2022
Đức Thánh Cha chủ sự Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá tại Nur-Sultan
Đức Thánh Cha chủ sự Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá tại Nur-Sultan
Đức Thánh Cha Phanxicô chủ sự Thánh lễ Suy tôn Thánh giá tại Trung Tâm Triển lãm Quốc tế EXPO ở Nur-Sultan, Kazakhstan, và nói rằng từ Chúa Giêsu bị đóng đinh, các Kitô hữu học được “tình yêu chứ không phải hận thù; lòng trắc ẩn chứ không phải sự thờ ơ; sự tha thứ chứ không phải báo thù”.
Chiều thứ Ba ngày 14/9/2022, sau khi nghỉ trưa tại Toà Sứ Thần ở Nur-Sultan, lúc khoảng 4 giờ chiều Đức Thánh Cha đi xe đến Trung Tâm Triển lãm Quốc tế EXPO cách đó 7 cây số để dâng Thánh lễ.
Trung Tâm Triển lãm Quốc tế EXPO
Đây là nơi đã diễn ra Triển lãm Hội chợ Quốc tế năm 2017 về chủ đề “Năng lượng của tương lai”. Sự kiện tập trung về vấn đề sử dụng năng lượng hiệu quả, sự bền vững, năng lượng tái tạo và biến đổi khí hậu, có sự tham gia của 115 quốc gia và 22 tổ chức quốc tế và đã có 4 triệu người đến thăm quan, trong đó có 650 ngàn người từ nước ngoài.
Ngày nay khu phức hợp EXPO là tâm điểm của sự phát triển khoa học, công nghệ thông tin, kinh tế, cũng như của ngành công nghiệp giải trí. Tại đây có Bảo tàng Nur-Alem và Trung tâm Đại hội, nơi diễn ra các sự kiện quan trọng và có ý nghĩa trong những năm gần đây. Nur-Alem, Bảo tàng Năng lượng Tương lai, là toà nhà hình cầu lớn nhất thế giới, được xây dựng bằng kính và thép, được thiết kế bởi các kiến trúc sư người Mỹ Adrian Smith và Gordon Gill, với đường kính 80 mét, cao 100 mét và phần mở rộng bên trong là 26.000 mét vuông. Toà nhà là biểu tượng cho sự tiến bộ của Kazakhstan.
Quảng trường rộng lớn của khu triển lãm EXPO có thể chứa khoảng 10 ngàn tín hữu. Khi đến quảng trường EXPO, Đức Thánh Cha đi xe mui trần vòng quanh khu vực cử hành Thánh lễ để chào các tín hữu; sau đó, vào lúc gần 5 giờ chiều, ngài bắt đầu chủ sự Thánh lễ với sự tham dự của các Hồng y và giám mục tháp tùng ngài từ Vatican, các giám mục và các linh mục Kazakhstan cũng như các nước lân cận, trước sự hiện diện của hàng ngàn tín hữu Kazakhstan cũng như các tín hữu đến từ vùng Trung Á.
Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá
Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá được cử hành bằng tiếng Latinh và tiếng Nga. Trong bài giảng, từ sự đối lập giữa những con rắn lửa cắn chết và con rắn đồng cứu sống được nói đến trong bài trích sách Dân Số, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu nhìn lên Chúa Kitô chịu đóng đinh, ơn cứu độ của chúng ta, để học tình yêu khiêm nhường phổ quát của Người. Để từ đó, chúng ta được giải khỏi nọc độc của sự ác, của thù hận, báo thù, để chúng ta không còn phàn nàn, cắn xé hay nghi ngờ mất tin tưởng lẫn nhau, và để chúng ta trở thành những Kitô hữu trọn vẹn, những chứng nhân vui tươi của sự sống mới, của tình yêu và hòa bình.
Đức Thánh Cha bắt đầu bài giảng với lời giải thích lý do của Lễ Suy tôn Thánh giá: “Thập giá là giá xử tử, nhưng hôm nay chúng ta cử hành lễ Suy tôn Thánh giá của Chúa Kitô, bởi vì trên cây gỗ đó, Chúa Giêsu đã tự mình gánh lấy tội lỗi của chúng ta và sự dữ của thế gian, và đánh bại chúng bằng tình yêu của Người.” Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay nói về điều đó khi cho thấy sự tương phản giữa những con rắn cắn chết với con rắn cứu sống. Từ đó Đức Thánh Cha suy tư về hai hình ảnh.
Con rắn cắn chết và tội nghi ngờ mất tin tưởng vào Chúa
Trước hết là những con rắn cắn. Chúng tấn công người dân, những người một lần nữa lại rơi vào tội phàn nàn chống lại Chúa. Việc họ lầm bầm chống lại Thiên Chúa không chỉ đơn giản là cằn nhằn và phàn nàn về Người, nhưng cách sâu xa hơn, trong lòng người dân Israel đã mất niềm tin cậy vào Thiên Chúa, vào lời hứa của Người.
Sự việc này, theo Đức Thánh Cha, nhắc chúng ta nhớ đến con rắn đầu tiên được đề cập trong Kinh Thánh, trong sách Sáng Thế, kẻ cám dỗ, kẻ đã đầu độc trái tim của ông Ađam và bà Evà, và khiến họ nghi ngờ Thiên Chúa. Ma quỷ, dưới hình dạng một con rắn, đã lừa dối họ và khiến họ ngờ vực bằng cách thuyết phục họ rằng Thiên Chúa không tốt lành, nhưng ghen tị với tự do và hạnh phúc của họ. Tội nguyên tổ quay trở lại: dân Israel nghi ngờ Thiên Chúa, không tin cậy Người, họ phàn nàn và nổi loạn chống lại Đấng đã ban cho họ sự sống và vì vậy họ gặp phải sự chết.
Đoạn Kinh Thánh mời gọi chúng ta quan sát kỹ những khoảnh khắc trong lịch sử cá nhân và cộng đồng của chúng ta, những lúc mà sự tin tưởng vào Thiên Chúa và niềm tin giữa chúng ta bị mất đi. Đã bao lần, vì thất vọng và thiếu kiên nhẫn, chúng ta đã héo mòn trong sa mạc của chính mình, đánh mất mục tiêu của cuộc hành trình!
Những vết cắn của bạo lực
Đức Thánh Cha nhận định rằng tại đất nước Kazakhstan rộng lớn này cũng có sa mạc, có sự mệt mỏi, sự khô khan mà đôi khi chúng ta mang trong lòng, là những giây phút mệt mỏi và thử thách, khi mà chúng ta không còn đủ sức để nhìn lên cao, hướng về Thiên Chúa. Đó là những tình huống trong đời sống cá nhân, Giáo hội và xã hội, trong đó chúng ta bị con rắn của sự ngờ vực cắn, bị nhiễm độc bởi sự thất vọng và tuyệt vọng, của sự bi quan và cam chịu, và bị đóng kín trong cái tôi của mình, thiếu đi tất cả sự nhiệt thành. Và Đức Thánh Cha nghĩ đến những vết cắn đau đớn khác của những con rắn hung hãn của bạo lực, cuộc đàn áp của chủ nghĩa vô thần, sự đàn áp tôn giáo, và về một hành trình khó khăn khi quyền tự do của con người bị đe dọa và nhân phẩm của họ bị xúc phạm.
Ngài nhắc nhở mọi người gìn giữ ký ức về những đau khổ đó và không quên những khoảnh khắc nghiệt ngã. Hòa bình không bao giờ đạt được một lần cho mãi mãi; và để Kazakhstan có thể phát triển hơn nữa “trong tình huynh đệ, đối thoại và hiểu biết […] cần có sự dấn thân của mọi người. Nhưng trước đó, chúng ta cần phải canh tân niềm tin vào Chúa: ngước nhìn lên, nhìn vào Người và học hỏi từ tình yêu phổ quát và bị đóng đinh của Người.
Con rắn cứu sống
Đức Thánh Cha tiếp tục bài giảng bằng việc suy tư hình ảnh thứ hai: con rắn cứu sống. Khi dân chúng đang chết vì rắn lửa, Thiên Chúa nghe thấy lời cầu bầu của Môsê và nói với ông: “Ngươi hãy đúc một con rắn và treo nó trên một cây cột. Nếu ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21,8). Và quả thật, “hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được sống” (câu 9).
Lưu ý đến việc Thiên Chúa không tiêu diệt những con rắn độc đó nhưng đưa ra những chỉ dẫn chi tiết này cho ông Môsê, Đức Thánh Cha nhận định rằng cách hành động của Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta thấy cách Người đối phó với sự ác, tội lỗi và sự ngờ vực của nhân loại. Khi đó cũng như bây giờ, trong cuộc chiến thiêng liêng mạnh mẽ kéo dài suốt lịch sử, Thiên Chúa không hủy diệt những thứ thấp hèn và vô giá trị mà con người chọn theo đuổi. Rắn độc không biến mất; chúng luôn ở đó, nằm chờ, sẵn sàng cắn.
Chúa Giêsu đã được giương cao trên Thánh giá
Thiên Chúa làm gì? Chúa Giêsu nói với chúng ta trong Tin Mừng: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15). Đây là sự thay đổi mang tính quyết định: con rắn cứu sống đã đến giữa chúng ta. Chúa Giêsu, đã được giương cao trên Thánh giá, không cho phép những con rắn độc tấn công chúng ta để gây ra cái chết của chúng ta.
Đứng trước sự khốn cùng của chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta một chân trời mới: nếu chúng ta luôn nhìn vào Chúa Giêsu, thì nọc độc của sự dữ không còn có thể chiến thắng chúng ta nữa, vì trên Thánh giá Người đã mang lấy trên mình nọc độc của tội lỗi và sự chết, và đè bẹp sức mạnh hủy diệt của chúng. Đó là cách Chúa Cha đáp lại sự dữ lây lan trên thế giới: Người đã ban cho chúng ta Chúa Giêsu, Đấng đến gần chúng ta theo cách mà chúng ta không bao giờ có thể tưởng tượng được.
Từ Thánh giá, chúng ta nhìn theo cách nhìn yêu thương của Chúa
Đức Thánh Cha nói tiếp: Thưa anh chị em, đây là con đường, con đường dẫn đến ơn cứu độ của chúng ta, sự tái sinh và sự phục sinh của chúng ta: chiêm ngắm Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Từ trên cao đó, chúng ta có thể nhìn cuộc sống của chúng ta và lịch sử của các dân tộc chúng ta theo một cách nhìn mới. Vì từ Thánh giá của Chúa Kitô, chúng ta học được tình yêu thương, chứ không phải sự thù hận; lòng trắc ẩn, chứ không phải sự thờ ơ; lòng tha thứ chứ không phải sự báo thù. Vòng tay dang rộng của Chúa Giêsu là vòng tay của tình yêu dịu dàng mà Thiên Chúa muốn ôm chúng ta. Chúng cho chúng ta thấy tình yêu huynh đệ mà chúng ta được kêu gọi để dành cho nhau và cho mọi người. Chúng chỉ cho chúng ta con đường, con đường của Kitô giáo. Đó không phải là con đường của áp đặt và cưỡng bức, của quyền lực và địa vị; nó không bao giờ giơ Thánh giá của Chúa Kitô lên để chống lại anh chị em của chúng ta, những người mà Chúa đã dâng hiến mạng sống cho họ! Con đường của Chúa Giêsu, con đường cứu độ thì khác: đó là con đường của một tình yêu nhưng không khiêm nhường và phổ quát, không có những từ như “nếu”, “và” hay “nhưng”.
Là một Kitô hữu có nghĩa là sống không có nọc độc
Đúng, bởi vì trên cây gỗ của Thánh giá, Đức Kitô đã loại bỏ nọc độc khỏi con rắn sự dữ. Là một Kitô hữu có nghĩa là sống không có nọc độc: không cắn xé lẫn nhau, không phàn nàn, đổ lỗi và nhiều chuyện, không gieo rắc điều ác, không làm ô nhiễm trái đất bằng tội lỗi và sự không tin tưởng, những điều nảy sinh từ ma quỷ. Thưa anh chị em, chúng ta đã được tái sinh từ cạnh sườn bị đâm thủng của Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thánh giá. Xin cho chúng ta được giải thoát khỏi nọc độc của sự chết (xem Kn 1,14), và hãy cầu nguyện để nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta có thể trở nên những Kitô hữu trọn vẹn hơn bao giờ hết: những chứng nhân vui tươi của sự sống mới, của tình yêu và hòa bình.
Hồng Thủy
2022
Đôi lời cảm ơn trong nghi thức cung nghinh di cốt Đức cha Pierre Lambert de La Motte
Đôi lời cảm ơn trong nghi thức cung nghinh di cốt Đức cha Pierre Lambert de La Motte
Giáo phận Qui Nhơn chúng con xin hết lòng cảm ơn Đức cha Giuse, Quý Cha, Quý Soeurs trong Ban đặc trách Hồ sơ phong thánh cho Đức cha Lambert, cùng với Quý Thầy theo phụ giúp, mặc dù công việc bề bộn,…
ĐÔI LỜI CẢM ƠN
của Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Giám mục Giáo phận Qui Nhơn, trong nghi thức cung nghinh di cốt Đức cha Pierre Lambert de La Motte, tại nhà thờ Chính tòa Qui Nhơn ngày 14.9.2022.
Trọng kính Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Giám mục Giáo phận Phan Thiết, Trưởng ban đặc trách Hồ sơ phong thánh cho Đức cha Pierre Lambert de La Motte,
Kính thưa Quý Cha và Quý Nữ tu của Quý Ban.
Kính thưa Chị Tổng Phụ trách và toàn thể Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn.
Trong văn thư gửi Quý Đức Hồng y và Quý Đức cha của Giáo Hội Việt Nam, ngày 31.05.2021, Bộ Phong thánh đã viết: “Trước khi bắt đầu tiến trình điều tra cấp giáo phận, cần phải thẩm tra liệu danh thơm thánh thiện của ứng viên là có thực và có phổ biến trong phần đông Dân Chúa hay không, bằng cách đánh giá chất lượng của nó và phân biệt sự thánh thiện này khỏi danh thơm tiếng tốt trong công chúng, dư luận, các hoạt động xã hội và văn hóa… Danh thơm này phải là tự phát, nghĩa là, không được dựng nên cách giả tạo.
Xin lưu ý rằng danh thơm thánh thiện đích thực được biểu lộ bởi niềm tin của tín hữu về sự thánh thiện của một người, tự phát dẫn đưa tín hữu tới việc cầu xin cho những nhu cầu riêng của họ cũng như của những người khác, bao gồm việc thường xuyên thăm viếng mộ phần hay những nơi chốn khác liên kết với ký ức về ứng viên. Danh thơm thánh thiện cũng phải được kèm theo bởi những dấu hiệu khác, chẳng hạn, được chứng thực bởi những người đã nhận được những ân sủng và ân huệ từ trời, nhờ sự chuyển cầu của ứng viên”.
Để thực hiện quy định của Bộ Phong thánh, hôm nay Đức cha Giuse và toàn thể Ban đặc trách Hồ sơ phong thánh cho Đức cha Pierre Lambert de La Motte, đã đích thân đến với Giáo phận Qui Nhơn chúng con để giúp tổ chức nghi thức chuyển giao di cốt Đức cha Lambert từ Nhà mẹ Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn về nhà thờ Chính tòa, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tín hữu trong và ngoài giáo phận có thể đến kính viếng để bày tỏ tâm tình tôn kính, yêu mến và xin ơn. Càng có nhiều tín hữu đến kính viếng và nếu được ơn, thì danh thơm đích thực về sự thánh thiện của Đức cha Lambert càng được bày tỏ, khiến cho tiến trình phong Chân phước và phong Thánh cho Đức cha được trở nên dễ dàng hơn.
Đức cha Lambert là vị Đại diện Tông tòa đầu tiên của Địa phận Đàng Trong và Giám quản Tông tòa của Địa phận Đàng Ngoài. Do đó, toàn thể Giáo hội Việt Nam từ Nam chí Bắc đều biết ơn ngài. Cách riêng đối với Giáo phận Qui Nhơn, ngài được coi là vị chủ chăn đầu tiên của giáo phận, và các vị chủ chăn của giáo phận đều được tính từ ngài trở đi, vì Giáo phận Qui Nhơn hiện nay là hậu thân trực hệ của Địa phận Đàng Trong, là phần còn lại của Địa phận Đàng Trong sau khi chia cắt để thành lập Địa phận Tây Đàng Trong năm 1844, Địa phận Bắc Đàng Trong năm 1850, Địa phận Kontum năm 1932, Địa phận Nha Trang năm 1957 và Giáo phận Đà Nẵng năm 1963.
Nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu khi được Tòa Thánh sai đi làm Đại diện Tông tòa Địa phận Đàng Trong là đào tạo hàng giáo sĩ địa phương. Vì thế, song song với việc sai các thừa sai đến truyền giáo tại Việt Nam, ngài cũng đồng thời thành lập chủng viện để đào tạo hàng giáo sĩ Việt Nam. Cha Giuse Trang, quê ở Quảng Ngãi, là vị linh mục Việt Nam đầu tiên của cả nước đã được ngài phong chức linh mục trong lễ vọng Phục sinh ngày 31.03.1668 tại chủng viện Ajuthia. Ngài cũng thành lập Dòng Chị Em Mến Thánh Giá Đàng Trong năm 1671 tại An Chỉ, Quảng Ngãi, với vị Bề trên tiên khởi là em gái của cha Giuse Trang. Trong di chúc được viết và ký tên ngày 22.7.1675, Đức cha đã để tại toàn bộ tài sản mà ngài có được do thừa kế gia đình và các bổng lộc cho việc xây dựng chủng viện đào tạo linh mục Đàng Trong.
Trong địa bàn Giáo phận Qui Nhơn hiện nay có nhiều nơi còn lưu dấu chân của ngài trong hai cuộc viếng thăm mục vụ. Trong cuộc viếng thăm lần thứ nhất (1671-1672), ngài đến Nước Mặn và ở lại đó 6 tuần. Nước Mặn là nơi Giáo phận đón nhận hạt giống Tin mừng đầu tiên từ các thừa sai Dòng Tên năm 1618. Tại đây, ngài rửa tội cho 18 dự tòng và ban phép thêm sức cho hơn 200 người. Trước khi lên đường trở lại Xiêm, ngài còn ghé thăm Nước Mặn một lần nữa.
Nơi thứ hai lưu giữ dấu chân của ngài là Quảng Ngãi. Trong chuyến viếng thăm lần thứ nhất, ngài từ Nước Mặn đi Quảng Ngãi và ở lại đó hơn hai tháng. Trong thời gian này ngài thành lập Dòng Chị Em Mến Thánh Giá như đã nói trên. Trong chuyến viếng thăm mục vụ lần thứ hai (1675-1676), ngài đến Quảng Ngãi để thăm giáo dân và nhận lời khấn lần đầu của các nữ tu Mến Thánh Giá. Ngài tỏ ra rất ưu ái đối với Quảng Ngãi và kể từ đó giáo đoàn Quảng Ngãi được coi như trưởng nữ của các giáo đoàn ở Đàng Trong.
Thời ngài, tại Địa phận Đàng Trong có cả trăm người được phúc tử đạo (từ 1664-1675). Trong hai cuộc viếng thăm mục vụ, ngài ban phép thêm sức cho trên 10.000 người. Khi ngài qua đời vào năm 1679, số giáo dân Đàng Trong có khoảng từ 50.000 đến 60.000 người, không kể những người chạy sang các nước lân cận để tránh các cơn bách hại. Ngài đã đặt nền móng cho hàng giáo sĩ bản xứ, cho các cộng đoàn nữ tu, đồng thời phát triển các cộng đoàn hoạt động tông đồ như các thầy giảng, xây dựng đời sống đức tin cho các tín hữu. Bằng thái độ vừa cương quyết vừa nhân hậu, ngài đã tạo được sự hòa thuận và hiệp nhất trong cộng đoàn Dân Chúa, cũng như sự kính trọng nơi các cấp chính quyền và anh chị em lương dân đối với đạo Chúa và bản thân ngài.
Vì vậy, Giáo hội Việt Nam tiến hành Hồ sơ phong thánh cho Đức cha Lambert với tư cách là một chủ chăn đã để lại những dấu ấn thánh thiện cho dân Chúa, chứ không phải chỉ vì ngài là Đấng Sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Đó là lý do khiến Ban đặc trách Hồ sơ phong thánh cho Đức cha Lambert de La Motte đã phối hợp với Giáo phận Qui Nhơn tổ chức cuộc chuyển giao di cốt của ngài từ Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn về nhà thờ Chính tòa, là nơi có nhiều người thường xuyên đến kính viếng và đọc kinh cầu nguyện. Mong rằng kể từ hôm nay, ngày càng có nhiều người đến kính viếng để cầu nguyện cho ngài sớm được tuyên phong Chân phước, cũng như xin ngài chuyển cầu cùng Chúa cho mình.
Sau khi tham dự nghi thức và được nghe bài chia sẻ của Đức cha Giuse, Giám mục Giáo phận Phan Thiết, Trưởng ban đặc trách Hồ sơ phong thánh, và bài thuyết trình của cha Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, Cáo Thỉnh viên, mọi người có thêm hiểu biết về cuộc đời thánh thiện và sự hy sinh phục vụ của Đức cha Lambert đối với Giáo Hội Việt Nam nói chung và đối với Giáo phận Qui Nhơn nói riêng, nhờ đó góp phần làm cho hồ sơ phong thánh của ngài có điều kiện thuận tiện hơn.
Giáo phận Qui Nhơn chúng con xin hết lòng cảm ơn Đức cha Giuse, Quý Cha, Quý Soeurs trong Ban đặc trách Hồ sơ phong thánh cho Đức cha Lambert, cùng với Quý Thầy theo phụ giúp, mặc dù công việc bề bộn, đường sá xa xôi, đã gợi ý tổ chức và trực tiếp tham gia nghi thức cung nghinh di cốt Đức cha Lambert từ Nhà Mẹ Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn về nhà thờ Chính tòa, để mọi thành phần dân Chúa không những trong giáo phận mà còn ngoài giáo phận đến kính viếng.
Về phía nội bộ, chúng tôi cũng xin cảm ơn Chị Tổng Phụ trách và Quý chị em trong Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn, đã có công lưu giữ di cốt của Đức cha từ lâu nay, và hôm nay đã vui lòng chuyển giao lại cho giáo phận. Điều này chẳng những không gây mất mát cho Hội dòng, mà trái lại còn khiến cho nhiều Hội dòng Mến Thánh Giá khác và nhiều giáo dân khắp nơi đến hiệp ý với Hội dòng để kính viếng hài cốt Đức cha Lambert, vừa là vị Giám mục tiên khởi của Giáo hội Đàng Trong nói chung, của Giáo phận Qui Nhơn nói riêng, lại vừa là Đấng Sáng lập Dòng Chị Em Mến Thánh Giá Đàng Trong, mà Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn hiện nay là tổ chức kế thừa trực hệ.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn sự hiện diện của Quý Cha, Quý Thầy Phó tế, Quý Bề trên và Nữ tu các Hội dòng, Quý Anh Chị em Mến Thánh Giá Qui Nhơn Tại Thế, Quý chủng sinh và toàn thể anh chị em giáo dân đã về tham dự nghi thức hôm nay. Cũng xin cảm ơn tất cả những người đã bằng cách này cách khác góp phần vào việc tổ chức nghi thức hôm nay.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả.
2022
Diễn văn của Đức Thánh Cha tại buổi đọc Tuyên bố cuối cùng
Diễn văn của Đức Thánh Cha tại buổi đọc Tuyên bố cuối cùng
Trong diễn văn tại buổi đọc Tuyên bố cuối cùng của Đại hội lần thứ 7 các lãnh đạo thế giới và tôn giáo truyền thống, Đức Thánh Cha tái khẳng định bản chất đích thực và bất khả xâm phạm của tôn giáo; mối liên hệ lành mạnh giữa chính trị và sự siêu việt; tự do tôn giáo không phải là một khái niệm trừu tượng, nhưng là một quyền cụ thể; đối thoại liên tôn là một con đường chung cho hòa bình và vì hòa bình; con người là đường của mọi tôn giáo.
Chúng ta đã cùng nhau đi trên con đường này. Cám ơn anh chị em đã đến từ những nơi khác nhau trên thế giới, mang đến đây sự phong phú về tín ngưỡng và văn hóa của anh chị em. Cám ơn anh chị em đã tham gia tích cực những ngày làm việc này, dấn thân và chia sẻ để phục vụ cho công cuộc đối thoại. Điều này càng có giá trị hơn bao giờ hết trong những thời điểm đầy thử thách, khi các vấn đề của đại dịch còn được cộng thêm bởi sự điên cuồng vô nghĩa của chiến tranh. Có quá nhiều hận thù và chia rẽ, nhưng thiếu sự đối thoại và hiểu nhau. Điều này còn nguy hiểm và tai tiếng hơn trong thế giới toàn cầu hóa. Chúng ta không thể tiến bước nếu đồng thời vừa có sự hiệp nhất và chia rẽ, liên kết và chia cắt bởi quá nhiều bất bình đẳng. Do đó, cám ơn anh chị em vì những nỗ lực hướng tới hòa bình và thống nhất. Cám ơn chính quyền địa phương, những người đã đón tiếp chúng tôi, chuẩn bị và tổ chức Đại hội một cách chu đáo. Cám ơn người dân Kazakhstan thân thiện và can đảm, có khả năng tiếp nhận các nền văn hóa khác trong khi vẫn bảo tồn lịch sử cao quý và truyền thống quý báu của mình. Kiop raqmet! Bolshoe spaibo! Cám ơn rất nhiều!
Khẩu hiệu cuộc thăm của tôi “Những sứ giả của Hòa bình và Hiệp nhất”, được viết ở số nhiều, vì đây là con đường chung. Và Đại hội lần thứ bảy này, trong đó chúng ta được tham gia nhờ ân ban của Đấng Tối Cao đã đánh dấu một giai đoạn quan trọng. Kể từ khi bắt đầu vào năm 2003, sự kiện này đã được lấy làm mẫu là Ngày Cầu nguyện cho Hòa bình Thế giới do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II triệu tập năm 2002 tại Assisi, nhằm tái khẳng định sự đóng góp tích cực của các truyền thống tôn giáo đối với đối thoại và hòa hợp giữa các dân tộc. Sau những gì xảy ra vào ngày 11/9/2001, cần phải phản ứng cùng nhau, trước bầu khí nóng rực mà bạo lực khủng bố muốn kích động và có nguy cơ khiến tôn giáo trở thành một yếu tố xung đột. Nhưng chủ nghĩa khủng bố tôn giáo giả, chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa cấp tiến, chủ nghĩa quốc gia được che đậy trong sự thánh thiêng vẫn làm dấy lên nỗi sợ hãi và lo ngại về tôn giáo. Như vậy, trong những ngày này, Thiên Chúa quan phòng đã cho chúng ta gặp nhau, để tái khẳng định bản chất đích thực và bất khả xâm phạm của tôn giáo.
Về vấn đề này, Tuyên bố của Đại hội chúng ta khẳng định rằng chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa cấp tiến, chủ nghĩa khủng bố và tất cả các động cơ khác gây hận thù, thù địch, bạo lực và chiến tranh, bất kể động cơ hay mục tiêu của chúng, không liên quan gì đến tinh thần tôn giáo đích thực, phải bị từ chối theo những thuật ngữ quyết định nhất có thể (xem số 5): bị lên án, không có “nếu” và không có “nhưng”. Hơn nữa, dựa trên thực tế là Đấng Toàn Năng đã tạo dựng mọi người bình đẳng, bất kể họ thuộc tôn giáo, dân tộc hay xã hội nào, chúng ta đồng ý rằng sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau phải được coi là điều cần thiết và không thể thiếu trong việc giảng dạy tôn giáo (xem số 13).
Kazakhstan, trung tâm của lục địa lớn và quan trọng của châu Á, là nơi tự nhiên để chúng ta gặp gỡ. Lá cờ của quốc gia này nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết duy trì mối quan hệ lành mạnh giữa chính trị và tôn giáo. Thực tế, nếu đại bàng vàng được hiển thị trên lá cờ, gợi nhớ quyền lực trần thế và các đế chế cổ xưa, thì nền màu xanh lam gợi lên màu sắc của bầu trời, và sự siêu việt. Do đó, có một mối liên hệ lành mạnh giữa chính trị và sự siêu việt, một hình thức chung sống lành mạnh giữ cho các lĩnh vực phân biệt. Phân biệt, nhưng không lẫn lộn hoặc tách biệt. Chúng ta hãy nói “Không” với sự lẫn lộn, vì lợi ích của con người. Con người giống như đại bàng, cần một bầu trời tự do để bay, một không gian tự do và rộng mở đến vô cùng không bị giới hạn bởi sức mạnh trần thế. Mặt khác, siêu việt không được nhượng bộ trước cám dỗ của việc biến mình thành quyền lực, nếu không, trời sẽ sập xuống, bên kia vĩnh cửu sẽ bị giam cầm trong trần thế hiện tại, tình yêu dành cho người lân cận trở thành mồi cho những quyết định đảng phái. Nói “Không” với sự lẫn lộn nhưng cũng nói “không” với sự tách biệt giữa chính trị và siêu việt, vì những khát vọng cao nhất của con người không thể bị loại trừ khỏi đời sống công cộng và chỉ được xếp vào lãnh vực cá nhân. Vì vậy, những người muốn bày tỏ niềm tin của họ một cách hợp pháp phải được bảo vệ ở mọi nơi và mọi lúc. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều người vẫn còn bị bắt bớ và phân biệt đối xử vì đức tin của họ! Chúng ta đã mạnh mẽ kêu gọi các chính phủ và các tổ chức quốc tế có liên quan hỗ trợ các nhóm tôn giáo và cộng đồng dân tộc bị vi phạm nhân quyền và các quyền tự do cơ bản, cũng như bị bạo lực bởi những kẻ cực đoan và khủng bố, kể cả do hậu quả của chiến tranh và xung đột quân sự (số 6). Trên hết, cần phải dấn thân để tự do tôn giáo không phải là một khái niệm trừu tượng, nhưng là một quyền cụ thể. Chúng ta hãy bảo vệ quyền tôn giáo, hy vọng, và vẻ đẹp cho tất cả mọi người. Bởi vì không chỉ Kazakhstan, như quốc thiều của họ tuyên bố, là “bầu trời của mặt trời vàng”, và điều này cũng đúng đối với mỗi người. Trong tính độc nhất tuyệt đối, mỗi người khi tiếp xúc với thần linh, có thể tỏa sáng đặc biệt trong thế giới chúng ta.
Do đó, Giáo hội Công giáo, vốn không bao giờ mệt mỏi trong việc loan báo phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người, được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,26), cũng tin vào sự hiệp nhất của gia đình nhân loại. Giáo hội Công giáo tin rằng “tất cả các dân tộc tạo thành một cộng đồng duy nhất, có một nguồn gốc duy nhất, vì Thiên Chúa đã tạo ra toàn thể loài người sống trên mặt đất” (Conc. Ecum. Vat. II, Dich. Nostra aetate, 1). Vì lý do này, kể từ khi bắt đầu Đại hội này, Tòa Thánh, đặc biệt qua Bộ Đối thoại Liên tôn, đã tích cực tham gia. Và Toà Thánh muốn tiếp tục như vậy: con đường đối thoại liên tôn là một con đường chung cho hòa bình và vì hòa bình, và như vậy nó là cần thiết và không thể đảo ngược. Đối thoại liên tôn không chỉ là một cơ hội, nhưng là một sự phục vụ khẩn cấp và không thể thay thế đối với nhân loại, đối với sự ngợi khen và vinh quang của Đấng Tạo Hóa của tất cả mọi người.
Anh chị em thân mến, khi nghĩ về hành trình chung này, tôi tự hỏi: điểm hội tụ của chúng ta là gì? Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II – người đã đến thăm Kazakhstan 21 năm trước – khẳng định rằng “mọi con đường của Giáo hội đều dẫn đến con người” và con người là “con đường của Giáo hội”. (Lett. enc. Redemptor hominis, 14) Hôm nay tôi muốn nói rằng con người cũng là con đường của mọi tôn giáo. Vâng, con người cụ thể, yếu nhược vì đại dịch, gục ngã bởi chiến tranh, bị tổn thương bởi sự thờ ơ! Con người, một thụ tạo mong manh và tuyệt vời, “biến mất nếu không có Đấng Tạo hóa” (Conc. Ecum. Vat. II, Cost. past. Gaudium et spes, 36) và không có người khác, không tồn tại! Chúng ta hãy nghĩ đến lợi ích của con người hơn là các mục tiêu chiến lược và kinh tế, lợi ích quốc gia, năng lượng và quân sự, trước khi đưa ra các quyết định quan trọng. Để đưa ra những lựa chọn thực sự lớn, hãy nghĩ đến trẻ em, thanh niên và tương lai của họ, người già và sự khôn ngoan của họ, những dân thường và nhu cầu thực sự của họ. Và chúng ta lên tiếng kêu lên rằng con người không bị thu hẹp vào những gì con người sản xuất và kiếm được; nhưng phải được chấp nhận và không bao giờ bị từ chối; gia đình, trong tiếng Kazakhstan là “tổ ấm của tâm hồn và tình yêu”, là thực tế tự nhiên và không thể thay thế, cần được bảo vệ và thúc đẩy để những các thế hệ mai sau lớn lên và trưởng thành.
Đối với toàn thể nhân loại, các nhà khôn ngoan và các truyền thống tôn giáo vĩ đại được kêu gọi để làm chứng cho sự tồn tại của một di sản tinh thần và đạo đức chung, vốn được xây dựng trên hai nền tảng: sự siêu việt và tình huynh đệ. Siêu việt, trổi vượt, tôn thờ. Thật đẹp khi mỗi ngày có hàng triệu triệu người, thuộc nhiều lứa tuổi, nền văn hóa và hoàn cảnh xã hội, tụ họp cầu nguyện ở các nơi thờ phượng. Đó là sức mạnh âm thầm giữ cho thế giới tiếp tục. Và sau đó là tình huynh đệ, người khác, sự gần gũi. Vì người ta không thể tuyên xưng trung thành với Đấng Tạo Hóa mà không bày tỏ tình yêu đối với các thụ tạo của Người. Đây là tinh thần xuyên suốt Tuyên bố của Đại hội chúng ta, mà trong phần kết luận, tôi xin nhấn mạnh ba điều.
Đầu tiên là sự tổng hợp của tất cả, là sự thể hiện của một lời cầu xin chân thành, ước mơ và mục tiêu hành trình của chúng ta: hòa bình! Beybitşilik, mir, hoà bình! Hòa bình là cấp thiết bởi vì bất kỳ xung đột quân sự hoặc điểm nóng của căng thẳng và đối đầu ngày nay chỉ có thể gây ra “hiệu ứng domino” xấu làm tổn hại nghiêm trọng đến hệ thống quan hệ quốc tế (số 4). Nhưng “hòa bình không hẳn là vắng bóng chiến tranh, cũng không chỉ được giản lược vào sự quân bình hóa giữa các lực lượng đối phương, cũng không phát xuất do một nền cai trị độc tài, nhưng theo đúng định nghĩa thì hòa bình là “công trình của công bằng” (Gaudium et spes, 78). Do đó, hoà bình bắt nguồn từ tình huynh đệ, tiến triển qua cuộc chiến chống bất công và bất bình đẳng, nó được xây dựng bằng cách tiếp cận với những người khác. Chúng ta, những người tin tưởng vào Đấng Tạo Hóa của tất cả, phải đi đầu trong việc truyền bá sự chung sống hòa bình. Chúng ta phải làm chứng, rao giảng, cầu xin cho hoà bình. Do đó, Tuyên bố kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới ngừng xung đột và đổ máu ở khắp mọi nơi, và từ bỏ những luận điệu hung hăng và phá hoại (số 7). Chúng tôi xin quý vị, nhân danh Thiên Chúa và vì lợi ích của nhân loại: hãy cam kết vì hòa bình, không vì vũ khí! Chỉ bằng cách phục vụ hòa bình, tên tuổi của quý vị sẽ còn vĩ đại trong lịch sử.
Nếu thiếu hòa bình, đó là vì thiếu sự quan tâm, dịu dàng và khả năng trao ban sự sống. Và do đó điều này phải được tìm kiếm bằng cách liên can nhiều hơn đến – điều thứ hai – phụ nữ. Bởi vì phụ nữ trao ban sự quan tâm và sự sống cho thế giới: họ là con đường dẫn đến hòa bình. Do đó, chúng tôi đã ủng hộ sự cần thiết bảo vệ phẩm giá của phụ nữ, và nâng cao địa vị xã hội của họ với tư cách là một thành viên bình đẳng trong gia đình và xã hội (số 24). Phụ nữ cũng phải được giao phó những vai trò và trách nhiệm lớn hơn. Có thể tránh được nhiều quyết định tai hại dẫn đến chết chóc nếu phụ nữ là trung tâm của các quyết định! Chúng ta hãy cam kết để phụ nữ được tôn trọng, công nhận và tham gia nhiều hơn.
Cuối cùng, điều thứ ba: các bạn trẻ. Họ là những sứ giả của hòa bình và hiệp nhất của ngày hôm nay và mai sau. Hơn những người khác, chính những người trẻ là những người kêu gọi hòa bình và tôn trọng ngôi nhà chung của thụ tạo. Thay vào đó, lý luận của sự thống trị và bóc lột, tích trữ tài nguyên, chủ nghĩa quốc gia, chiến tranh và các khu vực ảnh hưởng phác hoạ một thế giới cũ, một thế giới bị những người trẻ từ chối, một thế giới khép kín với ước mơ và hy vọng của họ. Theo cách tương tự, tôn giáo cứng nhắc và ngột ngạt không thuộc về tương lai, nhưng thuộc về quá khứ. Nghĩ đến các thế hệ mới, tầm quan trọng của giáo dục đã được khẳng định ở đây, điều này tăng cường sự chấp nhận lẫn nhau và sự chung sống tôn trọng giữa các tôn giáo và nền văn hóa (số 11). Hãy cho những người trẻ cơ hội giáo dục chứ không phải vũ khí hủy diệt! Và chúng ta hãy lắng nghe họ, không sợ để mình bị họ chất vấn. Trên tất cả, chúng ta hãy xây dựng một thế giới nghĩ về họ!
Anh chị em thân mến, người dân Kazakhstan, hãy mở lòng đón nhận ngày mai và lưu tâm đến những đau khổ trong quá khứ, với sự phong phú về tôn giáo và văn hóa ngoại thường họ đã cung cấp cho chúng ta một tấm gương về tương lai. Họ mời gọi chúng ta xây dựng nhưng không quên tính siêu việt và tình huynh đệ, tôn thờ Đấng Tối Cao và sự chào đón của người khác. Chúng ta hãy tiếp tục như thế, cùng nhau bước đi trên trái đất với tư cách là những đứa con của Trời cao, những người dệt hy vọng và những nghệ nhân của sự hòa hợp, những sứ giả của hòa bình và hiệp nhất!
2022
Diễn văn Đức Thánh Cha trong cuộc gặp các giám mục, linh mục, tu sĩ
Diễn văn Đức Thánh Cha trong cuộc gặp các giám mục, linh mục, tu sĩ
Lúc 10:10 giờ địa phương ngày 15/09, Đức Thánh Cha đã di chuyển đến Nhà thờ chính toà Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp cách Toà Sứ Thần 4,3km để có cuộc gặp với các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ.
DIỄN VĂN CỦA ĐTC PHANXICÔ
Gặp gỡ các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ
Nhà thờ chính toà Nur-Sultan, ngày 15 tháng 9 năm 2022
Anh em Giám mục, các linh mục và phó tế, tu sĩ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ thân mến, chào anh chị em!
Tôi rất vui được hiện diện ở đây với anh chị em, để chào thăm Hội đồng Giám mục Trung Á và gặp gỡ một Giáo hội được tạo thành từ nhiều khuôn mặt, lịch sử và truyền thống khác nhau, tất cả được hợp nhất bởi một đức tin duy nhất vào Chúa Giê-su Kitô. Đức cha Mumbiela Sierra, người tôi muốn cảm ơn về lời chào, đã nói: “Hầu hết chúng tôi là người nước ngoài”; điều đó đúng, bởi vì anh chị em đến từ những nơi và đất nước khác nhau, nhưng vẻ đẹp của Giáo hội là thế này: chúng ta là một gia đình, trong đó không ai là người lạ. Tôi nhắc lại: không ai là người lạ trong Giáo Hội, chúng ta là một Dân thánh của Thiên Chúa được làm phong phú từ rất nhiều dân tộc! Và sức mạnh của đoàn dân tư tế và thánh thiện của chúng ta chính là ở sự đa dạng làm nên sự phong phú bằng cách chia sẻ những gì chúng ta là và những gì chúng ta có: sự nhỏ bé của chúng ta nhân lên nếu chúng ta chia sẻ nó.
Đoạn Lời Chúa mà chúng ta đã nghe khẳng định chính xác điều này: mầu nhiệm của Thiên Chúa – Thánh Phao-lô nói – đã được mặc khải cho mọi dân tộc. Không chỉ cho những người được chọn hoặc một nhóm người đạo đức ưu tú, mà cho tất cả mọi người. Mọi người đều có thể đến được với Thiên Chúa, bởi vì – thánh Tông đồ giải thích – mọi dân tộc “được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3,6).
Tôi muốn nhấn mạnh hai từ đã được thánh Phao-lô sử dụng: thừa kế và lời hứa. Một mặt, Giáo hội luôn kế thừa một lịch sử, luôn là con của lời loan báo Tin Mừng đầu tiên, của một sự kiện đi trước, của các tông đồ khác và những người rao giảng Tin Mừng khác, những người đã thiết lập Giáo hội dựa trên lời hằng sống của Chúa Giêsu; mặt khác, đó cũng là cộng đoàn của những người đã thấy lời hứa của Thiên Chúa được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, và là con cái của sự phục sinh, sống trong niềm hy vọng được thành toàn trong tương lai. Đúng vậy, chúng ta là những người nhận được vinh quang đã hứa, điều linh hoạt bước đường của chúng ta trong sự mong đợi. Thừa kế và lời hứa: sự kế thừa của quá khứ là ký ức của chúng ta, lời hứa của Tin Mừng là tương lai của Thiên Chúa, Đấng đến gặp chúng ta. Tôi muốn cùng anh chị em dừng lại ở điều này: một Giáo hội bước đi trong lịch sử giữa ký ức và tương lai.
Trước hết, ký ức. Nếu ngày nay tại đất nước rộng lớn, đa văn hóa và đa tôn giáo này, chúng ta có thể nhìn thấy những cộng đoàn Kitô giáo sôi động và cảm thức tôn giáo xuyên suốt đời sống của xã hội, thì trên hết là nhờ vào lịch sử phong phú trước đó. Tôi đang nghĩ đến sự truyền bá của Kitô giáo ở Trung Á, đã diễn ra ngay từ những thế kỷ đầu tiên, của nhiều người loan báo Tin Mừng và những nhà truyền giáo, những người đã dành cuộc đời của mình để truyền bá ánh sáng của Tin Mừng, thành lập các cộng đoàn, đền thánh, tu viện và nơi thờ tự. Do đó, có một sự thừa kế Kitô giáo, đại kết, cần được tôn vinh và bảo tồn, một sự chuyển trao đức tin vốn đã coi nhiều người đơn sơ là nhân vật chính, nhiều ông bà, cha, mẹ. Trong hành trình thiêng liêng và của giáo hội, chúng ta không được đánh mất ký ức về những người đã loan báo đức tin cho chúng ta, bởi vì việc ghi nhớ giúp chúng ta phát triển tinh thần chiêm ngưỡng những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm trong lịch sử, ngay cả ngang qua những khó khăn của cuộc sống và sự mỏng dòn cá nhân và cộng đoàn.
Nhưng chúng ta hãy cẩn thận: đó không phải là nhìn lại quá khứ với hoài niệm, mắc kẹt vào những thứ của quá khứ và để bản thân bị tê liệt trong sự bất động: đây là cám dỗ đi lùi. Cái nhìn của người Kitô hữu, khi nhìn về ký ức, mở ra cho chúng ta sự ngạc nhiên trước mầu nhiệm của Thiên Chúa, để lấp đầy tâm hồn chúng ta với lời ngợi khen và biết ơn về những gì Chúa đã thực hiện. Một trái tim biết ơn, đầy tràn lời ngợi khen, không dung dưỡng sự hối tiếc, thay vào đó chào đón ngày hôm nay đang sống như một ân sủng. Và người ấy muốn lên đường, tiến về phía trước, để tiếp xúc với Chúa Giêsu, giống như các phụ nữ và các môn đệ trên đường Emmaus vào ngày Phục sinh!
Chính ký ức sống động này về Chúa Giêsu khiến chúng ta đầy ngạc nhiên và hơn hết là điều chúng ta rút ra được từ Hy lễ Tưởng niệm, sức mạnh của tình yêu thúc đẩy chúng ta. Nó là kho báu của chúng ta. Do đó, không có ký ức thì không có sự ngạc nhiên. Nếu chúng ta mất đi ký ức sống động, thì đức tin, lòng sùng kính và các hoạt động mục vụ có nguy cơ tàn lụi, giống như lửa trong chảo, cháy ngay lập tức nhưng sẽ tắt nhanh chóng. Khi chúng ta mất đi ký ức, niềm vui sẽ cạn kiệt. Ngay cả lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và anh chị em cũng suy giảm, bởi vì chúng ta rơi vào cám dỗ khi nghĩ rằng mọi sự tùy thuộc vào chúng ta. Cha Ruslan đã nhắc nhở chúng ta một điều rất đẹp: rằng là linh mục đã là quá nhiều, bởi vì trong đời sống linh mục, chúng ta nhận ra rằng những gì xảy ra không phải là việc của chúng ta, mà là một món quà của Thiên Chúa. Còn sơ Clara, nói về ơn gọi của mình, đã muốn trước hết cảm ơn những người đã loan báo Tin Mừng cho sơ. Cảm ơn anh chị em về những lời chứng này, vốn mời gọi chúng ta ghi nhớ với lòng biết ơn về sự thừa kế đã nhận được.
Nếu chúng ta nhìn vào sự thừa kế này, chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy đức tin không được truyền từ thế hệ này sang thế hệ kia như một tập hợp những điều phải hiểu và phải làm, giống như một đoạn mã được lập trình một lần cho mãi mãi. Không, đức tin đã được truyền trao bằng cuộc sống, bằng chứng tá mang ngọn lửa Tin Mừng vào trung tâm của những hoàn cảnh để soi sáng, thanh luyện và lan tỏa hơi ấm an ủi của Chúa Giêsu, niềm vui của tình yêu cứu độ, niềm hy vọng vào lời hứa của Người. Sau đó, qua ký ức, chúng ta học được rằng đức tin lớn lên bằng các chứng tá. Phần còn lại sẽ đến sau. Đây là lời mời gọi dành cho tất cả và tôi muốn nhắc lại lời mời gọi đó cho tất cả anh chị em, các tín hữu giáo dân, giám mục, linh mục, phó tế, những người nam và nữ tận hiến, những người đang làm việc theo nhiều cách khác nhau trong đời sống mục vụ của các cộng đoàn: chúng ta đừng mệt mỏi khi làm chứng cho trái tim của ơn cứu độ, sự mới mẻ của Chúa Giêsu, sự mới mẻ đó chính là Chúa Giêsu! Đức tin không phải là một sự phô trương vẻ đẹp về những điều trong quá khứ, nhưng là một sự kiện luôn luôn hiện tại, cuộc gặp gỡ với Đức Kitô xảy ra ở đây và bây giờ trong cuộc sống! Vì vậy, chúng ta không chỉ truyền đạt bằng cách lặp lại những điều thường hằng sẵn có, nhưng bằng cách truyền tải sự mới mẻ của Tin Mừng. Như vậy đức tin vẫn sống động và nhìn thấy tương lai.
Và đây là từ thứ hai, tương lai. Ký ức về quá khứ không làm chúng ta khép lại trong chính mình, nhưng mở ra cho chúng ta lời hứa của Tin Mừng. Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta rằng Người sẽ luôn ở với chúng ta: do đó đây không phải là chuyện của lời hứa chỉ nhắm đến một tương lai xa xôi, nhưng chúng ta được mời gọi hôm nay đón nhận sự đổi mới mà Đấng Phục sinh mang lại trong cuộc sống. Bất chấp những yếu đuối của chúng ta, Người không bao giờ mệt mỏi khi ở bên chúng ta, cùng với chúng ta xây dựng tương lai Giáo hội của Người và của chúng ta.
📷
Tất nhiên, khi đối diện với nhiều thách đố của đức tin – đặc biệt là những thách đố liên quan đến sự tham gia của các thế hệ trẻ -, cũng như đối diện với những vấn đề và khó khăn của cuộc sống và nhìn vào các con số, trong bối cảnh rộng lớn của một đất nước như tại đây, người ta có thể cảm thấy “nhỏ” và bất tương xứng. Tuy nhiên, nếu chúng ta tiếp nhận cái nhìn đầy hy vọng của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ khám phá ra một điều đáng ngạc nhiên: Tin Mừng nói rằng sự bé nhỏ, khó nghèo về tinh thần, là một mối phúc, là mối phúc đầu tiên (xem Mt 5,3), bởi vì sự nhỏ bé làm chúng ta khiêm nhường trước quyền năng của Thiên Chúa và để chúng ta không đặt nền tảng hành động của Giáo hội dựa trên khả năng của chúng ta. Đây là một hồng ân! Tôi nhắc lại: có một ân sủng giấu ẩn khi là một Giáo hội nhỏ, một đoàn chiên nhỏ; thay vì phô trương sức mạnh, các con số, cơ cấu của chúng ta và mọi hình thức khác do con người, chúng ta để mình được Chúa hướng dẫn và khiêm tốn đặt mình bên cạnh mọi người. Không giàu về điều gì và nghèo về mọi thứ, chúng ta bước đi với sự đơn sơ, gần gũi với anh chị em đồng bào của mình, mang niềm vui của Tin Mừng vào những hoàn cảnh của cuộc sống. Như men trong bột và như hạt giống nhỏ nhất được gieo vào đất (x. Mt 13,31-33), chúng ta sống trong những biến cố vui buồn của xã hội mà chúng ta đang sống, để phục vụ nó từ bên trong.
Việc trở nên bé nhỏ nhắc chúng ta rằng chúng ta không tự đầy đủ: rằng chúng ta cần Chúa, nhưng cũng cần người khác, cần tất cả những người khác: cần anh chị em của những hệ phái khác, của niềm tin tôn giáo khác với chúng ta, tất cả mọi người nam nữ có thiện chí. Với tinh thần khiêm tốn, chúng ta nhận ra rằng chỉ cùng nhau, đối thoại và chấp nhận lẫn nhau, chúng ta mới có thể thực sự đạt được điều gì đó tốt đẹp cho mọi người. Đó là nhiệm vụ cụ thể của Giáo hội tại đất nước này: không phải là một nhóm tự kéo mình vào những điều thường hằng cũ rích hoặc khép mình trong lớp vỏ bọc vì cảm thấy mình nhỏ bé, nhưng là một cộng đoàn mở ra cho tương lai của Thiên Chúa, được thắp sáng bởi ngọn lửa Thánh Thần: sống động, đầy hy vọng, sẵn lòng với những điều mới và những dấu chỉ của thời đại, được sinh động bởi luận lý Phúc Âm của hạt giống đang sinh hoa kết trái trong tình yêu khiêm tốn và phong nhiêu. Bằng cách này, lời hứa về sự sống và phúc lành mà Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta qua Chúa Giê-su, không chỉ được thực hiện cho chúng ta, mà còn được thực hiện cho những người khác.
Và điều đó được thực hiện mỗi khi chúng ta sống tình huynh đệ giữa chúng ta, mỗi khi chúng ta chăm sóc người nghèo và những người bị thương tích bởi cuộc sống, mỗi khi trong các mối quan hệ giữa con người và xã hội, chúng ta làm chứng cho công lý và sự thật, bằng cách nói “không” với tham nhũng và giả dối. Các cộng đoàn Kitô hữu, đặc biệt là chủng viện, nên là “trường học của sự chân thành”: không phải là môi trường cứng nhắc và hình thức, nhưng là cơ sở đào tạo chân lý, cởi mở và chia sẻ. Và trong cộng đoàn của chúng ta – hãy nhớ rằng – tất cả chúng ta đều là môn đệ của Chúa: tất cả là môn đệ, tất cả đều quan trọng, tất cả đều có phẩm giá như nhau. Không chỉ các Giám mục, các linh mục và những người thánh hiến, mà mọi người đã được rửa tội đều đã được dìm mình vào sự sống của Chúa Kitô và trong Ngài – như Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta – được mời gọi để lãnh nhận cơ nghiệp và chấp nhận lời hứa của Tin Mừng. Do đó, cần phải trao không gian cho giáo dân: điều này sẽ giúp ích cho anh chị em, để các cộng đoàn không trở nên cứng nhắc và giáo sĩ trị. Một Giáo hội hiệp hành, trên con đường dẫn đến tương lai của Thánh Thần, là một Giáo hội có sự tham gia và đồng trách nhiệm. Đó là một Giáo hội có khả năng đi ra gặp gỡ thế giới bởi vì nó được đào tạo trong sự hiệp thông. Tôi đã nhấn mạnh rằng trong tất cả các lời chứng, có một điều được nhắc lại: không chỉ cha Ruslan và các nữ tu, mà còn cả Kirill, người cha của gia đình, đã nhắc nhở chúng ta rằng trong Giáo Hội, khi tiếp xúc với Tin Mừng, chúng ta học cách chuyển từ vị kỷ sang tình yêu thương vô điều kiện. Đó là lối thoát khỏi chính mình mà mỗi môn đệ luôn cần: đó là nhu cầu nuôi dưỡng món quà đã được lãnh nhận nơi Bí tích Rửa tội, là điều thúc đẩy chúng ta đi khắp nơi, trong các buổi nhóm họp Giáo hội, trong gia đình, nơi làm việc, trong xã hội, để trở nên những người nam nữ của hiệp thông và hòa bình, gieo điều tốt lành ở bất cứ nơi đâu. Sự cởi mở, niềm vui và sự sẻ chia là những dấu hiệu của Giáo hội khởi nguồn, và chúng cũng là những dấu chỉ của Giáo hội tương lai. Chúng ta hãy ước mơ và với ân sủng của Thiên Chúa, xây dựng một Giáo hội có thêm niềm vui của Đấng Phục sinh, nơi loại bỏ những sợ hãi và phàn nàn, không để cho mình bị cứng nhắc bởi chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa duy luân lý.
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy cầu xin tất cả những điều này với những nhân chứng đức tin vĩ đại của đất nước này. Tôi muốn đặc biệt nhớ đến Chân phước Bukowiński, một linh mục đã dành cả cuộc đời mình để chăm sóc những người bệnh tật, những người nghèo khổ và bị thiệt thòi, trả giá trên chính làn da của mình cho sự trung thành với Tin Mừng bằng tù ngục và lao động khổ sai. Người ta nói với tôi rằng, ngay cả trước khi ngài được phong chân phước, trên mộ của ngài luôn có những hoa tươi và một ngọn nến thắp sáng. Đó là sự xác nhận rằng Dân Chúa nhận biết nơi nào có sự thánh thiện, nơi nào có mục tử yêu mến Tin Mừng. Tôi muốn nói riêng với các Giám mục và các linh mục, và cả với các chủng sinh, đây là sứ mạng của chúng ta: không phải là quản trị viên của các điều thánh hay người canh chừng việc thực thi các chuẩn mực tôn giáo, nhưng là những mục tử gần gũi với mọi người, những biểu tượng sống động của trái tim nhân từ của Chúa Kitô. Tôi cũng nhớ đến các vị tử đạo Công giáo Hy Lạp, Đức Giám mục Budka, linh mục Don Zarizky và Gertrude Detzel, những người đã bắt đầu tiến trình phong chân phước. Như bà Miroslava đã nói với chúng ta: họ đã mang tình yêu của Chúa Kitô đến với thế giới. Anh chị em là sự thừa kế của họ: là lời hứa về sự thánh thiện mới!
Tôi gần gũi với anh chị em và tôi khuyến khích anh chị em: hãy sống sự kế thừa này với niềm vui và làm chứng cho nó bằng sự quảng đại, để những người mà anh chị em gặp có thể nhận ra rằng có một lời hứa hy vọng cũng được gửi đến cho họ. Tôi đồng hành với anh chị em bằng lời cầu nguyện; và bây giờ chúng ta phó thác mình một cách đặc biệt cho trái tim của Đức Maria Rất Thánh, đấng mà anh chị em ở đây tôn kính một cách đặc biệt như là Nữ Vương Hòa Bình. Tôi đã đọc thấy một dấu hiệu tuyệt đẹp của tình mẫu tử xảy ra trong thời kỳ khó khăn: trong khi rất nhiều người bị trục xuất và bị ép phải chết đói, chết rét, thì Mẹ, một người Mẹ dịu dàng và quan tâm, đã lắng nghe lời cầu nguyện mà các con của Mẹ nói với Mẹ. Vào một trong những mùa đông lạnh giá nhất, tuyết nhanh chóng tan chảy, tạo ra một hồ nước có rất nhiều cá, nơi đã nuôi sống rất nhiều người đói. Xin Đức Mẹ làm tan đi sự lạnh giá của trái tim, truyền cho cộng đoàn chúng ta một hơi ấm huynh đệ đổi mới, cho chúng ta niềm hy vọng và lòng nhiệt thành mới đối với Tin Mừng! Tôi quý mến chúc lành cho anh chị em và cảm ơn anh chị em. Và tôi xin anh chị em cầu nguyện cho tôi.