2022
Thánh Lễ Đêm Phục Sinh tại Đền thờ Thánh Phêrô
Thánh Lễ Đêm Phục Sinh tại Đền thờ Thánh Phêrô
Vào lúc 7 giờ 30 tối Thứ Bảy 16/4, tại Vương cung Thánh Đường thánh Phêrô, ĐHY Giovanni Battista Re, niên trưởng Hồng y đoàn, đã dâng Thánh lễ Vọng Phục Sinh với sự hiện diện của Đức Thánh Cha và rất đông các tín hữu tham dự.
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Lễ Đêm Phục Sinh
Nhiều tác giả đã viết về vẻ đẹp của màn đêm được chiếu sáng bởi các vì sao. Ngược lại, những đêm tối chiến tranh đã hằn lên những vệt màu chết chóc. Anh chị em thân mến, trong đêm nay, chúng ta hãy để các phụ nữ của Tin Mừng cầm tay dẫn đi, để cùng với họ khám phá ra sự trỗi dậy của ánh sáng của Thiên Chúa, chiếu rọi vào bóng đêm của thế giới. Những người phụ nữ đó, khi màn đêm tan dần và những tia sáng đầu tiên của bình minh vừa ló rạng, đã đến mộ để xức dầu cho xác Chúa Giê-su. Rồi họ nhìn thấy hai nhân vật mặc y phục sáng chói, hai người này nói với họ rằng Chúa Giêsu đã sống lại; và ngay lập tức họ chạy đi báo tin cho các môn đệ khác (x. Lc 24,1-10). Họ nhìn thấy, nghe và loan báo: với ba hành động này, chúng ta cũng bước vào sự Phục Sinh của Chúa.
Các phụ nữ nhìn thấy. Lời loan báo đầu tiên về sự Phục sinh không được viết thành một công thức để hiểu, nhưng là một dấu chỉ để chiêm niệm. Trong một nghĩa trang, bên một ngôi mộ, nơi mọi thứ lẽ ra phải ngăn nắp và tĩnh lặng, các phụ nữ đã “thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ và khi bước vào, họ không tìm thấy xác của Chúa Giê-su” (câu 2-3 ). Do đó, sự Phục sinh bắt đầu bằng cách lật ngược các dự kiến của chúng ta và đi kèm với món quà của niềm hy vọng đáng ngạc nhiên. Nhưng để đón nhận nó không phải là điều dễ dàng. Đôi khi – chúng ta phải thừa nhận – sự hy vọng này không có chỗ trong trái tim của chúng ta. Giống như các phụ nữ trong Tin Mừng, chúng ta cũng thắc mắc và nghi ngờ, và phản ứng đầu tiên khi đối diện với dấu hiệu bất ngờ này là sợ hãi, “cúi gầm xuống đất” (xem Lc 23,4-5).
Chúng ta thường nhìn cuộc sống và thực tại với đôi mắt cúi gầm xuống đất; chúng ta chỉ nhìn chằm chằm vào ngày hôm nay phải trôi qua, chúng ta không hứng khởi về tương lai, chúng ta nhốt mình trong những nhu cầu của mình, chúng ta sống trong ngục tù của sự thờ ơ, trong khi chúng ta tiếp tục phàn nàn và nghĩ rằng mọi thứ sẽ không bao giờ thay đổi. Và vì vậy chúng ta bất động trước ngôi mộ của sự cam chịu và chủ nghĩa định mệnh, và chúng ta chôn vùi niềm vui sống. Tuy nhiên, vào đêm này, Chúa muốn ban cho chúng ta một đôi mắt khác, được thắp sáng bởi hy vọng rằng nỗi sợ hãi, đau đớn và cái chết sẽ không có lời cuối cùng trên chúng ta. Nhờ sự Phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta có thể thực hiện bước nhảy từ hư vô thành sự sống, “và cái chết sẽ không còn có thể cướp đi sự hiện hữu của chúng ta nữa” (K. RAHNER, Phục sinh có nghĩa là gì, Brescia 2021, 28): sự sống được ôm lấy tất cả và mãi mãi bởi tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Đúng thật là biến cố này có thể làm chúng ta sợ hãi và tê liệt. Nhưng Chúa đã sống lại! Chúng ta hãy nhìn lên, hãy gỡ bỏ bức màn cay đắng và buồn bã khỏi đôi mắt của chúng ta để mở ra đón nhận niềm hy vọng của Thiên Chúa!
Thứ hai, các phụ nữ lắng nghe. Sau khi họ nhìn thấy ngôi mộ trống, hai người đàn ông mặc y phục sáng chói nói với họ: ‘Tại sao các bà lại tìm Người Sống giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, Người đã trỗi dậy rồi” (câu 5-6). Chúng ta an tâm khi nghe và lặp lại những lời này: Người không có ở đây! Đó là mỗi khi chúng ta muốn hiểu tất cả về Thiên Chúa, để có thể lái Người theo kế hoạch của chúng ta, chúng ta thường tự lặp lại với chính mình: Người không có ở đây! Mỗi khi chúng ta chỉ tìm kiếm Người theo cảm xúc thoáng qua hoặc những khi cần thiết, rồi gạt bỏ Người sang một bên và quên Người đi trong cuộc sống hàng ngày và những lựa chọn cụ thể, chúng ta lặp lại: Người không có ở đây! Và khi chúng ta nhốt Người vào những lời nói, theo công thức và thói quen của chúng ta, nhưng chúng ta quên tìm kiếm Người trong những góc tối nhất của cuộc sống, nơi có những người khóc lóc, vất vả, đau khổ và trông đợi, chúng ta lặp lại: Người không có ở đây!
(CNS photo/Paul Haring)
Chúng ta hãy lắng nghe câu hỏi dành cho các phụ nữ: “Tại sao các bà lại tìm kiếm Người Sống giữa kẻ chết?”. Chúng ta không thể có Phục sinh nếu chúng ta tiếp tục ở trong cái chết; nếu chúng ta vẫn là tù nhân của quá khứ; nếu trong cuộc sống, chúng ta không có can đảm để cho mình được Thiên Chúa tha thứ, thay đổi, và đoạn tuyệt với những việc của sự dữ, để quyết định theo Chúa Giêsu và tình yêu của Người; nếu chúng ta hạ giảm đức tin thành một tấm bùa hộ mệnh, biến Thiên Chúa thành một ký ức đẹp của thời quá khứ, thay vì gặp gỡ Người hôm nay như một Thiên Chúa hằng sống, Đấng muốn biến đổi chúng ta và thế giới. Một Kitô hữu tìm kiếm Thiên Chúa giữa các di tích của quá khứ và đặt Người trong ngôi mộ theo thói quen là một Kitô hữu không có sự Phục sinh. Nhưng Chúa đã sống lại! Chúng ta đừng nán lại ở các ngôi mộ, nhưng hãy ra đi để tái khám phá Người, Đấng Hằng Sống! Và chúng ta cũng không ngại tìm kiếm Người trong những khuôn mặt của anh chị em, trong câu chuyện của những người hy vọng và những người mơ ước, trong nỗi đau của những người than khóc và đau khổ: Thiên Chúa ở đó!
Cuối cùng, các phụ nữ loan báo. Họ loan báo điều gì? Niềm vui của sự Phục sinh. Sự Phục sinh không xảy ra để an ủi thân tình cho những ai thương tiếc cái chết của Chúa Giê-su, nhưng để mở toang trái tim đón nhận lời loan báo đặc biệt về sự chiến thắng của Thiên Chúa trên sự dữ và sự chết. Vì thế, ánh sáng của sự Phục Sinh không muốn giữ các phụ nữ trong sự vui mừng cá nhân, không để cho họ ở thái độ thụ động, nhưng làm cho họ thành những môn đệ truyền giáo “từ ngôi mộ trở về” (xem câu 9) và mang Tin Mừng Phục Sinh cho tất cả. Như thế, sau khi đã thấy và đã nghe, các phụ nữ đã chạy đi loan báo niềm vui Phục Sinh cho các môn đệ. Họ biết rằng họ có thể bị coi là điên rồ, đến nỗi Tin Mừng kể rằng lời nói của họ bị coi là “chuyện vớ vấn” (câu 11), nhưng họ không bận tâm về danh tiếng của mình hay để bảo vệ hình ảnh của mình; họ không chiều theo tình cảm, họ không tính toán về lời nói.
Thật đẹp biết bao khi một Giáo hội biết chạy như thế trên các con đường của thế giới! Không sợ hãi, không chiến thuật và cơ hội; nhưng chỉ với mong muốn mang niềm vui Tin Mừng đến cho mọi người. Chúng ta được mời gọi điều này: có kinh nghiệm với Đấng Phục sinh và chia sẻ điều đó với người khác; lăn tảng đá ra khỏi ngôi mộ, nơi chúng ta vẫn thường niêm phong Chúa, để loan truyền niềm vui của Người cho thế giới. Chúng ta hãy làm cho Chúa Giêsu, Đấng Hằng Sống, sống lại từ trong những ngôi mộ mà chúng ta đã nhốt Người; chúng ta hãy giải thoát Người khỏi những hình thức mà chúng ta thường giam cầm Người; chúng ta hãy trỗi dậy khỏi cơn mê ngủ mà đôi khi chúng ta đặt Người vào để Người không quấy rầy và làm chúng ta khó chịu. Hãy mang Người vào cuộc sống hàng ngày: bằng những cử chỉ hòa bình trong thời điểm này, vốn bị đánh dấu bởi sự khủng khiếp của chiến tranh; bằng những việc hòa giải trong các mối quan hệ tan vỡ và lòng thương cảm đối với những người cần giúp đỡ; bằng những hành động của công lý cho những nơi bất bình đẳng và sự thật cho những nơi dối trá. Và, trên tất cả, bằng những công việc của tình yêu và tình huynh đệ.
Anh chị em thân mến, niềm hy vọng của chúng ta có tên gọi là Giêsu. Người đã bước vào ngôi mộ tội lỗi của chúng ta, đến điểm xa nhất mà chúng ta đã bị lạc mất, bước qua những rối ren của sợ hãi, gánh lấy những trĩu nặng của chúng ta và từ vực sâu tăm tối nhất của cái chết của chúng ta, Người đã biến tiếng khóc than của chúng ta thành vũ điệu. Chúng ta cùng mừng lễ Phục sinh với Chúa Kitô! Người đang sống và hôm nay Người vẫn tiếp tục vượt qua, biến đổi và giải thoát. Với Người, sự ác không còn sức mạnh và sự thất bại không thể ngăn cản chúng ta bắt đầu lại, cái chết trở thành một hành trình bắt đầu của một sự sống mới. Vì với Chúa Giêsu Phục sinh, không có đêm tối nào là vô hạn; và ngay cả trong bóng đen dày đặc nhất, ngôi sao mai vẫn chiếu sáng.
(Vatican News 16.04.2022)
2022
Đức Thánh cha chủ sự Nghi thức Tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa
Đức Thánh cha chủ sự Nghi thức Tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa
Lúc 5 giờ chiều, Thứ Sáu Tuần thánh, ngày 15 tháng Tư năm 2022, Đức Thánh cha Phanxicô đã chủ sự nghi thức trọng thể, tại Đền thờ thánh Phêrô để tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, trước sự hiện diện của hàng ngàn tín hữu, đông đảo các hồng y, giám mục và hàng trăm chức sắc khác.
Sau bài Thương khó, Đức Hồng y Raniero Cantalamessa, 88 tuổi, dòng Capuchino, Giảng thuyết viên tại Phủ Giáo hoàng, từ 42 năm nay (1980) đã diễn giải cuộc đối thoại giữa quan Philatô và Chúa Giêsu, trong đoạn 18 của Tin mừng theo thánh Gioan, đặc biệt là câu quan tổng trấn hỏi Chúa Giêsu: “Sự thật là gì?” (Ga 18).
Đức Hồng y giảng thuyết nhắc đến trào lưu vô thần, những người theo thuyết bất khả tri ngày càng đông đảo và ngài nhận xét rằng: “Người ta nói: có quá nhiều bất công và quá nhiều đau khổ trên thế giới khiến chúng ta không thể tin có Thiên Chúa! Đúng vậy, nhưng nếu chúng ta hãy nghĩ: sự ác bao quanh chúng ta, càng trở nên vô lý và không thể chịu nổi nếu không có niềm tin nơi chiến thắng chung kết của chân lý và sự thiện. Sự Phục sinh của Chúa Giêsu từ cõi chết chính là lời hứa và là bảo đảm rằng sẽ có sự chiến thắng ấy, vì chiến thắng đó đã bắt đầu với Chúa Giêsu”.
Đức Hồng y Cantalamessa cũng nhận xét một điều: trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và quan Philatô, quan nói: “Dân của ông và các tư tế đã nộp ông cho tôi!” (Ga 18,35). Quan ngụ ý nói điều này: những người thuộc Giáo hội của ông, các tư tế đã rời bỏ ông: họ đã hạ giá danh ông với những tội ác kinh khủng, vậy chẳng lẽ chúng tôi phải còn tin nơi ông sao?”
Về điểm này, Đức Hồng y Cantalamessa trưng dẫn câu nói của văn hào người Anh, ông John Ronald Tokien, tác giả cuốn truyện và cuốn phim “Chúa tể của những chiếc nhẫn” (The Lord of the Rings), trong thư trả lời cho những vấn nạn của người con về Giáo hội: “Lòng yêu mến của chúng ta có thể nhạt phai và ý chí của chúng ta có thể điêu tàn vì những thiếu sót, sự điên rồ, và những tội lỗi của Giáo hội và các chức sắc của Giáo hội, nhưng ba không tin rằng người có đức tin đích thực sẽ từ bỏ đức tin vì những lý do như thế, và điều này càng thấy nơi những người có ít kiến thức về lịch sử… Người ta rời bỏ đức tin viện lẽ những lý do vừa nói, vì đó là điều tiện lợi cho chúng ta, vì nó thúc đẩy chúng ta khỏi phải nhìn vào chính bản thân mình, khỏi những tội lỗi của chúng ta và tìm ra một cái cớ như con dê tế thần. Ba nghĩ bản thân ba cũng nhạy cảm đối với những gương mù gương xấu, giống như con và mọi Kitô hữu cũng nhạy cảm như vậy. Ba đã chịu đau khổ nhiều trong cuộc đời vì những linh mục dốt nát, mệt mỏi, yếu đuối và đôi khi còn xấu xa nữa”.
“Vả lại, những điều như thế là điều thế nào cũng có. Nó bắt đầu cả trước lễ Vượt qua với sự phản bội của Giuđa, sự chối Chúa của ông Simon Phêrô, sự bỏ trốn của các tông đồ… Vậy, con phải khóc sao? Đúng vậy!” – Văn hào Tolkien khuyên nhủ con, – “con phải khóc nhưng là khóc cho Chúa Giêsu, về những gì Chúa phải chịu, trước khi khóc cho chúng ta. Khóc với những nạn nhân và cho các nạn nhân do tội lỗi chúng ta”.
Và Đức Hồng y Cantalamessa kết luận với lời Chúa Giêsu nói, khi hay tin về vụ đổ máu do quan Philato ra lệnh giết, và vụ tháp Siloe sập: “Nếu các ngươi không hoán cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ chết như thế” (Lc 13,5). Nếu chúng ta không biến những giáo mác của chúng ta thành lưỡi liềm, biến gươm của chúng ta thành lưỡi cày (Is 2,4), biến những tên lửa của chúng ta thành công xưởng và nhà cửa, thì tất cả chúng ta cũng sẽ chết như thế!”
Lễ nghi tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa được tiếp nối với mười lời nguyện cho các nhu cầu của Giáo hội Công giáo và mọi thành phần trong nhân loại. Kế đến là nghi thức tôn thờ thánh giá và phần hiệp lễ. Sau cùng, hàng chục linh mục đã trao Mình Thánh Chúa cho các tín hữu.
(Rei 15-4-2022)
- Trần Đức Anh, O.P.
2022
Đức Hồng y Krajewski viếng mộ tại Ucraina
Đức Hồng y Krajewski viếng mộ tại Ucraina
Chiều Thứ Sáu Tuần thánh, ngày 15 tháng Tư vừa qua, Đức Hồng y Konrad Krajewski, Chánh sở Từ thiện của Đức Thánh cha, đã viếng thăm và cầu nguyện tại những hố chôn tập thể những thi hài tại Borodjanka, gần thủ đô Kiev của Ucraina, một trong những vùng bị tàn phá nhiều nhất.
Photo: Vatican News
Tại nơi này, sau khi quân Nga rút lui, người ta tìm thấy hơn 300 tử thi những người bị hành quyết.
Đức Hồng y Krajewski đại diện Đức Thánh cha trở lại viếng thăm Ucraina trong những ngày Tuần thánh và cử hành Tam nhật Vượt qua với các tín hữu địa phương. Ngài lái xe cứu thương thứ hai do Đức Thánh cha tặng cho Ucraina, vượt qua 2.400 cây số từ Roma và đến trao cho ban giám đốc một nhà thương chuyên chữa bệnh tim ở thủ đô Kiev.
Chiều ngày 15 tháng Tư vừa qua, Phòng báo chí Tòa Thánh phổ biến sứ điệp đau thương của Đức Hồng y Krajewski, kể lại rằng:
“Cùng với Đức Tổng giám mục Sứ thần Tòa Thánh, chúng tôi đang trở về Kiev từ những địa điểm khó khăn đối với mỗi người trên thế giới này, nơi chúng tôi còn thấy bao nhiêu người chết, và một ngôi mộ tập thể chôn táng ít nhất 80 người, họ được chôn mà không có tên. Thiếu nước mắt và lời nói để diễn tả. Cũng may có niềm tin và chúng ta đang ở trong Thứ Sáu Tuần thánh, khi chúng ta có thể liên kết với Chúa Giêsu và cùng với Chúa bước lên thập giá, vì sau Thứ Sáu Tuần thánh có Chúa nhật Phục sinh. Có lẽ Chúa sẽ giải thích tất cả bằng tình thương của Ngài và sẽ thay đổi tất cả ở bên trong chung ta, thay đổi sự cay đắng và đau khổ chúng ta mang từ vài ngày nay, nhưng đặc biệt là từ ngày hôm nay”. (Sala Stampa 15-4-2022)
Trong cuộc phỏng vấn trước đó dành cho đài Vatican, Đức Hồng y cho biết đã được bác sĩ giám đốc nhà thương ở Kiev thuật lại việc chữa trị cho các thương binh từ mặt trận đưa về đây, trong đó có cả các binh sĩ người Nga, những người có lẽ đã giết hại nhiều người Ucraina. Bác sĩ giám đốc nói: “Chúng ta phải là những người Samaritano nhân lành, và không phải chữa trị cho các binh sĩ Ucraina bị thương mà thôi. Trái lại, chúng ta phải giúp đỡ mọi người, kể cả những người Nga”.
Đức Hồng y Krajewski cho biết ngài rất cảm động về thái độ đó và gọi đó là một bài học rất quí giá.
(KAP 16-4-2022)
- Trần Đức Anh, O.P.
2022
Sứ điệp Phục Sinh và phép lành Urbi et Orbi
Sứ điệp Phục Sinh và phép lành Urbi et Orbi
Vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh 17/4, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dâng Thánh Lễ Phục Sinh và ban phép lành Urbi et Orbi, cho Roma và toàn thế giới, tại quảng trường thánh Phêrô. Có khoảng hơn 50 ngàn tín hữu tham dự thánh lễ và sau đó là phép lành Urbi et Orbi.
Sứ điệp Phục Sinh của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến, chúc mừng Lễ Phục Sinh tới anh chị em!
Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh, đã sống lại! Ngài ngự đến giữa những người đang thương khóc cho Ngài; họ đang trốn trong nhà cách lo âu và sợ hãi. Ngài đến giữa họ và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19). Ngài cho họ thấy những vết thương ở tay, ở chân, và vết thương nơi cạnh sườn: không phải là ma, mà là chính Ngài, là Đức Giêsu, Đấng đã chết trên thập giá và đã ở trong mồ. Trước con mắt ngờ vực của các môn đệ, Ngài lặp lại: “Bình an cho anh em!” (câu 21).
Trong dịp Lễ Phục Sinh ở thời điểm chiến tranh này, chúng ta cũng đang có cái nhìn đầy hoài nghi. Chúng ta đã thấy quá nhiều đổ máu, quá nhiều bạo lực. Trái tim chúng ta cũng ngập tràn sợ hãi và đau khổ, trong khi rất nhiều anh chị em của chúng ta đang phải tự nhốt mình để tránh bom đạn. Chúng ta khó tin rằng Đức Giêsu đã thực sự sống lại, rằng Người đã thực sự chiến thắng sự chết. Phải chăng việc Ngài phục sinh chỉ là một ảo ảnh? Một kết quả từ trí tưởng tượng của chúng ta?
Không, điều đó không phải là ảo ảnh! Hôm nay, hơn bao giờ hết, lời công bố Phục Sinh vang vọng cách sống động đến Giáo hội Đông phương: “Chúa Kitô đã sống lại! Ngài đã sống lại thật rồi!” Hôm nay, ở điểm cuối của một Mùa Chay những tưởng như không muốn kết thúc, chúng ta cần đến Người hơn bao giờ hết. Chúng ta đã phải gồng gánh hai năm đại dịch, vốn để lại những dấu ấn nặng nề. Tưởng rằng đã đến lúc cùng nhau bước ra khỏi đường hầm, chung tay, chung sức, chung lòng … Vậy mà, chúng ta lại đang cho thấy mình không có tinh thần của Chúa Giêsu mà vẫn còn đó tinh thần của Cain, người coi Abel không phải như một người anh em, mà như một đối thủ, và đã nghĩ cách loại bỏ người em của mình. Chúng ta cần Thập giá Phục sinh để tin vào chiến thắng của tình yêu, để hy vọng vào khả năng hòa giải. Ngày nay hơn bao giờ hết chúng ta cần Ngài, Đấng đến giữa chúng ta và tiếp tục nói với chúng ta: “Bình an cho anh em!”
Chỉ có Ngài mới làm được điều đó. Ngày nay chỉ mình Ngài có quyền công bố hòa bình cho chúng ta. Chỉ có Đức Giêsu, vì Ngài mang những thương tích, vốn là những thương tích của chúng ta. Những thương tích Ngài mang là những thương tích nhân bội của chúng ta: của chúng ta và chính chúng ta chất các thương tích đó lên cho Ngài bởi những tội lỗi, bởi sự cứng lòng, bởi sự thù hận huynh đệ tương tàn; và của chúng ta vì Ngài mang chúng cho chúng ta, Ngài đã không hủy bỏ chúng khỏi Thân thể vinh hiển của Ngài, Ngài muốn giữ chúng, mang chúng trong mình mãi mãi. Chúng là dấu ấn không thể xóa nhòa của tình yêu Ngài dành cho chúng ta, là lời cầu bầu trường cửu để Cha trên trời có thể nhìn thấy chúng và thương xót chúng ta cũng như toàn thể thế giới. Những vết thương trên thân thể của Chúa Giêsu Phục Sinh là dấu chỉ của cuộc chiến mà Ngài đã chiến đấu và chiến thắng cho chúng ta, bằng vũ khí của tình yêu, để chúng ta có được hòa bình, trở nên hòa bình, và sống trong hòa bình.
Nhìn vào những vết thương vinh hiển ấy, đôi mắt ngờ vực của ta mở ra, trái tim sắt đá của ta mở ra và đón nhận lời công bố Phục Sinh: “Bình an cho anh em!”.
Anh chị em thân mến, Chúng ta hãy để cho sự bình an của Đức Ki-tô ngự đến trong cuộc sống, nơi ngôi nhà, trong đất nước của chúng ta!
Nguyện cầu ơn hoà bình cho đất nước Ukraine đang bị tàn phá, đang bị thử thách nghiệt ngã bởi bạo lực và sự huỷ hoại của cuộc chiến tàn khốc và vô nghĩa mà nó bị kéo vào. Giữa đêm trường của đau khổ và chết chóc khủng khiếp này, cầu cho một bình minh mới của niềm hy vọng sẽ sớm trỗi dậy! Cầu mong hoà bình được lựa chọn. Mong người ta không tìm cách phô diễn sức mạnh nắm đấm trong khi dân chúng đang đau khổ. Làm ơn! Đừng đứng về phía chiến tranh, tất cả chúng ta hãy cùng nhau cất lên tiếng hiệu triệu cho hoà bình, từ ban công cho tới đường phố! Hoà bình! Ai có trách nhiệm với các quốc gia, hãy lắng nghe tiếng kêu vì hòa bình của nhân dân. Hãy lắng nghe câu hỏi đáng lo ngại được đặt ra bởi các nhà khoa học cách đây gần 70 năm: “Chúng ta sẽ chấm dứt nhân loại hay nhân loại biết từ bỏ chiến tranh?” (Tuyên ngôn Russell-Einstein, ngày 9 tháng 7 năm 1955).
Tôi mang vào lòng mình tất cả vô số nạn nhân Ukraine, hàng triệu người tị nạn và di tản nội địa, những gia đình bị chia cắt, những người già bị bỏ lại một mình, những mảnh đời tan nát và những thành phố bị san bằng. Trong mắt tôi là ánh nhìn của những đứa trẻ mồ côi đang bị bỏ lại hay đang chạy trốn chiến tranh. Nhìn các em, chúng ta không thể không nghe thấy tiếng kêu đau đớn của các em, cùng với tiếng kêu đau đớn của rất nhiều trẻ em khác đang phải gánh chịu trên khắp thế giới: những em đang chết vì đói hoặc thiếu sự chăm sóc, những nạn nhân của lạm dụng và bạo lực và những hài nhi bị khước từ quyền được sinh ra.
Trong nỗi đau chiến tranh cũng có những dấu hiệu đáng mừng, chẳng hạn như cánh cửa rộng mở của nhiều gia đình và cộng đồng trên khắp châu Âu chào đón những người di cư và tị nạn. Ước gì những hành động bác ái này trở thành một phúc lành cho xã hội của chúng ta, vốn hay bị suy thoái bởi quá nhiều ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân; và ước gì chúng thành động lực khiến cho các xã hội chào đón tất cả mọi người.
Mong rằng cuộc xung đột ở châu Âu khiến chúng ta thức tỉnh hơn, ngay cả khi đối mặt với những tình huống căng thẳng, đau khổ và mất mát khác, vốn đang ảnh hưởng đến rất nhiều khu vực trên thế giới mà chúng ta không muốn và không được phép quên lãng.
Nguyện cầu ơn hoà bình cho Trung Đông, nơi đã bị chia cắt bởi những năm tháng chia rẽ và xung đột. Trong ngày vinh hiển này, chúng ta cầu xin hòa bình cho Jerusalem và hòa bình cho những ai yêu mến thành phố này (xem Tv 121 [122]), cho các Ki-tô hữu, các tín hữu Do Thái và tín hữu Hồi giáo. Cầu chúc cho người Israel, người Palestine và tất cả cư dân của Thành phố Thánh, cùng với các khách hành hương, cảm nhận được vẻ đẹp của hòa bình, sống trong tình huynh đệ và được tự do ra vào các Địa điểm Thánh trong sự tôn trọng lẫn nhau đối với quyền của mỗi bên.
Nguyện cầu ơn hòa bình và hòa giải cho các dân tộc Liban, Syria và Iraq, và đặc biệt là cho tất cả các cộng đồng Ki-tô hữu ở Trung Đông.
Cũng cầu mong hòa bình cho Libya. Nguyện cho mảnh đất này tìm thấy sự ổn định sau nhiều năm căng thẳng. Và cầu mong hoà bình cho Yemen, nơi đang hứng chịu cuộc xung đột bị mọi người lãng quên, với các nạn nhân không ngừng tiếp diễn: ước gì thỏa thuận ngừng bắn vừa được ký kết trong những ngày gần đây có thể khôi phục lại niềm hy vọng cho người dân.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa Phục sinh ban ơn hòa giải cho Myanmar, nơi thảm kịch hận thù và bạo lực vẫn còn tồn tại, và cho Afghanistan, nơi những căng thẳng xã hội nguy hiểm chưa được lắng xuống, và nơi mà cuộc khủng hoảng nhân đạo bi thảm đang hành hạ người dân.
Nguyện cầu ơn hòa bình cho cả lục địa Châu Phi, để có thể chấm dứt tình trạng bóc lột, mà chính châu lục này là nạn nhân, cũng như tình trạng đổ máu do các cuộc tấn công khủng bố; và để các dân tộc ở đây tìm thấy sự tương trợ huynh đệ lẫn nhau. Cầu mong Ethiopia, nơi bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng, có thể tìm ra con đường đối thoại và hòa giải; và mong tình trạng bạo lực ở Cộng hòa Dân chủ Congo được chấm dứt.
Xin Chúa Kitô Phục Sinh đồng hành và trợ giúp các dân tộc trên lục địa Châu Mỹ, nơi có những trường hợp đang chứng kiến sự xuống dốc của các điều kiện xã hội trong thời kỳ khó khăn của đại dịch, và nơi mà các trường hợp tội phạm, bạo lực, tham nhũng và buôn bán ma túy đang trở nên trầm trọng hơn.
Chúng ta cầu xin Chúa Phục Sinh đồng hành trên con đường hòa giải mà Giáo hội Công giáo Canada đang thực hiện với các dân tộc bản địa. Cầu xin Thần Khí của Chúa Kitô Phục Sinh chữa lành vết thương của quá khứ và những trái tim đang tìm kiếm chân lý và tình huynh đệ.
Anh chị em thân mến, mọi cuộc chiến đều mang đến những hậu quả liên quan đến toàn thể nhân loại: từ đau thương và bi kịch của những người tị nạn cho đến khủng hoảng kinh tế và lương thực mà các dấu hiệu đã lộ ra rõ ràng. Đối diện với những dấu hiệu tiếp diễn của chiến tranh, và trước những thất bại đau đớn của cuộc đời, Đức Ki-tô, Đấng chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự sợ hãi và cái chết, khuyên nhủ chúng ta đừng đầu hàng sự dữ và bạo lực. Anh chị em thân mến, chúng ta hãy để mình chiến thắng bằng ơn bình an của Đức Ki-tô! Hòa bình sẽ khả thi, hòa bình là bổn phận, hòa bình là trách nhiệm hàng đầu của tất cả mọi người!
(Vatican News 17.04.2022)