2022
Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng vào thứ Hai thiên thần
Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng vào thứ Hai thiên thần
Vào lúc 12 giờ trưa thứ Hai 18/4, trong tuần Bát Nhật Phục Sinh, được gọi là thứ Hai thiên thần, Đức Thánh Cha đã cùng đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng với các tín hữu hiện diện tại quảng trường thánh Phêrô. Trước khi đọc Kinh, ĐTC có một bài huấn dụ ngắn dựa trên bài Tin Mừng của thứ Hai trong tuần Bát Nhật Phục Sinh trích từ Tin Mừng theo thánh Matthêu, nói về các phụ nữ ra thăm mộ Chúa từ sáng sớm và Chúa đã hiện ra với họ.
Bài huấn dụ của Đức Thánh Cha trước khi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Những ngày trong Tuần Bát nhật Phục sinh giống như một ngày duy nhất, trong đó niềm vui Phục sinh được kéo dài. Như vậy Tin Mừng của Phụng vụ hôm nay tiếp tục cho chúng ta biết về Đấng Phục sinh, về việc Người hiện ra với những người phụ nữ ra thăm mộ (x. Mt 28,8-15). Chúa Giêsu đến gặp họ và chào đón họ; sau đó Người nói với họ hai điều, mà ngày nay cũng hợp với chúng ta nếu biết đón nhận, như một món quà Phục sinh.
Trước tiên, Người trấn an họ bằng hai từ đơn giản: “Đừng sợ” (câu 10). Chúa biết rằng nỗi sợ hãi là kẻ thù hàng ngày của chúng ta. Người cũng biết rằng nỗi sợ hãi của chúng ta nảy sinh từ nỗi sợ lớn, nỗi sợ cái chết: sợ biến mất, mất người thân yêu, bị đau ốm, không còn sống nữa … Nhưng với sự Phục sinh, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết. Do đó, không ai khác có thể nói với chúng ta một cách thuyết phục hơn: “Đừng sợ”. Chúa nói điều đó ngay tại ngôi mộ, nơi Người đã chiến thắng. Do đó, Người mời gọi chúng ta ra khỏi ngôi mộ chôn nỗi sợ hãi của chúng ta. Chúng ta hãy nghe rõ: Hãy bước ra khỏi ngôi mộ chôn nỗi sợ hãi của chúng ta, bởi vì nỗi sợ hãi giống như những ngôi mộ chôn chúng ta vào đó. Người biết rằng nỗi sợ hãi luôn rình rập trước cửa trái tim chúng ta và rằng chúng ta cần nghe chính mình lặp đi lặp lại “đừng sợ” vào buổi sáng Phục Sinh cũng như mọi buổi sáng hàng ngày. Đừng sợ, hãy can đảm lên. Anh chị em, những người tin vào Đức Kitô Phục Sinh, đừng sợ! Chúa Giêsu nói với bạn: “Ta đã trải qua cái chết cho con, Ta đã mang tội của con trên mình. Bây giờ Ta sống lại để nói với con: Ta ở đây, với con, mãi mãi. Đừng sợ!”.
Nhưng chúng ta có thể nói, làm thế nào để chống lại nỗi sợ hãi? Điều thứ hai Chúa Giê-su nói với các phụ nữ cũng giúp ích cho chúng ta: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (câu 10). Hãy đi báo. Nỗi sợ hãi luôn đóng chúng ta lại vào chính mình; mặt khác, Chúa Giê-su làm cho chúng ta phải đi ra và sai chúng ta đến với người khác. Đây là cách khắc phục. Nhưng tôi – chúng ta có thể nói – tôi không có khả năng! Những người phụ nữ đó chắc chắn không phải là những người thích hợp nhất và được chuẩn bị để loan báo về Đấng Phục sinh, nhưng Chúa không quan tâm. Điều Người quan tâm là ra đi và loan báo. Bởi vì niềm vui Phục sinh không được giữ cho riêng mình. Niềm vui của Đức Kitô được củng cố bằng cách cho đi, nó nhân lên khi được chia sẻ. Nếu chúng ta mở ra và mang Tin Mừng đi, trái tim của chúng ta sẽ rộng mở và chiến thắng nỗi sợ hãi.
Ảnh: Daniel Ibáñez | CNA
Bản văn hôm nay cho chúng ta biết rằng lời loan báo có thể gặp phải một trở ngại: sự giả dối. Thật vậy, Phúc Âm thuật lại “một lời loan báo ngược lại”, đó là của những người lính canh mộ Chúa Giê-su. Họ được trả “một số tiền lớn” (câu 12) và nhận được chỉ dẫn: “Các anh hãy nói như thế này : Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác” (câu 13). Các anh ngủ ư? Mà khi đang ngủ, làm sao các anh thấy người ta lấy trộm xác? Thật là một sự mâu thuẫn mà tất cả đều tin, bởi vì có tiền ở giữa. Đó là quyền lực của đồng tiền, mà Chúa Giêsu đã nói là đừng làm tôi của nó. Đây là sự giả dối, lối lý luận của sự che đậy, đối lập với việc công bố sự thật. Đây cũng là một lời nhắc nhở cho chúng ta: sự giả dối – trong lời nói và trong cuộc sống – làm ô nhiễm lời loan báo, làm hư hỏng bên trong, mang trở lại ngôi mộ. Đàng khác, Đấng Phục sinh muốn chúng ta ra khỏi mộ của sự giả dối và sự lệ thuộc. Trước Chúa Phục Sinh, còn có một ông chúa khác, đó là ông chúa tiền của. Nó làm vấy bẩn tất tả, phá hoại tất cả, đóng cửa đối với ơn cứu độ. Điều này xảy ra ở mọi nơi: trong đời sống hằng ngày, có cám dỗ tôn thờ ông chúa tiền của này.
Anh chị em thân mến, chúng ta phẫn nộ khi, qua thông tin, chúng ta phát hiện ra sự giả dối, giả dối trong cuộc sống con người và trong xã hội. Nhưng chúng ta cũng hãy kể tên những sự giả dối mà chúng ta có bên trong! Và chúng ta hãy đặt những bóng mờ và giả dối này của chúng ta trước ánh sáng của Chúa Giêsu Phục sinh. Người muốn đưa những điều ẩn khuất ra ánh sáng, để làm cho chúng ta trở nên những nhân chức trong suốt và sáng ngời về niềm vui của Tin Mừng, về sự thật giải thoát chúng ta (x. Ga 8,32).
Xin Mẹ Maria, Mẹ Đấng Phục Sinh, giúp chúng ta chiến thắng nỗi sợ hãi và cho chúng ta lòng say mê chân lý.
—-
Sau khi đọc kinh, ĐTC nhấn mạnh rằng hồng ân của Chúa Phục Sinh mang lại hy vọng cho tất cả những ai đau khổ, không ai bị bỏ rơi. Đối với xung đột và chiến tranh, Ngài kêu gọi hãy mở cánh cửa thông hiểu và hoà giải, vì đây điều Chúa Giêsu đã làm trên đồi Canvê, và với sự Phục Sinh, Chúa đã hoà giải chúng ta với Cha và hoà giải giữa chúng ta.
Đức Thánh Cha cũng cảm ơn về những lời chúc mừng được gởi đến ngài trong dịp lễ Phục Sinh và những lời cầu nguyện dành cho ngài.
(Vatican News 18.04.2022)
2022
Bạn trẻ cùi Robert Naoussi “dọn đường lên trời” cho người khác
Bạn trẻ cùi Robert Naoussi “dọn đường lên trời” cho người khác
Robert Naoussi là một thanh niên cũng giống như các bạn trẻ khác ở quốc gia châu Phi Cameroon. Nhưng anh có điểm khác là đã dâng những đau khổ của mình để xin Chúa cho các bạn cùng tuổi biết Chúa Giêsu và sống hạnh phúc.
Ngày nay, phần mộ của anh đã trở thành nơi hành hương. Từ nơi này nhiều người đã được ơn hoán cải và chữa lành bệnh tật. Một trường truyền giáo được thành lập vào năm 2005 cũng đã mang tên anh.
Ngày 01/10/1970, giữa đêm tiếng chuông của trại phong Dibamba ở phía tây của Cameroon vang lên thật lớn. Bên ngoài, các bệnh nhân ca hát. Ở tuổi 23, Robert Naoussi vừa phó dâng linh hồn cho Chúa. Sau này, cha Raymond người đã đồng hành với bạn trẻ bị phong cùi viết “Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đến đón Robert”. Một niềm hoan hỉ như tất cả những gì Robert đã gieo ở đây, nơi sự bình an không thể giải thích được vẫn còn ngự trị cho đến ngày nay.
Robert Naoussi sinh năm 1947 ở Cameroon trong một gia đình nghèo, với người cha đa thê. Năm 7 tuổi Robert xin được rửa tội từ một linh mục truyền giáo ở trong làng. Lòng nhiệt thành của cậu bé làm mọi người xung quan ngạc nhiên. Từ khi được rửa tội, Robert siêng năng đến nhà thờ kéo chuông để mời mọi người đến cầu nguyện. Robert mơ được vào chủng viện nhưng người nhà anh phản đối. Sau đó Robert được gửi đến một trường học xa nhà, và ở lại đó với người dân địa phương. Buổi sáng khi không có đủ thức ăn, Robert thường nhường phần của mình cho người khác và để bụng đói đến trường.
Robert bắt đầu nhiễm bệnh phong cùi khi khoảng 16-17 tuổi. Đối với Robert, đây là một thử thách nặng nề vì anh đã có những kế hoạch đẹp cho cuộc đời. Vào tháng 5/1969 anh được đưa đến trại phong Dibamba. Bực mình khó chịu về điều này, Robert hỏi cha tuyên uý tại sao lại là chính anh phải ở đây. Cha trả lời rằng chỉ có Chúa Giêsu mới có câu trả lời cho anh. Trong ba ngày, anh cầu nguyện, không ăn, không uống, không ngủ. Cuối cùng anh hiểu. Anh nói: “Tôi ở đây để anh chị em tôi biết Chúa Giêsu”. Thực tế, 9 anh chị em của Robert đã rửa tội sau khi anh qua đời. Một nữ tu làm việc ở trại phong làm chứng: “Từ đó về sau không bao giờ anh than phiền nữa. Lời thưa xin vâng của Robert như lời thưa xin vâng của Đức Mẹ, một lời xin vâng dứt khoát, trọn vẹn và với niềm vui”.
Robert biết mình sẽ không thể hồi phục. Trong đau đớn này, anh cầu nguyện cho những người khác và vui vẻ đón tiếp những ai đến gặp anh. Cha Raymond đã đọc cho anh nghe cuộc đời của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Đối với người trẻ bị bệnh phong cùi, đây là một mặc khải vì qua câu chuyện của thánh nữ anh hiểu rằng anh có thể trở thành nhà truyền giáo với những đau khổ của mình. Anh nói: “Bạn bè của tôi không biết Chúa Giêsu, tâm hồn họ thường hay buồn rầu. Tôi sẽ dâng hiến cuộc sống tôi vì hạnh phúc của họ. Căn bệnh tôi đang mang là công cụ làm việc để dọn đường lên thiên đàng cho người khác”. Ở thời điểm đó, những ai sống gần Robert đều ghi nhớ nụ cười và đức tin của anh mặc dù phải sống trong cảnh bị bỏ rơi và rất đau đớn.”
Cuối cùng Robert qua đời vào ngày 01/10/1970. “Papa Louis” là y tá của anh cho đến cuối đời, nói: “Chưa bao giờ tôi thấy có một người đau đớn như vậy. Tạ ơn Chúa, Đấng tốt lành đã cho tôi can đảm để làm việc với Robert. Một ngày Robert nói với tôi: ‘Tôi muốn Chúa thêm đau khổ cho tôi để bệnh phong có thể rời khỏi thế giới này’”.
Robert đã dạy rằng đau khổ không phải là điều xấu như có nhiều người ở châu Phi nghĩ. Đau khổ không còn là gánh nặng nếu người ta biết chấp nhận nó.
Chứng tá của Robert đã lan toả khắp giáo phận Douala và ở các nơi khác. Cuối tuần, nhiều người hành hương đến mộ của anh. Trong số này có nhiều người trẻ của trường truyền giáo “Robert Naoussi” được thành lập vào năm 2005 theo cảm hứng của người cùi trẻ và mục tiêu của trường là học cách biến đau khổ trở thành một công cụ loan báo Tin Mừng. Cha Patoum, vị sáng lập phong trào quy tụ khoảng 50 người giải thích: “Hoạt động chính là cầu nguyện, đặc biệt là thờ lạy Thánh Thể”.
Ảnh hưởng của Robert vượt ra ngoài biên giới. Yêu mến tinh thần của Robert, một giảng viên thần học ở miền đông nước Pháp Michèle Atlmeyer đã cố gắng truyền cảm hứng này cho các sinh viên, bằng cách cho các bạn trẻ xem video về cuộc đời của Robert khi 20 tuổi. Giáo sư nói: “Hiện nay các thanh thiếu niên không bị bệnh phong như Robert, nhưng các em bị các loại bệnh phong khác, các dạng nghèo đói khác, trong đó có cả việc không biết Chúa, thường thiếu sự nâng đỡ từ đức tin. Khi giới thiệu Robert cho các bạn trẻ, chính người trẻ này đã dọn đường cho nhiều sinh viên của tôi”.
Ngọc Yến
2022
ĐTC Phanxicô rửa chân cho các tù nhân và nói “Chúa luôn tha thứ”
ĐTC Phanxicô rửa chân cho các tù nhân và nói “Chúa luôn tha thứ”
Theo Phòng báo chí Toà Thánh, chiều thứ Năm Tuần Thánh, Đức Thánh Cha đã đến thăm nhà tù Borgata Aurelia ở Civitavecchia cách Roma khoảng 90 km về phía bắc, để cử hành Thánh lễ Tiệc Ly và rửa chân cho 12 tù nhân trong số 500 người đang thụ án tại đây.
Trong những năm qua, vào chiều thứ Năm Tuần Thánh, Đức Thánh Cha đã nhiều lần dâng Thánh lễ và cử hành nghi thức rửa chân cho các tù nhân đang thụ án trong các nhà tù. Đại dịch đã làm cho thói quen này của Đức Thánh Cha bị dừng lại, nhưng năm nay ngài đã trở lại viếng thăm nhà tù và rửa chân cho các tù nhân, lặp lại cử chỉ mà chính Chúa năm xưa đã làm cho các môn đệ.
Ông Matteo Bruni, Giám đốc Phòng báo chí Toà Thánh cho biết, trong bài giảng Thánh lễ, Đức Thánh Cha nói, trong thế giới này việc rửa chân cho người khác là “một điều lạ lùng”. Khi rửa chân cho kẻ phản bội mình, Chúa Giêsu dạy chúng ta một điều đơn giản là chúng ta phải rửa chân cho nhau, người này phục vụ người kia. Sẽ là tốt đẹp nếu điều này có thể thực hiện mỗi ngày và cho mọi người.
Đức Thánh Cha nói: “Chúa chờ đợi đến cùng, tha thứ tất cả. Chúng ta mệt mỏi xin tha thứ, nhưng Thiên Chúa luôn thứ tha. Mỗi người trong chúng ta đều có một điều gì đó trăn trở trong lòng từ lâu, nhưng hãy xin Chúa tha thứ”. Ngài nhấn mạnh thêm: “Thiên Chúa phán xét, nhưng là một xét xử kỳ lạ: Chúa phán xét và tha thứ. Vì thế hãy tiến bước với niềm vui phục vụ và tha thứ”.
Kết thúc bài giảng, như thường lệ, Đức Thánh Cha đã lặp lại cử chỉ của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly: rửa chân cho các môn đệ, một dấu chỉ tình yêu được thúc đẩy đến mức phục vụ và hạ mình. Đức Thánh Cha đã rửa chân cho 12 tù nhân nam và nữ, thuộc mọi độ tuổi và quốc tịch khác nhau.
Sau Thánh lễ, Đức Thánh Cha đến phòng tiếp khách, chào thăm khoảng 50 tù nhân đại diện cho những người đang thụ án và các nhân viên an ninh của nhà tù. Ngài vui vẻ nhận tất cả các món quà đơn sơ từ họ gồm hoa quả, các tác phẩm điêu khắc làm bằng gỗ và dây đồng, tranh vẽ bằng bút chì. Về phần mình, sau khi tặng lại cho họ xâu chuỗi, Đức Thánh Cha trở về Nhà trọ Thánh Marta ở nội thành Vatican.
Ngọc Yến
2022
Vài ngộ nhận đối với lập trường của Đức Thánh Cha về chiến tranh
Vài ngộ nhận đối với lập trường của Đức Thánh Cha về chiến tranh
Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục lên án sự tàn ác của chiến tranh ở mọi nơi, và cổ võ sự đối thoại, tha thứ, hòa giải và đạt đến một nền hòa bình đích thực, đặc biệt giữa hai dân tộc Nga và Ucraina, mặc dù lập trường của ngài gặp sự chống đối của nhiều người, kể cả một số trong hàng ngũ Công Giáo.
Hai gia đình Ucraina và Nga cùng vác chung Thánh Giá trong Đàng Thánh Giá tối thứ Sáu Tuần Thánh. (ANSA)
Trước và sau khi chiến tranh Ucraina bùng nổ với cuộc tấn công của Nga vào lãnh thổ Ucraina từ ngày 24/2/2022, Đức Thánh Cha đã nhiều lần lên tiếng, chưa có cuộc chiến nào từ trước đến nay ngài lên tiếng nhiều như vậy.
Không nêu đích danh Putin và Nga
Những lần lên án của Đức Thánh Cha đối với chiến tranh tại Ucraina ban đầu còn nhẹ nhàng, nhưng với thời gian, sự lên án này ngày càng mạnh mẽ. Ngài phê bình “những kẻ gây nên chiến tranh”, lên án sự vi phạm công pháp quốc tế, tố giác sự đàn áp dân chúng bằng bom đạn và sợ hãi, và gọi Ucraina là một ”nước tử đạo”. Ngài bác bỏ việc sử dụng kiểu nói mà Nga sử dụng, “chiến dịch quân sự đặc biệt” để chỉ cuộc xâm lăng Ucraina, và gọi đích danh đó là chiến tranh. Đức Thánh Cha nói: “Tại Ucraina, máu và nước mắt chảy thành sông”. Đó không phải chỉ là “một chiến dịch quân sự”, nhưng là một cuộc chiến tranh gieo rắc chết chóc, tàn phá và lầm than.
Nhưng lập trường với ngôn ngữ “ngoại giao” như thế bị một số báo chí mạnh mẽ phê bình. Họ muốn Đức Thánh Cha tố giác và đích danh lên án Nga và Putin. Như một bài xã luận của trang mạng Sismografo viết: “Sự ngoan cố không thể hiểu được như thế của Đức Giáo Hoàng không phải là điều tốt. Các quyền của con người, của các dân tộc, quốc gia, bị lâm nguy ở đây… Đức Giáo Hoàng cần công khai nêu đích danh tổng thống Nga Vladimir Putin như một kẻ gây hấn, tấn công, và kêu gọi cả Đức Thượng Phụ Kirill, Giáo Chủ Chính thống Nga, là người ủng hộ chính sách của Putin, hãy thay đổi lập trường sai trái ấy”.
Nhưng cũng có nhiều người bênh vực lập trường của Đức Thánh Cha Phanxicô và ngành ngoại giao của Tòa Thánh trong vấn đề này.
Đức TGM Claudio Gugerotti, Sứ thần Tòa Thánh tại London, từng là Sứ thần tại Belarus và Ucraina, giải thích rằng “trong việc trung gian, chúng ta cần rất thẳng thắn và loại bỏ những tội lỗi của con người. Chiến tranh ở Ucraina là điều kinh khủng và tuyệt đối không thể chấp nhận được. Nhưng đồng thời vai trò của Giáo Hội cũng là một “nhịp cầu tình thương và tôn trọng”, luôn tránh rơi vào những lời hùng biện. “Mục đích của Tòa Thánh luôn luôn là một khả thể cuối cùng khi mọi khả thể khác đã chấm dứt. Nếu bạn nói một lời loại bỏ thì khả thể ấy không còn nữa. Đức Giáo Hoàng và ngành ngoại giao Tòa Thánh luôn chứng tỏ rằng dù điều gì xảy ra đi nữa, các vị luôn tôn trọng mọi đối tác như một con người. Đó là điều kiện tiên quyết để có thể có một vai trò trong cuộc làm trung gian. Nếu phía thứ ba tuyệt đối loại bỏ một phía kia, coi họ là quái vật, thì người ấy không chấp nhận tham gia cuộc thương thảo vì cảm thấy không được chấp nhận.”
Victor Gaetan, tác giả cuốn sách “Những nhà ngoại giao của Thiên Chúa” (God’s Diplomats) xuất bản năm ngoái (2021) về ngành ngoại giao Tòa Thánh, viết rằng “Bạn luôn luôn phải dành chỗ cho cuộc nói chuyện kế tiếp, cuộc đối thoại sau này”. Và Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói rằng “Tòa Thánh sẵn sàng làm tất cả những gì có thể để phục vụ hòa bình”.
Vụ hai phụ nữ Nga và Ucraina cùng vác Thánh Giá
Gần đây nhất là những phản đối và phê bình mạnh mẽ việc Đức Thánh Cha chấp thuận cho hai nữ y tá Ucraina và Nga, bạn với nhau ở Roma, được mời cùng vác Thánh Giá trong chặng thứ 13 của Đàng Thánh Giá trọng thể ngài cử hành tại Hí trường Colosseo ở Roma vào tối Thứ Sáu Tuần Thánh 15/4. Đó là Irina người Ucraina, xuất thân từ thành Bucha gần Kiev, và Albnina, người Nga từ thủ đô Mascơva.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, Albina nói: “Tôi cầu nguyện cho Ucraina. Tôi cầu nguyện cho thân nhân họ hàng tôi và cầu cho những kinh hoàng này sớm chấm dứt. Thế giới đang cần hòa bình và tình thương. Hai dân tộc anh em này sẽ chứng tỏ điều đó.”
Còn Irina nói: “Cuộc chiến tranh hiện nay đang tàn phá điều mà các dân tộc chúng tôi đã xây dựng với bao nhiêu hy sinh. Chị bạn tôi đây người Nga cảm thấy có lỗi và xin lỗi tôi, nhưng tôi trấn an chị ấy rằng chị không có lỗi gì cả trong những vụ này”.
Phản ứng chống đối
Đại sứ Ucraina cạnh Tòa Thánh, ông Andrij Jurasz, phản đối Tòa Thánh và nói rằng: không nên tổ chức kinh nguyện như thế như một phương thế hòa giải, hòa giải phải diễn ra sau đó: “Sự hòa giải đến sau, khi sự gây hấn tấn công chấm dứt. Khi người Ucraina không những có thể cứu mạng sống của mình nhưng cả tự do nữa. Và dĩ nhiên, chúng ta biết rằng hòa giải diễn ra khi những kẻ tấn công nhìn nhận tội của họ và xin lỗi”.
Cả Đức TGM Trưởng Sviatoslav Schevchuk, Giáo Chủ Công Giáo Ucraina nghi lễ đông phương, cũng nhận định rằng sự kiện một phụ nữ Ucraina và một phụ nữ Nga cùng vác thánh giá là điều không thích hợp và mơ hồ trong lúc này và thậm chí có tính chất xúc phạm. Văn bản và những cử chỉ trong chặng thứ 13 của đàng Thánh Giá này không thể hiểu nổi, nhất là trong lúc chờ đợi cuộc tấn công thứ hai đẫm máu hơn của các lực lượng Nga chống lại các thành thị và làng mạc của chúng tôi. Những cử chỉ hòa giải giữa các dân tộc chỉ có thể khi chiến tranh chấm dứt và những kẻ phạm tội ác chống lại nhân loại sẽ bị kết án theo công lý”.
Giải thích
– Không có phản ứng chính thức nào từ phía Đức Thánh Cha hay Tòa Thánh, nhưng Đức TGM Visbaldas Kulbokas, Sứ thần Tòa Thánh tại Ucraina, cho biết đã chuyển về Vatican các phản ứng trong dư luận Ucraina về vụ này. Tòa Thánh đã biết các phản ứng từ phía Ucraina. Các ký giả tại Vatican đang trả lời phản ứng của người Ucraina, và nhấn mạnh rằng kinh nguyện này không phải là một hành vi chính trị. Dưới thập giá của Chúa Giêsu, tốt và xấu, kẻ tấn công và nạn nhân, đều có. Lúc đó, cũng là một kinh nguyện của Chúa Giêsu cho mỗi người: Ngăn chặn kẻ tấn công và thúc đẩy họ phải hòa giải. Cứu Ucraina, cứu các sinh mạng, các gia đình, trẻ em, tự do, cứu vãn các đền thờ, cứu dân Ucraina.
Đức TGM Sứ Thần Visvaldas cũng kêu gọi mọi người hãy nhìn kinh nguyện này không phải về phương diện chính trị, nhưng dưới khía cạnh cầu nguyện, xin Chúa ban ơn tha thứ trong tâm hồn chúng ta.
– Tuy không có phản ứng chính thức từ Vatican, nhưng cha Antonio Spadaro, dòng Tên, Chủ nhiệm tạp chí “Civiltà Cattolica” (Văn minh Công Giáo), của dòng Tên ở Ý, giải thích rằng: “Đức Thánh Cha Phanxicô là một vị mục tử chứ không phải là một nhà chính trị. Ngài hành động theo tinh thần Tin Mừng là hòa giải, kể cả không có hy vọng hữu hình trong cuộc chiến tranh gây hấn mà ngài gọi là ‘Một tội phạm thánh’. Vì thế ngài đã thánh hiến Ucraina cùng với nước Nga cho Trái Tim Đức Mẹ. Hai phụ nữ, Albina và Irina, Thứ Sáu Tuần Thánh cùng vác Thánh Giá. Họ không nói lời nào. Không nói lời xin lỗi hay những điều khác. Không nói gì cả. Đó là một dấu chỉ ngôn sứ giữa tối tăm dầy đặc. Và đó là một lời khẩn cầu Thiên Chúa, xin Chúa ban ơn hòa giải”.
Cha Spadaro nhận định rằng “Sự hiện diện của họ chung với nhau là một kinh nguyện gây thắc mắc để xin một ơn mà chỉ mình Chúa có thể ban. Lời ngôn sứ được ghi khắc trong tâm hồn và nơi bóng đen của lịch sử. Lời cầu xin đối với tín hữu ngày nay vẫn còn: trong tình trạng ngày nay “yêu thương kẻ thù” có nghĩa là gì? Đây là trọng tâm của Tin Mừng. Và Đức Giáo Hoàng là mục tử hoàn vũ. Đối với ngài vẫn có giá trị điều ngài viết trong một dòng tweet: “Chúa không phân chia chúng ta thành những người xấu và người tốt, bạn hữu và kẻ thù. Đối với Chúa, tất cả chúng ta là những người con được yêu mến”. Đó thực là một điều kinh khủng và khó được chấp nhận. Nhưng đó là Tin Mừng của Chúa Kitô.”
- Trần Đức Anh O.P