĩnh tồn của những điều này với các hoàn cảnh văn hóa. Ví dụ, điều này được thể hiện rõ ràng trong các bản văn Kinh Thánh (như Xuất hành 21,20-21) và trong một số can thiệp của huấn quyền nhằm dung túng chế độ nô lệ (Cf. Pope Nicholas V, Bull Dum diversas, 1452). Đây không phải là một vấn đề nhỏ vì nó có mối liên hệ mật thiết với chân lý ngàn đời về phẩm giá bất khả nhượng của con người. Những văn bản này cần được giải thích. Điều tương tự cũng áp dụng cho một số điều cân nhắc trong Tân Ước liên quan đến phụ nữ (1 Cr 11,3-10; 1 Tm 2,11-14) và các đoạn Kinh Thánh khác cũng như những chứng từ Truyền thống mà ngày nay không thể được lặp lại một cách cụ thể nguyên văn.
g) Điều quan trọng cần nhấn mạnh là điều không thể thay đổi chính là những gì đã được mặc khải “vì ơn cứu độ của mọi người” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Dei Verbum, 7). Vì vậy, Giáo hội phải không ngừng phân biệt giữa điều gì là cốt yếu cho ơn cứu độ và điều gì là thứ yếu hoặc ít liên quan trực tiếp hơn đến mục tiêu này. Về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại điều Thánh Tôma Aquinô đã khẳng định: “Càng đi sâu vào các vấn đề chi tiết, chúng ta càng thường xuyên gặp phải những điều bất tất” (Summa Theologiae I/II q. 94, art. 4).
h) Cuối cùng, một công thức đơn lẻ của chân lý không bao giờ có thể được hiểu một cách đầy đủ nếu nó được trình bày một cách cô lập, tách rời khỏi bối cảnh phong phú và hài hòa của toàn bộ Mặc khải. “Phẩm trật các chân lý” cũng bao hàm việc đặt mỗi chân lý trong mối liên hệ đúng đắn với các chân lý trung tâm và với toàn bộ giáo huấn của Giáo hội. Điều này cuối cùng có thể dẫn đến những cách khác nhau để trình bày cùng một học thuyết, mặc dù “đối với những ai ao ước có một tổng thể học thuyết đồng nhất buộc mọi người phải theo và không có chỗ cho những khác biệt, thì điều này có thể có vẻ không nên và có thể dẫn tới tình trạng hỗn độn. Nhưng trên thực tế, sự khác biệt có thể giúp làm sáng tỏ và phát triển các góc cạnh khác nhau trong sự phong phú vô tận của Tin Mừng” (Evangelii gaudium, 40). Mọi luồng thần học đều có những rủi ro nhưng cũng có những cơ hội.
2. Nghi vấn liên quan đến việc khẳng định rằng việc thực hành rộng rãi việc chúc lành cho các cặp đồng tính là phù hợp với Mặc khải và Huấn Quyền (CCC 2357).
Theo Mặc khải của Thiên Chúa, được chứng thực trong Kinh Thánh, mà Giáo hội “sốt sắng lắng nghe, cẩn trọng gìn giữ và trung thành trình bày theo lệnh truyền của Thiên Chúa và với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần” (Dei Verbum, 10): “Lúc khởi đầu,” Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Người, theo hình ảnh Thiên Chúa, Người đã tạo dựng họ; Người đã tạo dựng người nam và người nữ, và chúc lành cho họ sinh sôi nảy nở (x. St 1,27-28) và do đó, Thánh Tông đồ Phaolô dạy rằng phủ nhận sự khác biệt giới tính là hậu quả của việc phủ nhận Đấng Tạo Hóa (Rm 1,24-32). Chúng tôi tự hỏi liệu Giáo hội có thể đi chệch khỏi “nguyên tắc” này, trái ngược với những gì đã được dạy trong Veritatis splendor – Ánh quang Chân lý – số 103, như một lý tưởng đơn thuần, và chấp nhận những tình huống tội lỗi khách quan như “điều tốt có thể”, ví dụ như sự kết hợp của những người cùng giới tính, mà vẫn không rời xa giáo lý mặc khải?
Đức Thánh Cha trả lời nghi vấn thứ hai
a) Giáo hội hiểu rất rõ ràng về hôn nhân: một sự kết hợp độc nhất, ổn định và bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, một cách tự nhiên hướng đến việc sinh sản. Chỉ có sự kết hợp này mới có thể được gọi là “hôn nhân”. Các hình thức kết hợp khác chỉ thể hiện điều đó “một phần và tương tự” (Amoris Laetitia 292), vì vậy chúng không thể được gọi là “hôn nhân” theo nghĩa chặt.
b) Đây không chỉ là vấn đề tên gọi, nhưng thực tại mà chúng ta gọi là hôn nhân có một cấu tạo thiết yếu duy nhất đòi hỏi một cái tên độc quyền, không thể áp dụng cho các thực tại khác. Chắc chắn nó không chỉ là một “lý tưởng” đơn thuần.
c) Vì lý do này, Giáo hội tránh bất kỳ loại nghi thức hay bí tích nào có thể mâu thuẫn với xác tín này và khiến nghĩ rằng Giáo hội nhìn nhận là hôn nhân điều không phải là hôn nhân.
d) Tuy nhiên, trong các mối quan hệ của chúng ta với mọi người, chúng ta không được đánh mất lòng bác ái mục vụ, điều thấm nhuần mọi quyết định và thái độ của chúng ta. Việc bảo vệ sự thật khách quan không phải là biểu hiện duy nhất của lòng bác ái này, điều cũng bao gồm lòng tốt, sự kiên nhẫn, sự hiểu biết, sự dịu dàng và sự khích lệ. Vì vậy, chúng ta không thể là những thẩm phán chỉ phủ nhận, bác bỏ và loại trừ.
e) Do đó, sự khôn ngoan mục vụ phải phân định một cách thích đáng xem có những hình thức chúc lành nào, được một hoặc nhiều người yêu cầu, mà không truyền tải một quan niệm sai lầm về hôn nhân hay không. Vì khi cầu xin một phước lành, đó là bày tỏ lời cầu xin Thiên Chúa giúp đỡ, cầu xin để sống tốt hơn, tin tưởng vào một người Cha có thể giúp chúng ta sống tốt hơn.
f) Mặt khác, mặc dù có những tình huống, từ quan điểm khách quan, không thể chấp nhận được về mặt luân lý, nhưng cùng đức ái mục vụ đòi hỏi chúng ta không chỉ đơn giản coi những người khác là “tội nhân”, những người mà tội lỗi hoặc trách nhiệm của họ có thể được giảm nhẹ bởi các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến trách nhiệm chủ quan của họ (xem Thánh Gioan Phaolô l II, Reconciliatio et paenitentia, 17).
g) Những quyết định mà có thể là một phần của sự thận trọng mục vụ trong một số hoàn cảnh nhất định không nhất thiết phải trở thành một quy luật. Nghĩa là, sẽ không thích hợp nếu một Giáo phận, một Hội đồng Giám mục hoặc bất kỳ cơ cấu Giáo hội nào khác liên tục và chính thức cho phép các thủ tục hoặc nghi lễ đối với mọi loại vấn đề, bởi vì không phải mọi thứ “làm nên sự phân định thực tế trước những hoàn cảnh cụ thể đều có thể được nâng lên mức độ của một quy luật” vì điều này “sẽ làm nảy sinh một lối ngụy biện không thể chấp nhận được” (Amoris laetitia, 304). Giáo luật không nên và không thể bao gồm tất cả mọi thứ, và ngay cả các Hội đồng Giám mục với các tài liệu và nghi thức khác nhau của họ cũng thế, vì đời sống của Giáo hội thể hiện qua nhiều kênh khác ngoài các kênh quy phạm.
3. Nghi vấn liên quan đến khẳng định rằng tính hiệp hành là một “chiều kích cấu thành của Giáo hội” (Tông hiến Episcopalis communio, 6), đến mức Giáo hội về bản chất là có tính hiệp hành.
Xét rằng Thượng Hội đồng Giám mục không đại diện cho giám mục đoàn mà chỉ đơn thuần là cơ quan cố vấn của Giáo hoàng, vì các giám mục, với tư cách là những nhân chứng của đức tin, họ không thể uỷ thác việc tuyên xưng sự thật của họ, nên câu hỏi đặt ra là liệu tính hiệp hành có thể là tiêu chuẩn quy định tối cao của việc quản trị thường trực của Giáo hội mà không làm sai lệch cơ cấu cấu thành của Giáo hội hay không, điều mà Đấng sáng lập Giáo hội mong muốn, theo đó, thẩm quyền tối cao và đầy đủ của Giáo hội được thực thi bởi cả Giáo hoàng do chức vụ của ngài, và bởi Giám mục đoàn cùng với người đứng đầu của họ, là Đức Giáo hoàng (Lumen gentium, 22).
Đức Thánh Cha trả lời cho nghi vấn thứ ba
a) Vì rằng anh em thừa nhận rằng thẩm quyền tối cao và đầy đủ của Giáo hội được thực thi bởi Giáo hoàng do chức vụ của ngài và bởi giám mục đoàn cùng với người đứng đầu của họ là Đức Giáo hoàng (xem Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 22), với chính những câu hỏi này, anh em bày tỏ nhu cầu tham gia, tự do bày tỏ ý kiến của mình và cộng tác, qua đó yêu cầu một hình thức “hiệp hành” trong việc thi hành thừa tác vụ của tôi.
b) Giáo hội là một “mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo”, nhưng sự hiệp thông này không chỉ mang tính cảm xúc hay thoát tục; nó nhất thiết hàm ý sự tham gia thực sự. Không chỉ hàng giáo phẩm mà toàn thể Dân Chúa, bằng nhiều cách khác nhau và ở các cấp độ khác nhau, có thể khiến tiếng nói của họ được lắng nghe và cảm nhận là một phần của hành trình của Giáo hội. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng tính hiệp hành, như một phong cách và tính năng động, là một chiều kích thiết yếu của đời sống Giáo hội. Về điểm này, Thánh Gioan Phaolô II đã nói một số điều rất hay trong Tông thư Novo millennio ineunte – Khởi đầu Thiên niên kỷ mới.
c) Việc thần thánh hóa hoặc áp đặt một phương pháp hiệp hành cụ thể mà một nhóm yêu thích, biến nó thành một chuẩn mực và một con đường bắt buộc đối với mọi người, là một điều hoàn toàn khác, bởi vì điều này sẽ chỉ “đóng băng” hành trình hiệp hành, bỏ qua những đặc điểm khác nhau của các Giáo hội địa phương và sự phong phú đa dạng của Giáo hội hoàn vũ.
4. Nghi vấn liên quan đến sự ủng hộ của các mục tử và các nhà thần học đối với lý thuyết cho rằng “thần học của Giáo hội đã thay đổi”, và do đó, có thể ban bí tích truyền chức thánh cho phụ nữ.
Sau những tuyên bố của một số giám chức, vốn chưa được sửa chữa và cũng chưa được rút lại, cho rằng với Vatican II, thần học của Giáo hội và ý nghĩa của Thánh lễ đã thay đổi, người ta hỏi liệu điều Công đồng Vatican II nói có còn giá trị hay không, điều khẳng định rằng chức tư tế chung của các tín hữu và chức linh mục thừa tác khác nhau về bản chất chứ không chỉ ở cấp độ (Lumen gentium, 10), và rằng các linh mục, do “quyền năng thánh thiêng của bí tích truyền chức thánh để dâng hy lễ và tha tội” (Presbyterorum dinis, 2), hành động nhân danh và in persona (trong ngôi vị) Chúa Kitô Đấng Trung Gian, qua Người, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được nên hoàn hảo? Người ta cũng đặt câu hỏi liệu giáo huấn trong Tông thư Ordinatio sacerdotalis của Thánh Gioan Phaolô II có còn giá trị hay không, giáo huấn này dạy như một sự thật phải được thừa nhận một cách dứt khoát về việc không thể phong chức linh mục cho phụ nữ, để giáo huấn này không còn có thể thay đổi hay tự do thảo luận bởi các mục tử hoặc nhà thần học.
Đức Thánh Cha trả lời nghi vấn thứ tư
a) “Chức tư tế chung của các tín hữu và chức linh mục thừa tác khác nhau về bản chất” (Công đồng Vatican II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10). Thật không thích hợp khi khẳng định một sự khác biệt về cấp độ với hàm ý coi chức tư tế chung của các tín hữu như một thứ thuộc “hạng hai” hoặc có giá trị thấp hơn (“hạng thấp hơn”). Cả hai hình thức tư tế đều soi sáng và hỗ trợ lẫn nhau.
b) Khi Thánh Gioan Phaolô II dạy rằng chúng ta phải khẳng định “dứt khoát” việc không thể truyền chức linh mục cho phụ nữ, ngài không hề hạ thấp phụ nữ và trao quyền tối cao cho nam giới. Thánh Gioan Phaolô II còn khẳng định những điều khác. Chẳng hạn, khi chúng ta nói về thẩm quyền của linh mục, “chúng ta đang ở trong lĩnh vực chức năng chứ không phải trong phẩm giá và sự thánh thiện” (Thánh Gioan Phaolô II, Christifideles laici, 51), những từ ngữ mà chúng ta chưa đón nhận đầy đủ. Ngài cũng khẳng định rõ ràng rằng dù chỉ có linh mục chủ sự Thánh lễ, các nhiệm vụ “không có chỗ cho sự cao trọng của những người này hơn những người khác” (Thánh Gioan Phaolô II, Christifideles laici, ghi chú 190; xem Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên bố Inter insigniores, VI). Ngài cũng tuyên bố rằng nếu chức năng của linh mục là “có tính chất phẩm trật” thì không nên hiểu nó như một hình thức thống trị nhưng “hoàn toàn hướng tới sự thánh thiện của các phần tử của Chúa Kitô” (Thánh Gioan Phaolô II, Mulieris dignitatem, 27). Nếu điều này không được hiểu và những hệ quả thực tế không được rút ra từ những phân biệt này, thì sẽ khó chấp nhận rằng chức linh mục chỉ dành riêng cho nam giới và chúng ta sẽ không thể thừa nhận các quyền của phụ nữ hoặc sự cần thiết của họ để tham gia theo nhiều cách khác nhau trong sự lãnh đạo của Giáo hội.
c) Mặt khác, cách chính xác, chúng ta hãy thừa nhận rằng một đạo lý rõ ràng và có thẩm quyền về bản chất chính xác của một “tuyên bố dứt khoát” vẫn chưa được phát triển một cách thấu đáo. Đó không phải là một định nghĩa tín lý, tuy nhiên nó phải được mọi người tuân thủ. Không ai có thể công khai phủ nhận điều đó nhưng nó vẫn có thể là một chủ đề nghiên cứu, như trường hợp tính thành sự của việc truyền chức trong Liên hiệp Anh giáo.
5. Nghi vấn liên quan đến khẳng định rằng “ơn tha thứ là một quyền của con người” và việc Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến nghĩa vụ luôn luôn tha tội cho mọi người, do đó việc sám hối có thể không phải là điều kiện cần thiết cho việc giải tội của bí tích.
Chúng ta tự hỏi liệu giáo huấn của Công đồng Trentô có còn hiệu lực hay không, trong đó dạy rằng, để bí tích giải tội thành sự thì sự ăn năn thống hối của hối nhân, bao gồm việc ghét bỏ tội đã phạm với mục đích không tái phạm, là cần thiết (Phần XIV, Chương IV: DH 1676), do đó linh mục phải hoãn việc xá giải khi thấy rõ rằng điều kiện này không được đáp ứng.
Đức Thánh Cha trả lời nghi vấn thứ năm
a) Việc sám hối là cần thiết để bí tích giải tội có hiệu lực và hàm ý một quyết tâm không phạm tội. Nhưng ở đây không có toán học, và một lần nữa tôi phải nhắc anh em rằng tòa giải tội không phải là sở hải quan. Chúng ta không phải là những ông chủ nhưng là những người quản lý khiêm tốn của các Bí tích nuôi dưỡng các tín hữu bởi vì những hồng ân này của Chúa, hơn cả những thánh tích cần được bảo tồn, là những trợ giúp của Chúa Thánh Thần cho cuộc sống con người.
b) Có nhiều cách để bày tỏ sự ăn năn. Thông thường, đối với những người có lòng tự trọng bị tổn thương nặng nề, việc tuyên bố mình có tội là một cực hình tàn nhẫn, nhưng chính hành động đến tòa giải tội là biểu hiện của sự sám hối và tìm kiếm sự giúp đỡ của Chúa.
c) Tôi cũng muốn nhắc lại rằng trong việc chăm sóc mục vụ, “đôi khi chúng ta trả giá nhiều cho việc dành chỗ trong mục vụ cho tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa” (Amoris laetitia, 311), nhưng chúng ta phải học cách làm như vậy. Theo Thánh Gioan Phaolô II, tôi khẳng định rằng chúng ta không nên đòi hỏi các tín hữu những giải pháp sửa đổi quá chính xác và chắc chắn, những giải pháp mà cuối cùng trở nên trừu tượng hoặc thậm chí trở nên quá quan tâm đến chính mình, và ngay cả việc dự đoán về một sự sa ngã mới cũng “không gây hại đến tính chân thực của ý hướng” (Thánh Gioan Phaolô II, Thư gửi Đức Hồng Y William W. Baum và những người tham gia khóa học hàng năm của Tòa Ân Giải, ngày 22 tháng 3 năm 1996, 5).
d) Cuối cùng, phải làm rõ rằng tất cả các điều kiện thường gắn liền với việc xưng tội nói chung không được áp dụng khi một người đang ở trong tình trạng hấp hối, hoặc với khả năng trí tuệ và tâm lý rất hạn chế.
2023
Sứ điệp ĐGH nhân Kỷ niệm 180 năm thành lập Hội Thánh nhi
Sứ điệp ĐGH nhân Kỷ niệm 180 năm thành lập Hội Thánh nhi
Đức Thánh cha Phanxicô đề cao việc cầu nguyện và kể cả trợ giúp vật chất của các trẻ em, cho công cuộc loan báo Tin mừng và giúp đỡ các trẻ em nghèo trên thế giới.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây, trong sứ điệp ngắn công bố hôm ngày 01 tháng Mười vừa qua, lễ thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, nhân dịp kỷ niệm 180 năm thành lập Hội Thánh nhi, hay cũng gọi là Hội Giáo hoàng Nhi đồng Truyền giáo.
Trong sứ điệp, Đức Thánh cha nhắc lại lịch sử: ngày 19 tháng Năm năm 1843, Đức cha Charles de Forbin Janson, Giám mục Giáo phận Nancy bên Pháp, một mục tử có tâm hồn tông đồ nhiệt thành, đã thành lập hội này, sau khi được biết qua thư từ của các thừa sai người Pháp, có nhiều trẻ em nam nữ ở Trung Quốc, chết vì đói và bị bỏ rơi. Đức cha “rất lo âu cho phần rỗi của các em, không những về thể lý nhưng cả về tinh thần, vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết và sống lại để cứu rỗi tất cả mọi người”.
Chính từ tấm gương nhiệt thành đối với phần rỗi ấy, Hội Thánh nhi đã được khai sinh. Ngày nay, 180 năm sau, Hội “vẫn còn tích cực và sinh động, dạy cho bao nhiêu trẻ em và thiếu niên trên thế giới trở thành những môn đệ thừa sai”.
“Tiếp đến, năm nay là kỷ niệm 150 năm sinh nhật một thành viên đặc biệt của Hội Thánh nhi, đó là thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, bổn mạng các xứ truyền giáo, đã ghi tên nhập hội này từ năm bảy tuổi. Ngày hôm nay, 01 tháng Mười, chúng ta cử hành lễ kính thánh nữ, và chính từ thánh nữ, chúng ta muốn đón nhận một sứ điệp quý giá thứ hai: với kinh nguyện của chúng ta, dù chúng ta bé nhỏ, chúng ta vẫn có thể góp phần làm cho người khác nhận biết và yêu mến Chúa Giêsu, trong âm thầm, giúp đỡ tha nhân làm điều thiện. Thánh nữ Têrêsa dạy rằng, kinh nguyện là hoạt động truyền giáo đầu tiên, và có thể đi tới mỗi nơi trên thế giới, mỗi trẻ em và thiếu niên, mỗi thừa sai. Vì thế, cha mời gọi các con, qua kinh nguyện, hãy tăng trưởng trong tình bạn với Chúa Cứu Thế của chúng ta, và trong tình bạn giữa các con với nhau và với tất cả các trẻ em, các thiếu niên trên thế giới, để trở thành những người xây dựng hòa bình”.
Trong sứ điệp, Đức Thánh cha cám ơn tất cả các trẻ em và thiếu niên thừa sai, “vì sự dấn thân giúp đỡ tất cả chúng ta trở thành những chứng nhân can đảm của Tin mừng, và chia sẻ với những người khác, ngoài những trợ giúp vật chất, cả điều quý giá nhất mà chúng ta có, đó là đức tin. Cha cũng muốn cám ơn các phụ huynh và những người linh hoạt hỗ trợ các con, thăng tiến đoàn sủng và linh đạo của Hội thánh nhi” …
Và Đức Thánh cha kết luận rằng: “Các con hãy tiếp tục dấn thân theo đoàn sủng mà Đức cha Charles de Forbin Janson đã để lại cho các con, theo con đường bé nhỏ của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, trung thành với khẩu hiệu của các con là: “Các trẻ em cầu nguyện cho các trẻ em, các trẻ em loan báo Tin mừng cho trẻ em, các trẻ em giúp trẻ em”.
(Sala Stampa 1-10-2023)
Tác giả: G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
2023
Thoáng nhìn các thành viên Thượng Hội Đồng Giám Mục thứ 16
Với buổi canh thức cầu nguyện đại kết chiều thứ Bảy, 30/9/2023, và 3 ngày tĩnh tâm tiếp đó, Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới thứ 16 về chủ đề: “Hướng tới một Giáo Hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ”, sẵn sàng bắt đầu với Thánh lễ khai mạc trọng thể sáng thứ Tư 4/10/2023 do Đức Thánh Cha chủ sự tại Quảng trường thánh Phêrô. Đâu là những nét đáng chú ý trong số các tham dự viên?
Nói chung, trong danh sách có 464 người tham dự, nếu trừ các chức sắc và nhân viên của Văn phòng Thượng Hội Đồng Giám Mục, thì còn 449 người, trong số này có 364 thành viên có quyền bỏ phiếu, gồm cả 54 phụ nữ. Các tham dự viên không có quyền bỏ phiếu là 85 người, trong số này có 27 phụ nữ.
Các Chủ tịch thừa ủy
Trong 15 Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới trước đây, thường có 3 vị Hồng Y chủ tịch thừa ủy, thay mặt Đức Thánh Cha chủ tọa các khóa họp khoáng đại. Nhưng Thượng Hội Đồng Giám Mục này có tới 9 vị chủ tịch thừa ủy, trong đó 3 vị không phải là Hồng Y hay Giám mục, gồm 1 linh mục là cha Giuseppe Bonfrate, giáo sư tại Đại học Giáo hoàng Gregoriana, từng là chuyên gia của Văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục về miền Amazonia, một nữ tu là Chị María de los Dolores Palencia Gómez, 74 tuổi, người Mêxicô thuộc dòng Nữ tu thánh Giuse de Lyon, chuyên dấn thân bênh vực và giúp đỡ người di dân và hoạt động trong Liên Hội Đồng Giám Mục Mỹ châu la tinh, sau cùng là một nữ giáo dân, chị Mormoko Nishimaru, 48 tuổi, ở Yokohama, Nhật Bản. Chị là một phụ nữ thánh hiến thuộc cộng đoàn thừa sai “Nữ tỳ Tin Mừng Lòng Chúa Thương Xót” (SEMD). Chị hoạt động trong Ủy ban mục vụ giới trẻ ở địa phương. Trước đó chị đã học tại đại học Sophia, Tokyo, rồi trải qua vài năm ở Argentina, dấn thân trong sứ vụ, trước khi trở về Nhật hồi năm 2017. Chị đã phiên dịch thông điệp “Fratelli tutti” của Đức Thánh Cha Phanxicô ra tiếng Nhật.
6 vị Chủ tịch thừa ủy còn lại, đứng đầu là Đức Thượng Phụ Ibrahim Isaac Sedrak, Thượng Phụ Giáo Chủ Công Giáo Copte, với trụ sở tại thành Alessandria, lãnh đạo khoảng 200 ngàn tín hữu Công Giáo ở Ai Cập, tiếp đến là Đức Hồng Y Aguiar Retes, Tổng Giám Mục giáo phận thủ đô Mêxicô, tiếp đến là 2 Tổng Giám Mục và 2 Giám Mục.
Các nghị phụ
Trong số các nghị phụ, đứng đầu là 20 vị thuộc các Giáo Hội Công Giáo nghi lễ Đông phương, trong đó có những vị đương nhiên là thành viên do chức vụ, như các vị Thượng Phụ giáo chủ, phần còn lại là các đại biểu do các Hội Đồng Giám Mục bầu lên và được Tòa Thánh phê chuẩn: Phi châu có 44 vị, đông nhất là Nigeria với 4 vị. Tiếp đến là Mỹ châu có 47 vị, đông nhất là Brazil và Mỹ, mỗi nước có 5 đại biểu, Mêxicô và Canada mỗi nước có 4 đại biểu. Á châu có 26 vị, đông nhất là 4 vị Ấn độ, tiếp đến là Philippines có 3 vị, Indonesia và Việt Nam mỗi nước có 2 đại biểu. Hai vị người Việt là Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Giám Mục Phan Thiết, và Đức Cha Louis Nguyễn Anh Tuấn, Giám Mục Hà Tĩnh. Lào và Campuchia có chung một nghị phụ đại biểu là Cha Enrique Figaredo Alvar Gonzalez, dòng Tên Tây Ban Nha, Phủ doãn tông tòa Battambang bên Campuchia.
Đài Loan có 1 Giám Mục Đại biểu là Đức Cha Giuse Phổ Anh Hùng (Norberto Pu), Giám Mục giáo phận Gia Nghĩa cũng là Giám Mục đầu tiên người dân tộc tại đảo này.
Âu Châu có 48 Giám Mục đại biểu của các Hội Đồng Giám Mục, đông nhất là Ý với 5 vị, tiếp đến là 4 vị người Pháp. Sau cùng là Úc châu chỉ có 5 Giám Mục đại biểu, trong số này có 2 vị từ Australia.
Trung Quốc không có Hội Đồng Giám Mục được Tòa Thánh công nhận, nên không có quyền bầu đại biểu. Tuy nhiên Đức Thánh Cha đã mời đặc biệt 2 vị đến tham dự, đó là Đức Cha Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang), 53 tuổi, Giám Mục giáo phận Chu Thôn (Zhouchun) tỉnh Sơn Đông từ 10 năm nay, và Đức Cha Antôn Diệu Thuận (Yao Shun), 58 tuổi, Giám Mục giáo phận Tể Ninh, tỉnh Nội Mông. Ngài là một trong những Giám Mục đầu tiên thụ phong Giám Mục năm 2019 sau Hiệp định tạm thời giữa Tòa Thánh và Trung Quốc về việc bổ nhiệm Giám Mục, tuy rằng trong thực tế, Tòa Thánh đã phê chuẩn việc bổ nhiệm Đức cha từ năm 2010. Đây là 2 vị khác với 2 Giám Mục Trung Quốc đã tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới về giới trẻ hồi năm 2018: đó là Đức Cha Giuse Quách Kim Cài (Guo Jincai), Giám Mục giáo phận Thừa Đức (Chengde) tỉnh Hà Bắc, và Đức Cha Gioan Baotixita Dương Hiểu Đình (Yang Xiaotinh), Giám Mục giáo phận Du Lâm (Yulin), tỉnh Thiểm Tây.
Cùng với 2 vị trên đây, có Đức Hồng Y Stephano Chu Thủ Nhân (Chow Sau-yan), tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục này với tư cách là thành viên do Đức Thánh Cha bổ nhiệm.
Các thành phần khác
Ngoài 3 vị được Đức Thánh Cha bổ nhiệm trên đây còn có 48 vị khác cũng được ngài bổ nhiệm, trong đó có 5 nữ tu, 1 nữ giáo dân, và 5 Linh Mục, trong đó có cha James Martins, dòng Tên người Mỹ, nổi tiếng trong các hoạt động bênh vực việc mục vụ cho những người đồng tính, và cha Antonio Spadaro, dòng Tên người Ý, nguyên là Giám đốc tạp chí Civiltà Cattolica Văn Minh Công Giáo, nay mới được bổ nhiệm làm Phó Tổng thư ký Bộ giáo dục và Văn hóa.
Trong số các vị được Đức Thánh Cha bổ nhiệm được dư luận đặc biệt chú ý có Đức Hồng Y Gerhard Mueller, người Đức, nguyên Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, cùng với ĐHY Luis Ladaria dòng Tên Tây Ban Nha, cũng từng là Tổng trưởng Bộ giáo lý đức tin, nhưng ngài xin kiếu vì lý do sức khỏe.
Cũng nên nói thêm rằng có 20 vị đứng đầu các cơ quan trung ương Tòa Thánh, theo luật, được đương nhiên tham dự Thượng Hội Đồng Giám Mục này, trong đó có 1 giáo dân là ông Paolo Ruffini, Bộ trưởng Bộ truyền thông. Ngoài ra có các vị Chủ tịch các Liên Hội Đồng Giám Mục thuộc 5 châu.
Những lập trường khác nhau
Trong thời gian qua, báo chí cho rằng sẽ có những tranh luận sôi nổi tại Thượng Hội Đồng Giám Mục này giữa phe bảo thủ và cấp tiến. Cụ thể như trường hợp giữa các thành viên người Đức.
Thực vậy, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức, Đức Cha Georg Baetzing, Giám Mục giáo phận Limburg, bày tỏ hy vọng Thượng Hội Đồng Giám Mục này sẽ mau lẹ bỏ phiếu ủng hộ các đề nghị cải tổ. Đức Cha cũng bênh vực Đức Thánh Cha Phanxicô chống lại những lời cáo buộc cho rằng ngài muốn trì hoãn việc cải tổ.
Tiếp đến, trong cuộc họp báo hôm 27/9 vừa qua, kết thúc khóa họp mùa thu của các Giám Mục Đức, Đức Cha Baetzing, hy vọng những kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục kỳ thứ 16 tới đây sẽ có tính chất bó buộc và cả Đức Thánh Cha cũng cần tuân hành, chứ không phải chỉ coi đây là những điều tư vấn mà thôi.
Trong khi đó, một Giám Mục Đức được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm thành viên Thượng Hội Đồng Giám Mục 16 là Đức Cha Stefan Oster, Giám Mục giáo phận Passau. Trong cùng cuộc họp báo hôm 27/9, Đức Cha đề cao sự kiện một mình Đức Thánh Cha có quyền quyết định chung kết về Thượng Hội Đồng Giám Mục. Ngài nói: “Đức Thánh Cha Phanxicô có đoàn sủng đặc biệt và có cái nhìn toàn diện trên toàn thể Giáo Hội, vì thế ngài có thể phán đoán rõ điều gì Thánh Thần Chúa nói với ngài và toàn thể chúng ta tại Thượng Hội đồng”.
Và theo Đức Cha Oster, tiến trình cải tổ của Giáo Hội Công Giáo Đức không phải là kiểu mẫu tốt cho các cuộc thảo luận ở Roma trong Thượng Hội Đồng Giám Mục. Con đường Công nghị của Đức đã dẫn tới sự chống đối và đối nghịch nhiều hơn: “Giữa Giáo Hội tại Đức và Tòa Thánh, giữa các Giám Mục chúng ta và trong dân Chúa”. ĐGH Phanxicô muốn một cái gì khác cho Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới. Đây không phải là một tiến trình chính trị, những lối tiếp cận chiến lược và lợi dụng dư luận quần chúng”. Vấn đề quan trọng là: “Làm sao chúng ta ít khi thành công trong việc mời gọi dân chúng tin vào Tin Mừng, và đồng thời lại có hàng trăm ngàn tín hữu quay lưng lại với Giáo Hội tại Đức?” (KAP 28-9-2023).