2022
Đức Thánh Cha: Lãng phí thực phẩm là lãng phí con người
Đức Thánh Cha: Lãng phí thực phẩm là lãng phí con người
Nhân Ngày Quốc tế Nhận thức về Thất thoát và Lãng phí Thực phẩm, ngày 29/9, Đức Thánh Cha đã gửi sứ điệp đến ông Khuất Đông Ngọc (Qu Dongyu), Tổng Giám đốc Tổ chức Nông Lương của Liên Hiệp Quốc (FAO), trong đó ngài mời gọi mỗi người tái định hướng lối sống của mình một cách có ý thức và trách nhiệm, để mọi người đều có được lương thực cần thiết, đồng thời nhấn mạnh rằng “lãng phí thực phẩm là lãng phí con người”.
Trong sứ điệp, trước hết Đức Thánh Cha nhắc lại rằng, khi thực phẩm không được sử dụng đúng cách, bị thất thoát hoặc lãng phí, là người ta đang sống một “nền văn hóa vứt bỏ”. Đây chính là biểu hiện của sự không quan tâm đến những gì có giá trị cơ bản.
Đức Thánh Cha viết: “Cả sự thất thoát và lãng phí lương thực đều là những sự thật đáng trách, vì chúng chia rẽ nhân loại giữa những người có quá nhiều và những người thiếu những thứ cần thiết, làm gia tăng bất bình đẳng, tạo ra bất công và từ khước người nghèo”.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng, tiếng kêu của những người đói khát, phải được vang lên ở các trung tâm nơi đưa ra quyết định. Tiếng kêu này không thể bị im lặng hoặc bị bóp nghẹt bởi những lợi ích khác. Ngài nhắc lại: “Cần phải thu gom để tái phân phối, không sản xuất để vung vãi. Tôi đã nói điều này, và tôi sẽ không mệt mỏi nhấn mạnh, lãng phí thực phẩm là lãng phí con người”.
Để điều này không xảy ra, theo Đức Thánh Cha toàn thể cộng đồng quốc tế phải dấn thân hành động để chấm dứt “nghịch lý của sự dư thừa”, mà Thánh Gioan Phaolô II đã tố cáo tại Hội nghị Quốc tế về Dinh dưỡng vào năm 1992. Thực tế, thế giới có thực phẩm cần thiết để không ai đi ngủ với bụng đói. Tuy nhiên, vấn đề là sự công bằng xã hội, nghĩa là cách thức quản lý các nguồn lực và việc phân phối của cải phải được điều chỉnh.
Thực phẩm không thể là đối tượng của đầu cơ. Sẽ là điều gây tai tiếng khi các nhà sản xuất lớn khuyến khích tiêu dùng để làm giàu nhưng không quan tâm đến nhu cầu thực sự của con người. Mặt khác, lãng phí hoặc thất thoát thực phẩm còn góp phần đáng kể vào sự gia tăng phát thải khí nhà kính, do đó, gây ra biến đổi khí hậu và các hậu quả tai hại của nó.
Đức Thánh Cha kết luận: “Điều cấp bách hiện nay là các quốc gia, các hiệp hội và mọi người phải phản ứng một cách hiệu quả và trung thực với tiếng kêu đau lòng của những người đói khát đòi công lý. Mỗi người chúng ta được mời gọi định hướng lại lối sống của mình một cách có ý thức và trách nhiệm, để không ai bị bỏ lại phía sau và mọi người đều nhận được lương thực cần thiết, cả về số lượng và chất lượng. Chúng ta mắc nợ những người thân yêu của chúng ta, các thế hệ tương lai và những người đang bị ảnh hưởng bởi sự khốn cùng về kinh tế và hiện sinh”.
Ngọc Yến
2022
Tính Bất Khả Ngộ thường bị hiểu sai – Ý nghĩa thật sự của Tính Bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng là gì?
Tính Bất Khả Ngộ thường bị hiểu sai – Ý nghĩa thật sự của Tính Bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng là gì?
Tính bất khả ngộ của Giáo hoàng, được Công đồng Vaticano I long trọng xác định trong Hiến chế Tín lý “Mục tử Đời đời” (Pastor Aeternus) năm 1870, từ lâu đã gây tranh cãi và thường xuyên bị hiểu lầm trong và ngoài Giáo hội.
Một số người Công giáo hậu Công đồng lập luận rằng Đức Giáo hoàng không thể sai lầm, nên trong tương lai, Giáo hội không cần thiết phải có các công đồng nữa. Cách chung, người Tin Lành cho rằng tuyên bố này không tìm thấy trong Thánh kinh và trái với những lời dạy của Hội thánh sơ khai, mặc dù người Công giáo chỉ ra lời hứa của Chúa Kitô là sẽ luôn ở lại với Giáo hội của Ngài và gởi Chúa Thánh Thần đến để “dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).
Nhưng các nhà thần học tiếp tục không đồng ý cách giải thích các tuyên bố về huấn quyền của giáo hoàng, như gần đây đã trở nên rõ ràng khi Học viện Giáo hoàng về Sự Sống đã đăng tải ý ám chỉ rằng Thông điệp “Sự sống Con người” (Humanae Vitae) của Đức Giáo hoàng Phaolo VI lên án biện pháp tránh thai nhân tạo, không bị khống chế bởi tính bất khả ngộ của Giáo hoàng.
Vậy, Giáo hội Công giáo hiểu như thế nào về tính bất khả ngộ?
Công Đồng đã nói gì
Điều mà Công đồng Vatican I đã thực sự dạy trong Công đồng năm 1870, về định nghĩa ơn bất khả ngộ thì rất giới hạn. Trước hết, Hiến chế Tín lý “Mục tử Đời đời” dạy rằng khi Đức Giáo hoàng đưa ra một xác quyết cách trang trọng liên quan đến đức tin hoặc phong hóa, thì ngài “được hưởng ơn bất khả ngộ mà Chúa Cứu Thế muốn Giáo hội của Ngài phải được ban tặng.” Nói cách khác, không thể sai lầm không phải là thứ thuộc về riêng giáo hoàng, nhưng là đặc sủng của toàn thể Giáo hội. Thứ hai, ơn này bị giới hạn trong những tín điều được mạc khải thánh liên quan đến đức tin và phong hóa; ơn này không phải để tuyên bố những học thuyết mới được biết đến. Thứ ba, những định nghĩa như thế phải đại diện cho việc thực thi nhiệm vụ của giáo hoàng, nghĩa là “từ ngai tòa thánh Phêrô” (ex cathedra) theo thẩm quyền tông đồ tối cao của ngài. Cuối cùng, ơn bất khả ngộ phải liên quan đến một điều gì đó được gìn giữ bởi Giáo hội hoàn vũ.
Công đồng Vaticano II (1962- 1965) không “sửa đổi” giáo huấn của Vaticano I, theo nghĩa chặt của từ này, nhưng đã diễn giải lại theo những cách đáng chú ý. Công đồng Vaticano II bao gồm các giám mục trong việc thực thi ơn bất khả ngộ của Giáo hội. Công đồng cũng cho thấy giáo dân đóng một vai trò quan trọng. Trước hết, chúng ta hãy xem xét việc bao gồm các giám mục.
“Hiến chế Tín lý về Giáo hội” (Lumen Gentium) nói rằng: “Ơn bất khả ngộ của chính Giáo hội cũng hiện hữu nơi Giám mục đoàn khi các ngài sử dụng quyền giáo huấn tối thượng cùng với Đấng kế vị thánh Phêrô” (LG, số 25 ). Trong bình luận của mình về “Lumen Gentium”, cha Karl Rahner, S.J., công nhận rằng các giám mục, khi các ngài hiệp nhất trong việc giảng dạy giáo thuyết “chắc chắn phải được gìn giữ”, có thể tuyên bố giáo thuyết một cách không thể sai lầm. Điều này đề cập đến điều được gọi là “huấn quyền phổ quát thông thường” vốn đang liên quan đến một số vấn đề gây tranh cãi ngày nay.
Nhưng cha Rahner cho thấy một sự khác biệt quan trọng. Ngài lưu ý rằng bản văn Công đồng nói: “được gìn giữ” chứ không nói “được tin”, vì hầu hết đều đồng ý rằng không phải mọi giáo thuyết được giảng dạy một cách nhất trí là không thể sai lầm. Nhưng phân loại điều này thì đi xa hơn mối bận tâm về vấn đề kỹ thuật, như chúng ta sẽ thấy bên dưới.
Đối với việc đưa giáo dân vào đặc sủng không thể sai lầm, ngôn ngữ của Công đồng mang tính gián tiếp hơn. “Lumen Gentium” nại đến vai trò trung gian của Thánh Thần trong việc xác định giáo thuyết, không chỉ trong phẩm trật, mà còn trong toàn thể Hội thánh: “Toàn thể tín hữu, được Chúa Thánh Thần xức dầu (x. 1Ga 2,20. 27), không thể sai lầm trong đức tin. Họ biểu lộ đặc tính ấy nhờ cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa, khi “từ các Giám mục cho đến người giáo dân rốt hết” đều đồng ý về những điều liên quan đến đức tin và phong hóa (LG, số 12).
Và một vài đoạn sau đó: “Do tác động của cùng một Chúa Thánh Thần, Giáo hội không thể không chấp nhận những phán quyết đó, và Chúa Thần Thần bảo vệ và phát triển toàn thể đoàn chiên Chúa Kitô trong sự hợp nhất đức tin (LG, Số 25). Như đã đề cập từ đầu, ơn bất khả ngộ không được sử dụng để tuyên bố các giáo thuyết mới, mà để bảo toàn đức tin của Hội thánh. Ơn bất khả ngộ hoặc quyền giáo huấn “ngoại thường” của Đức Giáo hoàng chỉ được thực thi hai lần, khi Đức Giáo hoàng Piô IX xác định tín điều Đức Maria Vô nhiễm Nguyên Tội (năm 1854) và Đức Piô XII xác định tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời (năm 1950), trong cả hai trường hợp, các ngài chỉ tuyên tín sau khi tham khảo ý kiến Giáo hội thông qua một cuộc thăm dò ý kiến của các giám mục. Huấn quyền giảng dạy những gì Giáo hội tin tưởng.
Đức Giáo hoàng Phanxicô và ơn bất khả ngộ
Đức Phanxicô đã thực hiện một số bước để khôi phục sự hiểu biết toàn diện hơn về thẩm quyền giáo huấn. Khởi đầu triều giáo hoàng của ngài, trong cuộc phỏng vấn nổi tiếng với Antonio Spadaro, S.J., khi được hỏi về cách ngài hiểu nguyên tắc “đồng cảm thức với Giáo hội” của Thánh Inhaxiô Loyola, ngài nhấn mạnh rằng: cảm thức cùng với Giáo hội không có nghĩa là chỉ cảm thức với phẩm trật. Ngài nói “Dân thánh thiện, trung thành của Thiên Chúa” tự nó tạo thành một chủ thể, trong một cuộc hành trình xuyên suốt lịch sử. “Và tất cả những tín hữu, xét như một toàn thể, thì không thể sai lầm trong các vấn đề về đức tin, và mọi người biểu lộ ơn bất khả ngộ trong đức tin (infallibilitas in credendo), sự bất khả ngộ này trong niềm tin, thông qua một cảm thức siêu nhiên về đức tin của tất cả những người đi cùng nhau.”
Ngài nói thêm, “Khi cuộc đối thoại giữa dân chúng với các giám mục và giáo hoàng diễn ra trên con đường này, và là cuộc đối thoại chân thực, thì nó được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Vì vậy, cảm thức cùng với Giáo hội không chỉ liên quan đến các nhà thần học.” Richard Gaillardetz, một thần học gia tại Đại học Boston, đã đưa ra một nhận xét đáng chú ý về điểm này vào năm 2014: Chúng ta đừng bỏ qua sự táo bạo của tuyên bố này. Đức Phanxicô đang nói rằng chúng ta có thể tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần đối với các giám mục với điều kiện là các ngài phải cởi mở để lắng nghe người khác. Nhãn quan này trái ngược hẳn với những quan niệm gần như máy móc về sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần thường được các nhà lãnh đạo Giáo hội viện dẫn.
Tháng 6 năm 2014, Ủy ban Thần học Quốc tế đã xuất bản một văn bản quan trọng có tựa đề “Cảm thức Đức tin trong trong Đời sống của Giáo hội” (Sensus Fidei in the Life of the Church) nhằm phát triển sự hiểu biết của Đức Phanxicô về Dân Chúa như một chủ thể. Khi tập trung vào sensus fidei (cảm thức về đức tin) và sensus fidelium(cảm thức của người tín hữu), bản văn đã lấy lại một nguyên tắc bắt nguồn sâu xa trong cả Thánh kinh và Thánh truyền lẫn truyền thống thần học nhưng lâu nay bị coi nhẹ trong lịch sử Công giáo. Văn bản của ủy ban giải thích rằng, các tín hữu “không chỉ đơn thuần là những người lãnh nhận thụ động những điều được phẩm trật giảng dạy và các nhà thần học giải thích: đúng hơn họ là những chủ thể sống động và tích cực trong Giáo hội.”
Trong khi cảm thức của các tín hữu không thể bị thu hẹp theo ý kiến của đa số và cần phải được phân định bởi huấn quyền, các tín hữu có vai trò trong việc phát triển giáo thuyết và sự giảng dạy về luân lý của giáo hội, và họ phải được tham khảo ý kiến. Về mặt thần học, sự phân biệt trước đây giữa một giáo hội giảng dạy (ecclesia docens), vốn dành riêng cho phẩm trật, và một Giáo hội học tập (ecclesia discens), không còn phù hợp nữa. Sự thống nhất giữa hai chiều kích giảng dạy và học tập là hữu cơ. Do đó, Công đồng đã trục xuất “bức tranh biếm họa về phẩm trật chủ động và giáo dân thụ động” (số 4).
Đức Phanxicô đã tìm cách diễn đạt viễn tượng này về toàn thể Giáo hội như một chủ thể, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Trong bài diễn văn khai mạc tiến trình Thượng Hội đồng thế giới, mà đỉnh điểm với cuộc họp của Thượng Hội đồng Giám mục ở Rôma vào tháng 10 năm 2023, ngài mời gọi [Giáo hội hãy là và trở nên] một Giáo hội lắng nghe, một Giáo hội mà trong đó tất cả những người được rửa tội đều tham gia tích cực vào đời sống và sứ mạng của Giáo hội.
Diễn giải những lời dạy mang tính giáo huấn
Không phải lúc nào cũng dễ dàng nhận ra một giáo thuyết là giáo huấn nhất quán của huấn quyền thông thường, như các sử gia thường chỉ ra. Điều mà Giáo hội tin tưởng không phải lúc nào cũng rõ ràng. Nhiều giáo huấn nhất quán của huấn quyền thông thường cuối cùng đã bị thay đổi vì cách thức tiếp nhận của Giáo hội. Trong cuốn sách Infallibility on Trial: Church, Conciliarity and Communion (tạm dịch Tính Bất Khả Ngộ trong Xét Xử: Giáo hội, Công đồng tính và Sự Hiệp thông) năm 1992, Luis M. Bermejo đã đưa ra một số ví dụ, trong số đó có sự bất khả thi của ơn cứu độ bên ngoài Giáo hội được công đồng Laterano IV (năm 1215) và Florence (năm 1442) giảng dạy; sự khoan dung của chế độ nô lệ được Laterano III (năm 1179), Laterano IV (năm 1215), Lyons V (năm 1245) và Lyons II (năm 1274) chuẩn nhận; và sự biện hộ cho việc sử dụng tra tấn của Laterano II (năm 1179) và Vienne (năm 1311).
Trong suốt triều đại giáo hoàng của Đức Gioan Phaolo II, một loạt các tài liệu về thẩm quyền được ban hành bởi Bộ Giáo lý Đức tin tại thời điểm Đức Hồng Y Joseph Ratzinger làm Bộ Trưởng. Các tài liệu đưa ra về chủ trương thẩm quyền tối đa về mặt giáo thuyết, hay còn gọi là “chủ trương bất khả ngộ đáng sợ.” Một trường hợp điển hình là Tông thư “Truyền chức Linh mục” (Ordinatio Sacerdotalis) của Đức Gioan Phaolo II, vốn tuyên bố rằng Giáo hội không có thẩm quyền phong chức linh mục cho phụ nữ và phán quyết này phải được gìn giữ cách dứt khoát. Khi các câu hỏi về thẩm quyền của Tông thư được đưa ra, C.D.F. đã công bố một tuyên bố rằng: giáo huấn của giáo hoàng thuộc về kho tàng đức tin và đã được giảng dạy một cách không thể sai lầm bởi huấn quyền thông thường và phổ quát.
Nhưng nhiều nhà thần học vẫn tiếp tục đặt câu hỏi về tính chính xác của tuyên bố đó. Viết trên tạp chí America, nhà giáo luật nổi tiếng Ladislas Örsy, S.J., lập luận rằng phản ứng của C.D.F. chỉ phản ánh cách giải thích và thẩm quyền của Bộ đó; nó không tác động đến sức thuyết phục của Tông thư. Francis Sullivan, S.J., lúc đó là người đứng đầu cơ quan thẩm quyền huấn giáo, đã viết rằng vẫn còn một câu hỏi là liệu các giám mục của Giáo hội có nhất trí hay không trong việc dạy rằng: loại trừ phụ nữ khỏi chức vụ linh mục là chân lý mạc khải. Ngài kết luận, “Trừ khi đây là trường hợp hiển nhiên, tôi không biết làm thế nào có thể chắc chắn rằng giáo thuyết này được giảng dạy một cách không sai lầm bởi huấn quyền thông thường và phổ quát.”
Trong bài bình luận của mình về Tự sắc “Để bảo vệ Đức tin” (Ad Tuendam Fidem) của Đức Gioan Phaolo II, áp đặt các hình phạt đối với những người phản đối những giáo huấn “dứt khoát” nhưng không phải là những giáo huấn không thể sai lầm, Đức Hồng y Ratzinger đã bao gồm việc phong thánh và tuyên bố của Đức Giáo hoàng Lêô XIII trong Sắc chỉ “Apostolicae Curae” tuyên bố tính vô hiệu của việc phong chức linh mục Anh giáo như là chân lý “được kết nối với sự mặc khải bởi sự cần thiết của lịch sử”, được bảo toàn cách dứt khoát, ngay cả khi không được mạc khải. Các nhà thần học khác, trong số đó có Avery Dulles, S.J., tìm thấy ví dụ về “Apostolicae Curae” gây tranh cãi. Do đó, vẫn còn nhiều tranh cãi lớn nữa về điều gì sẽ được đưa vào sự dạy dỗ dứt khoát của huấn quyền phổ quát thông thường.
Cuộc tranh luận hiện tại
Tháng 6 năm nay, Học viện Giáo hoàng về Sự sống đã xuất bản một tập san: “Đạo đức Thần học về Sự sống: Kinh thánh, Truyền thống, Những Thách đố Thực tế (“Theological Ethics of Life: Scripture, Tradition, Practical Challenges”) gồm các bài viết được đưa ra tại một hội thảo học thuật vào năm vừa qua. Một số nhà thần học trong tập san này gợi ý rằng, trong một số trường hợp, các cặp vợ chồng có thể chọn thực hiện biện pháp tránh thai nhân tạo một cách hợp pháp. Đáp lại cuộc tranh cãi này, Học viện Giáo hoàng đã đăng tin rằng Thông điệp của Đức Giáo hoàng Paul VI lên án việc tránh thai nhân tạo không bị khống chế bởi tính bất khả ngộ của Giáo hoàng- nhưng thực ra điều này đã được Đức Tổng Giám mục Ferdinando Lambruschini khẳng định khi trình bày thông điệp tại một cuộc họp báo vào ngày 29 tháng 7 năm 1968. Cuộc tranh luận diễn ra sau việc đăng tin đầu tiên, lần đăng tin thứ hai vào ngày 8 tháng 8 đã tái khẳng định bản tin trước đó, nhưng sau đó chúng đã bị rút lại.
Thẩm quyền của Thông điệp “Sự sống Con người” (Humanae Vitae) đã bị tranh luận từ lâu. Việc phát hành Thông điệp đã dẫn đến một sự bất đồng quan điểm chưa từng có trong giới thần học gia, vốn cho rằng việc sử dụng các biện pháp tránh thai là một quyết định của lương tâm đối với các cặp vợ chồng. Một số Hội đồng Giám mục đã có cách tiếp cận vấn đề cách tương tự. Đối với nhiều giáo dân Công giáo, thông điệp đánh dấu chấm dứt sự tin tưởng của họ vào thẩm quyền giáo huấn về các vấn đề tính dục. Nhưng các nhà thần học khác đã chứng tỏ tính không thể sai lầm trong giáo huấn của thông điệp này, gồm John C. Ford, S.J. và Dr. Germain Grisez trong một bài viết năm 1978 trên Tạp chí Nghiên cứ Thần học (Theological Studies).
Sự tán thành và đối thoại
Không phải tất cả các giáo huấn của Giáo hoàng đều có thẩm quyền như nhau, như Công đồng Vaticanô II đã cẩn thận chỉ ra. Việc giảng dạy trong lãnh vực giáo thuyết có thể thay đổi; những giáo thuyết được suy xét hoặc không thể sai lầm vì sự mặc khải thần linh thì không thể thay đổi; hai hình thức giảng dạy này có mức độ đáp ứng khác nhau từ phía các tín hữu. Các giáo huấn của huấn quyền giáo hoàng đích thực, ngay cả khi giáo hoàng không nói từ Ngai tòa Thánh Phêrô (ex cathedra), vẫn có được “sự tán thành của tín hữu” hoặc “sự phục tùng của tín hữu”. Tuy nhiên, những giáo thuyết được tuyên bố là không thể sai lầm là “không thể sửa đổi” và phải được tuân thủ với “sự phục tùng đức tin” (LG, số 25). Ai từ chối tín điều, sẽ bị đặt ra bên ngoài cộng đoàn đức tin, nghĩa là bị phạt vạ tuyệt thông.
Tạp chí America gần đây đã dẫn lời Đức Tổng Giám mục Vincenzo Paglia, Viện trưởng Học viện Giáo hoàng về Sự Sống, ngài đã mô tả vai trò của học viện là cung cấp một không gian cho các cuộc thảo luận học thuật; nó không bị giới hạn trong việc giải thích các bản văn của huấn quyền. Điều này phản ánh cách tiếp cận của Đức Thánh Cha Phanxicô, người tiếp tục nhấn mạnh mối tương quan giữa lương tâm, chuẩn mực và phân định. Ngài ưa thích điều này hơn là kết án.
Tính bất khả ngộ của Giáo hoàng không phải lúc nào cũng được hiểu đúng. Một số người thuộc cánh hữu nghĩ rằng huấn quyền có thể giải quyết mọi thắc mắc hoặc vấn đề bằng một tuyên bố. Những người thuộc cánh tả thường trở nên thiếu kiên nhẫn và bất đồng về sự can thiệp của tính bất khả ngộ. Đức Thánh Cha Phanxicô đã cố gắng đi trên một ranh giới tinh tế giữa những thái cực này. Quá nhiều cộng đồng tôn giáo ngày nay thiếu các quà tặng hay ân sủng của sự kiên nhẫn hoặc chừng mực; không có cấu trúc giảng dạy có thẩm quyền, các cộng đồng tôn giáo thường trở thành mồi ngon của giọng nói to nhất hoặc người có khả năng nói lôi cuốn nhất. Kết quả là mất đoàn kết và đôi khi là bạo lực. Khả năng giảng dạy với thẩm quyền của Công giáo, trong một số trường hợp thậm chí là không thể sai lầm, là một trong những món quà tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho giáo hội.
Thomas P. Rausch, SJ
Chuyển ngữ: Francis Xavier Đoàn Công Trình, SJ
([…] Chú thích của người dịch)
2022
Gần 100% nhà thờ Công giáo tại Amsterdam sẽ bị đóng cửa
Gần 100% nhà thờ Công giáo tại Amsterdam sẽ bị đóng cửa
Đức cha Jan Hendricks, Giám mục Giáo phận Harlem-Amsterdam bên Hòa Lan, cho biết 60% thánh đường của giáo phận, tức là gần 100 nhà thờ sẽ bị đóng cửa trong vòng năm năm tới đây, vì số tín hữu đi nhà thờ, số người thiện nguyện và số thu nhận của giáo phận bị giảm sút.
Đức cha Hendricks cho biết như trên, trong cuộc gặp gỡ khoảng 90 vị quản trị các giáo xứ, hôm ngày 10 tháng Chín vừa qua. Giáo phận này được thành lập năm 1559, và bao gồm toàn miền bắc Hòa Lan cũng như miền nam tỉnh Flevoland, bao gồm thủ đô Amsterdam.
Đức cha cai quản giáo phận này từ hai năm nay. Ngài nhận định rằng đại dịch Covid-19 đã đẩy mạnh sự suy giảm số tín hữu đi nhà thờ. Nhiều người cao tuổi không còn đến thánh đường nữa. Một số khác trở nên quen thuộc với việc tham dự thánh lễ trực tuyến vào Chúa nhật. Số người thiện nguyện giảm sút và nhiều ca đoàn cũng ngưng hoạt động. Tình trạng này đưa tới viễn tượng: trong số 164 nhà thờ của giáo phận, có 99 thánh đường sẽ bị đóng cửa trong vòng năm năm tới. Trong số 65 nhà thờ còn lại, 37 thánh đường sẽ tiếp tục trong vòng từ năm đến mười năm, như những “nhà thờ hỗ trợ”, và chỉ còn lại 28 nhà thờ chủ yếu được coi là có thể sống lâu dài.
Đức ông Bart Putter, Tổng đại diện giáo phận Harlem-Amsterdam, nói với báo The Pillar ở Mỹ, hôm 26 tháng Chín vừa qua, rằng giáo phận chưa lập danh sách những nhà thờ cần bị đóng cửa, nhưng hy vọng các cộng đoàn địa phương sẽ chọn những nhà thờ chính. “Ý tưởng chính là thành lập 28 nơi tích cực loan báo Tin mừng và chúng tôi hy vọng các cha sở cũng như Hội đồng giáo xứ có thể thực hiện điều đó”.
Những con số được trình bày trong cuộc họp ngày 10 tháng Chín vừa nói cho thấy số tín hữu đi dự lễ giảm sút từ hơn 25.000 hồi năm 2013 xuống còn 12.000 trong năm ngoái, 2021. Số người dự lễ giảm sút nhiều trong nhiều năm qua, chứ không phải chỉ trong thời gian gần đây. Trong thập niên 1950, số tín hữu Công giáo tham dự thánh lễ là 80%, nhưng ngày nay chỉ còn lại 3% tín hữu đi dự lễ, trong tổng số 425.000 người Công giáo trong giáo phận.
(The Pillar 27-9-2022)
- Trần Đức Anh, O.P.
2022
Quốc vương Abdullah II được nhìn nhận là “Người bảo vệ” các nơi thánh của Kitô giáo và Hồi giáo
Quốc vương Abdullah II được nhìn nhận là “Người bảo vệ” các nơi thánh của Kitô giáo và Hồi giáo
Các vị lãnh đạo của các Giáo hội Kitô ở Giêrusalem và Thánh Địa nhìn nhận vai trò bảo vệ các nơi thánh của Kitô giáo và Hồi giáo của Quốc vương Abdullah II, Vua của Jordan, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn đối với Quốc vương về các hoạt động bảo vệ này.
Trong bài phát biểu ngày 20/9 vừa qua tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Quốc vương Abdullanh đã mô tả một cách chân thật tình trạng của các cộng đoàn Kitô ở Giêrusalem và khắp Thánh Địa. Ông nói: “Ngày nay, Kitô giáo ở Thánh Địa đang bị thiêu rụi. Quyền của các Giáo hội Kitô ở Giêrusalem đang bị đe doạ. Điều này không thể tiếp tục. Kitô giáo là sự sống còn đối với quá khứ và hiện tại của khu vực chúng tôi và Thánh Địa. Kitô giáo vẫn phải là một phần không thể thiếu trong tương lai của chúng tôi”.
Quốc vương nhấn mạnh: “Đối với hàng tỷ tín đồ Hồi giáo, Kitô giáo và Do Thái trên khắp thế giới, Giêrusalem là đất thánh. Mọi chính sách hoặc sự phát triển nào làm suy yếu hiện trạng pháp lý và lịch sử của Giêrusalem đều gây ra căng thẳng toàn cầu và làm sâu sắc thêm sự chia rẽ tôn giáo. Thành Thánh không được là nơi cho hận thù và chia rẽ”.
Trong một tuyên bố được đưa ra trong ngày 27/9, các vị lãnh đạo các Giáo hội Kitô ở Giêrusalem cám ơn Quốc vương vì đã mô tả chân thực hiện trạng của Kitô giáo ở Thánh Địa, đặc biệt ở Giêrusalem.
Các vị lãnh đạo viết: “Chúng tôi chào mừng cam kết công khai của Quốc vương trong việc bảo vệ nguyên trạng lịch sử và pháp lý của các cộng đoàn, do đó bảo vệ sự an toàn và tương lai của chúng tôi. Những nỗ lực của Quốc vương nhằm gióng lên hồi chuông cảnh báo về tình trạng xấu đi của các quyền con người cơ bản của Kitô giáo, là một thông điệp mạnh mẽ gửi tới thế giới về sự nguy hiểm rõ ràng và hiện tại xung quanh di sản và sự hiện diện của Kiôt giáo ở Giêrusalem và phần còn lại của Thánh Địa”.
Quốc vương Abdullah, người được công nhận là “Người bảo vệ” Thánh Địa, từ lâu đã than phiền Israel đang vi phạm các thoả thuận hiện trạng khi cho phép người Do Thái định cư trong các khu dân cư theo truyền thống Kitô giáo và Hồi giáo. Và gần đây, Israel đã không thực thi thỏa thuận được ký kết vào năm 1967. Theo thoả thuận này, người Do Thái được phép đến thăm khu phức hợp xung quanh Đền thờ Hồi giáo Al-Aqsa nhưng không được cầu nguyện ở đó, nhưng thực tế họ đã cầu nguyện tại đây.
Ngọc Yến