2023
Sử gia Tangi Cavalin: “Anh em linh mục Philippe biết cách xây dựng lại bản thân dù đã bị lên án”
Sử gia Tangi Cavalin: “Anh em linh mục Philippe biết cách xây dựng lại bản thân dù đã bị lên án”
Trong quyển sách “Vụ việc. Các tu sĩ Dòng Đa Minh đối diện với vụ tai tiếng của anh em linh mục Phillipe” (L’Affaire. Les dominicains face au scandale des frères Philippe. nxb. Cerf), nhà sử học Tangi Cavalin mổ xẻ cơ chế đã cho phép hai anh em linh mục Marie-Dominique và Thomas Philippe phát triển toàn bộ hệ thống kiểm soát và bạo lực tình dục ngay tại trung tâm Giáo hội công giáo. Báo La Vie xem lại công việc điều tra này.
Báo cáo của ông bắt đầu bằng một loạt gom lại các câu chuyện của phụ nữ… Vì sao?
Sử gia Tangi Cavalin. Đó là một lựa chọn. Mục đích công việc của tôi là nói đến trách nhiệm của Dòng Đa Minh, nhưng không phải chỉ nói đến các ông mà không nói đến phụ nữ. Để hiểu rõ sự việc, chính xác là phải thay đổi trọng tâm, đặt mình ở vị trí các cá nhân, của phụ nữ, vì họ là nạn nhân, và họ là những người đầu tiên báo động. Tôi không muốn ai quên công việc này. Một lý do khác là khi những lời khai đầu tiên được đưa ra, người ta đã cố gắng làm mất uy tín tiếng nói của các phụ nữ này, bằng cách gọi họ là những người điên loạn, cuồng hoảng, cuồng dâm, dùng thuật ngữ tâm lý để bác bỏ lời nói của họ. Tôi muốn đưa ra cho thấy, trong nhiều năm, các phụ nữ này đã mô tả các sự kiện tương tự và không biết cách để làm cho lời khai của họ có uy tín, ngược lại phác họa kiểu dùng sai các thuật ngữ tâm lý trong Giáo hội. Khi các phụ nữ này muốn làm chứng, họ phải chịu một nỗi đau gấp đôi: đau khổ vì bị phớt lờ và bị phủ nhận bằng cách bêu xấu sức khỏe tâm thần của họ.
Chính xác điểm chung trong các lời chứng này là gì?
Có một cái gì đó rất đặc biệt về các hoạt động tình dục của hai anh em linh mục Philippe và những người nắm giữ sự việc trong Dòng của họ. Thomas và Marie-Dominique Philippe không phải là tội phạm ấu dâm, nhưng không có nghĩa những gì họ gây ra không dẫn đến các hiện tượng phạm tội ấu dâm đặc biệt nơi các tu sĩ dòng Thánh Gioan, nhưng với họ, đây là những hành vi không để dương vật vào âm đạo nên các thủ phạm cho rằng họ không vi phạm lời khấn dòng. Ngoài ra, họ ở trong một logic khai tâm. Họ không quan tâm đến bất kỳ phụ nữ nào. Tất cả các nạn nhân của họ đều có thiện ý mạnh hướng tới ơn gọi chiêm niệm, dù họ là nữ tu hay giáo dân – có nhiều người sống đời chiêm niệm. Các linh mục này thống trị trên những phụ nữ sẵn sàng đồng ý, qua tinh thần im lặng của họ, qua chiêm niệm sâu sắc của họ, đối với sự phủ nhận mà họ luôn cố gắng thực hiện. Những phụ nữ này vẫn còn kể, không có khoảnh khắc nào dành cho thông điệp thần bí và khoảnh khắc nào dành cho tình dục.
Điều đó có nghĩa là?
Khi các hành vi tình dục bắt đầu, chúng bị phủ nhận để được xem đó là khoảnh khắc đạt được hành động thần bí. Trọng tâm của cái mà linh mục Thomas Philippe gọi là “bí mật” của mình, bí mật được Đức Trinh Nữ tiết lộ cho ông, đó là niềm vui tình dục được dành riêng cho một số ít người có khả năng hiểu rằng quan hệ tình dục không phải vậy, và đây thực sự là những mối quan hệ thần bí. Một trong những nạn nhân là bà Madeleine Guéroult, bà giải thích đã có lúc bà bị mất phương hướng với những điều kiện này đến mức chóng mặt, vì Thomas Philippe nói với bà “những điều thật dẫn đến những điều sai”. Trích dẫn này là hoàn hảo để xác nhận những gì xảy ra tại hiện trường tội ác.
Ông đề cập đến các thực hành không để dương vật vào, nhưng ít nhất có một ngoại lệ. Thực tế, một “người được khai tâm” của Thomas Philippe có thai…
Thật vậy và hơn thế nữa, khi đó ông hoàn toàn quẫn trí vì ông nghĩ Đức Trinh Nữ làm sao để ‘hạt giống’ của ông không thể sinh con vì đó là quan hệ thần bí. Một trong những người ông khai tâm, một bác sĩ, sau đó phải phá thai. Đứa trẻ chết khi sinh được tôn kính giống như một thánh tích: việc phủ nhận thực tế tiếp tục và thậm chí còn làm các môn đệ của Thomas Philippe gắn bó hơn nữa chung quanh bí mật này.
Vai trò của gia đình trong vụ này là gì vì ngoài hai anh em linh mục, một chị là nữ tu Cécile de Jésus, cũng bị Văn phòng Tòa thánh trừng phạt vì những hành vi lạm dụng, cũng như người cậu của họ là tu sĩ Dòng Đa Minh Thomas Dehau được xem như người khởi xướng?
Theo tôi, điều rất quan trọng là không nên đổ lỗi cho nguồn gốc gia đình, thuộc về các gia đình mà chúng ta gọi là “các đại gia đình miền Bắc”. Ngay cả trong anh chị em nhà Philippe, một số người cũng có cái nhìn rất phê phán với hai anh em linh mục Thomas và Marie-Dominique khi phát hiện ra hành động của họ. Điều đáng ngạc nhiên là gốc rễ của sự lệch lạc thần bí này ở trong bối cảnh gọi là ngày tận thế, đó là cảnh các ông bà nội-ngoại của họ đi hưởng tuần trăng mật vào thời điểm các Quốc gia Giáo hoàng sụp đổ ở Rôma năm 1870. Họ có ấn tượng, đó là tận thế và hôn nhân của họ kết hợp một hiệp ước rõ ràng: người ông đồng ý với vợ để cùng sát cánh bảo vệ đạo công giáo bằng mọi giá đang bị tấn công từ mọi phía. Họ rời thành phố Lille về ở vùng nông thôn với dự án thành lập một xã hội công giáo, được củng cố bởi một hoang tưởng phong kiến. Gia đình, theo mô hình lãnh chúa này trở thành người bảo vệ tôn giáo. Sau này đường hướng này được hai anh em Philippe áp dụng dưới hình thức ngày càng thần bí và không thể tiếp cận được, trong đó dấn thân tôn giáo là cách để dời đến một vùng đất khác với vùng đất của các ông bà nội-ngoại trong cùng một trận chiến đấu tranh không khoan nhượng chống lại thế giới hiện đại. Tuy nhiên, không phải tất cả các hậu duệ của họ đều theo mô hình này.
Đặc tính mối liên hệ của hai anh em với Dòng Đa Minh là gì? Có phải Dòng chỉ là vỏ bọc cho họ?
Rõ ràng là không, nhưng điều này đặt cho chúng ta câu hỏi: vai trò của Dòng trong câu chuyện này. Khi họ vào Dòng thì cậu của họ đã ở trong Dòng từ cuối thế kỷ 19, ông nổi tiếng là tu sĩ thiêng liêng cao cả, ngay lập tức họ được xem là những người con gương mẫu của Thánh Đa Minh. Bản thân Thomas và Marie-Dominique tự xem mình như tu sĩ Đa Minh trước khi vào Dòng vì họ được người cậu giáo dục suốt thời niên thiếu. Dòng luôn nhìn thấy họ có ơn gọi lý tưởng, đảm bảo việc thăng tiến của họ cho đến những năm 1950, Dòng đã không đủ nhận thức để thấy đây là vấn đề trong cách họ là tu sĩ Dòng, nhưng họ không có khả năng suy nghĩ khi quan hệ với các anh em khác, để mình được các anh em khác sửa chữa như thông lệ trong đời sống tu trì. Hai anh em đã không thể lợi dụng Dòng nếu người có trách nhiệm trong Dòng không lợi dụng họ.
Làm thế nào lịch sử tỉnh dòng và cuộc khủng hoảng Saulchoir năm 1942 đóng một vai trò quan trọng như vậy?
Khi anh em Philipphe vào Tỉnh dòng Pháp, thì Tỉnh dòng bị chia rẽ và bị Rôma nghi ngờ. Không có sự hợp nhất chung quanh linh mục quản lý Marie-Dominique Chenu (năm 1942, linh mục phải rời khỏi chức vụ quản lý Saulchoir khi Tỉnh dòng được tiếp quản bởi xu hướng “chính thống” hơn, trong đó có linh mục Thomas Philippe trở thành người đại diện). Cho đến năm 1942, vai trò của họ trong Tỉnh Dòng không đáng kể, sau đó họ tham gia vào cuộc thanh trừng, bắt đầu băng cách cực đoan hóa các hành động, lấy lý do ‘được’ Đức Trinh Nữ trực tiếp cảm hứng, họ có được hình ảnh người tu sĩ hoàn toàn trung thành với các hướng dẫn chính thống của Thánh bộ Đức tin. Từ đó họ có ảnh hưởng trên các thể chế và sự lật đổ họ có thể ghép vào các vấn đề rộng lớn hơn của học thuyết. Cả hai xuất hiện như một phần của cuộc đấu tranh về giáo lý. Họ đã không phát động ra cuộc đấu tranh này, được tiến hành từ trước chiến tranh bởi những người tiếp tục thấy sự dấy lên lại khắp nơi cuộc khủng hoảng chủ nghĩa hiện đại vào đầu thế kỷ, nhưng họ đầu tư nó để thúc đẩy xác tín của họ về Dòng Đa Minh nên như thế nào trong thế giới hiện đại. Đó là nơi người ta thấy mối liên hệ tổ tiên với dự án tố cáo triệt để tính hiện đại của các ông bà của họ. Họ chiến đấu chống lại tất cả những gì nơi tu sĩ Dòng Đa Minh có vẻ như bị hư hỏng vì tính hiện đại.
Dòng Đa Minh nhờ ông thiết lập trách nhiệm của Dòng. Ông đi đến kết luận nào?
Sử gia không phải là quan tòa. Những gì người sử gia có thể mang lại, đó là cái nhìn từ bên ngoài, thông qua cách tiếp cận lâu dài trong mục đích hiểu biết. Trong thời hiện đại, hơn là trong quá khứ, đi tu không phải là con đường dẫn đến thành công xã hội. Không ai bắt phải vào dòng. Đó là một chọn lựa cực kỳ đòi hỏi phải cống hiến hết mình. Do đó tin tưởng vào các thể chế để giao nguyện vọng của mình, đó là điều thiết yếu. Vậy mà hai anh em linh mục Philippe, nhờ địa vị đáng kính của mình, nhờ danh tiếng là những thần học gia vĩ đại của Dòng Đa Minh đã không ngừng lợi dụng sự tin tưởng này. Trong trường hợp này, điều chúng ta hối tiếc là ở tất cả các cấp, các thể chế đã không đảm bảo được sự tin tưởng cần thiết cho một cuộc sống theo lý tưởng của tình anh em. Và đã làm cho lạm dụng tình dục có đất hành động. Các quy tắc dòng tu và nghệ thuật cai trị của các người có trách nhiệm có vai trò ngăn chặn những rối loạn như vậy. Các quyền hạn đã không hoạt động.
Nhưng như ông cho thấy, hai anh em linh mục Thomas và Marie-Dominique đã là những bậc thầy trong nghệ thuật ứng xử với quyền lực, họ lên hết chức này đến chức khác ở Rôma, ở Pháp…
Hoàn toàn đúng. Một cách nào đó, họ đã nắm quyền kiểm soát cơ quan điều hành Dòng của họ, nhờ danh tiếng, nhờ sự hỗ trợ, nhờ kiến thức cao của họ trong việc điều hành các cơ sở. Họ đã xoay xở để tồn tại trong nhiều năm sau khi bị Tòa thánh kết án, họ biết khéo léo đánh vào sự chia rẽ nội bộ của Dòng và Giáo hội. Việc lật ngược ván cờ trong một thời gian dài không phải là công việc dễ dàng cho bất cứ một tu sĩ nào. Ở đây quá trình xã hội hóa trước đây của họ phát huy hết tác dụng: được người cậu tu Dòng Đa Minh huấn luyện từ nhỏ, họ biết phải làm gì để đạt được mục đích của mình. Mặt khác, họ luôn hỗ trợ nhau: tuy nhiên, nếu khó tưởng tượng ra một tu sĩ có uy tín lớn như Thomas Philippe lại theo đuổi những âm mưu trái ngược với luân lý công giáo, thì làm sao hình dung được chính người anh, người chị, người cậu của mình lại ủng hộ mình?
Dù sao làm thế nào để giải thích vụ này lại kéo dài hơn nửa thế kỷ?
Điều cần thiết là khả năng tái tạo lại bản thân của họ bất chấp những lời chỉ trích. Sự lên án, không hề làm cho Thomas tự nhủ mình đã phạm sai lầm, mà củng cố ý tưởng mình phải đi xa hơn, chìm vào bí mật và làm lại một dự án khác ở một nơi khác, “tác phẩm nghệ thuật” của mình. Nhóm nhỏ của họ tin chắc mình đã nắm chân lý cho Giáo hội đến mức họ phải bắt đầu lại, nhưng ở một nơi ít lộ liễu hơn, xa các quy định của Dòng và Giáo hội. Còn tại Nhà Arche, xa các tu viện Đa Minh, nhưng vẫn là người của Dòng, Thomas Philippe tái tạo lại mình theo mô hình gợi lên hình ảnh Tin Mừng của người nghèo giữa người nghèo, người nhỏ bé giữa những người nhỏ bé. Ông trở thành người không thể nghi ngờ.
Ông nói về cách Thomas Philippe tái tạo lại con người mình. Còn Marie-Dominique Philippe thì sao?
Trường hợp của ông này thì khác, vì bản án năm 1957 của ông không được biết đến, ông không phải tái tạo lại thành một nhân vật khác. Thậm chí ông còn được phục hồi nhờ linh mục Tổng quyền Dòng năm 1959, người chịu trách nhiệm thực sự, vì linh mục Tổng quyền làm mọi cách để bản án được nhẹ và sau đó làm sao để không ai thấy. Kết quả là danh tiếng của Marie-Dominique Philippe càng nổi lên. Thật ra, để che giấu bản án của ông, vì nếu biết được, ông sẽ không còn được dạy về khoa thiêng liêng, linh mục Tổng quyền cho biết ngài cần ông làm cố vấn đặc biệt. Có một ý thức muốn che giấu hình phạt, dù trong nội bộ. Ngay cả Tỉnh dòng Pháp cũng không biết, với lý do để bảo vệ người canh giữ học thuyết. Những vấn đề ý thức hệ luôn là nguồn lực rất mạnh cho anh em Philippe, họ tự khẳng định mình là những người ủng hộ tính chính thống và một hình thức nào đó của đời sống theo truyền thống. Marie-Dominique Philippe áp dụng những quan điểm này trong việc thành lập cộng đồng Thánh Gioan, không phải một cộng đồng mới như các cộng đồng khác, vì cộng đồng này không những thể hiện dưới vẻ ngoài cổ điển trong thần học mà còn trong sự phân chia vai trò giữa các linh mục và nữ tu, người này chiêm niệm, người kia làm việc tông đồ.
Và trong bối cảnh này, căng thẳng với Rôma có thể là một biện pháp để bảo vệ, trở thành một loại huân chương danh dự…
Đúng vậy, mối quan hệ với Rôma thường xuyên làm rối mù các quân bài và làm chập mạch các quyền lực nội bộ của Dòng. Đối với thế hệ Đa Minh năm 1968 được xây dựng trong việc từ chối nhiều biện pháp trừng phạt trong những năm 1950-1960, điều này giúp cho Thomas Philippe xuất hiện trong tư cách là nạn nhân của Vatican, tạo ra sự mơ hồ. Sau đó, dưới thời Đức Gioan Phaolô II, Marie-Dominique Philippe luôn biết cách làm nổi bật sự gần gũi của mình với giáo hoàng để làm tê liệt các quyền lực giáo sĩ đang tìm cách giành lại quyền kiểm soát trên ông. Cả hai đều biết cách làm cho mình không bị nghi ngờ và khó nắm bắt. Nạn nhân của họ phải chịu những tác động khủng khiếp.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2023
Chắc chắn ở đây bài giảng sẽ không quá dài!
Chắc chắn đây là nhà nguyện mà không một ai than phiền thiếu sưởi! Tại Đại học Công nghệ Michigan, miền bắc Hoa Kỳ, năm nào các sinh viên cũng dự thánh lễ vào tháng 1 trong giá lạnh và… trong tuyết. Mỗi năm, họ duy trì truyền thống xây một nhà nguyện bằng băng thực sự, dưới áo Đức Mẹ Tuyết.
Nhà nguyện có bàn thờ, có thánh giá được khoét trong một bức tường băng. Bức tượng Đức Mẹ Lộ Đức ở bên phải nhà nguyện. Nhà nguyện có cả bục giảng được che phủ hoàn toàn để đọc và giảng. Kính màu được lắp trên tất cả các bức tường và sinh viên ngồi trên băng ghế. Tất cả sinh viên được mời tham gia xây dựng nhà nguyện mùa động, chỉ kéo dài trong vài tuần, bắt đầu ngày 10 tháng 1 và sẽ kết thúc vào tháng 2 với “thánh lễ đá”. Hy vọng các sinh viên sẽ không thấy bài giảng quá dài…
Marta An Nguyễn dịch
2023
Bài giảng có nhất thiết phải ngắn gọn không?
Bài giảng có nhất thiết phải ngắn gọn không?
Ý kiến của linh mục dòng Đa Minh Franck Dubois, giám tập Tu viện Strasbourg (Bas-Rhin), Pháp, người giảng thường xuyên trên chương trình “Ngày của Chúa” và của giáo sư khoa hùng biện người Pháp Luc Desroche.
Ngày thứ sáu 20 tháng 1, trong buổi tiếp kiến với những người dự khóa học phụng vụ tại Viện Giáo hoàng Saint-Anselme Athenaeum, Đức Phanxicô xin các linh mục giới hạn bài giảng của họ trong mười phút, không hơn. Ngài nhấn mạnh: “Bài giảng không phải là bài diễn văn trong hội nghị, nó là bí tích” (1), ngài cho một số bài giảng là “thảm họa”. la-croix.com, Gilles Donada và Malo Tresca, 2023-01-23
“Chúng ta không được bắt các giáo dân làm con tin”
Linh mục dòng Đa Minh Franck Dubois, giám tập Tu viện Strasbourg (Bas-Rhin), người giảng thường xuyên trên chương trình “Ngày của Chúa”
“Lẽ tự nhiên, tôi sẽ trả lời trước hết bài giảng phải sắc bén, như thế bài giảng sẽ phải khá ngắn. Tôi cũng nghĩ đây là một khía cạnh rất văn hóa… Chắc chắn câu hỏi được đặt ra sẽ khác nhau, ở Pháp và ở các quốc gia khác, có thể có những quốc gia có khuynh hướng giảng dài hơn. Điều tôi thấy không hay là giáo dân có cảm tưởng họ đang bị làm con tin – trừ trường hợp ngoại lệ – họ sẽ không đi ra khỏi nhà thờ hoặc bày tỏ sự không bằng lòng của họ trước bài giảng của chúng ta!
Giáo dân chịu đựng người giảng, và việc chúng ta giới hạn thời gian giảng có thể là một dấu hiệu tôn trọng họ. Trong các thánh lễ trong tuần, tôi cố gắng giới hạn bài giảng trong ba phút và ngày chúa nhật bảy phút, dù dĩ nhiên là không phải lúc nào tôi cũng tôn trọng. Bên cạnh thì giờ, còn có nhiều tiêu chuẩn khác tạo nên một ‘bài giảng hay’. Chẳng hạn, phải cẩn thận để không rơi vào lối chú giải hàn lâm: chúng ta có thể triển khai một số bối cảnh trong Kinh Thánh, nhưng không kể lại và cũng không nên diễn giải nó!
Theo tôi, một bài giảng nên cấu trúc qua ba thời điểm mạnh: thứ nhất, một cái móc (kỹ thuật kể một câu chuyện nhỏ thường có tác dụng khá tốt), tiếp theo là một yếu tố suy tư về học thuyết – về mầu nhiệm nhập thể, về Chúa Ba Ngôi, sự sống lại… những nguyên tắc cơ bản của đức tin, mà chúng ta có thể không làm cách này hay cách khác -, và cuối cùng là từ một thực tế để liên hệ với cuộc sống hàng ngày, bằng cách đặt câu hỏi, đưa ra những thách thức… Chắc chắn chúng ta không giảng để làm cho giáo dân có mặc cảm tội lỗi, nhưng để đánh thức họ, làm cho họ tự hỏi!
Bài giảng nói lên một cái gì đó về người giảng, nó lộ ra rất nhiều. Vì thế phải có một cân bằng đúng khi giảng, không rơi vào tình trạng thiếu chính trực. Chính quan điểm của người giảng đưa đến những rủi ro: phô bày, đè bẹp, thao túng bằng cách chuyển đảo lời Chúa, tạo ảnh hưởng, gây sốc hoặc làm tổn thương những chủ đề tế nhị có thể liên quan đến đạo đức, học thuyết đạo đức… Điều này đòi hỏi phải tế nhị nhưng không lấy đi khía cạnh thô tháp và gây phiền của Tin Mừng. Lời của người rao giảng thực sự có thể cảm hóa và xây dựng, cũng như nó có thể thách thức hoặc phá hủy.
Có những đề xuất về việc đào tạo bài giảng ở Pháp, nhưng tôi nghĩ chúng ta vẫn còn chỗ để cải thiện. Đức Phanxicô thường nói về tầm quan trọng của việc chuẩn bị bài giảng qua bản văn và qua cầu nguyện để không làm người nghe chán. Ngài cũng nói đến khuynh hướng toàn cầu của hàng giáo sĩ, linh mục hay phó tế, những người phải biết và yêu mến giáo dân, cũng như yêu lời Chúa đủ để truyền tải thông điệp của mình mà không rơi vào chủ nghĩa hình thức quá mức hoặc thờ ơ thô kệch.”
Chất lượng của bài giảng cũng quan trọng như thời gian
Giáo sư khoa hùng biện Luc Desroche
“Tám trong số mười người dùng Internet đã trả lời cuộc khảo sát của chúng tôi về đề tài ‘Người Pháp nghĩ gì về bài giảng?’ – được thực hiện vào tháng 3 năm 2021, chúng tôi gom được hơn 10.000 phản hồi – họ cho biết họ không thể tập trung nghe giảng quá mười phút. Nhưng không nên dùng chỉ số thời gian làm chỉ số tuyệt đối. Đôi khi chúng ta muốn kéo dài các bài giảng của mình hai mươi phút, trong khi chúng ta cúp ngay bài giảng của người khác ngay phút đầu tiên của họ.
Điều quan trọng trên hết là nội dung và cấu trúc bài giảng. Chúng ta thiết lập mối liên hệ cụ thể nào giữa lời nói và cuộc sống hàng ngày? Chúng ta muốn giáo dân đem thông điệp chính yếu nào khi họ về nhà? Trong khi thảo luận với các linh mục, tôi nhận ra nhiều linh mục không trả lời được câu hỏi này… Chẳng hạn cấu trúc chặt chẽ ở hai hoặc ba điểm giúp giáo dân dễ hiểu phần thông điệp chính hơn. Trong chương trình đào tạo, chúng tôi dựa trên sáu tiêu chuẩn, một trong các tiêu chuẩn này có nguồn gốc từ Cổ đại.
Các logo nhằm mục đích để mọi người, cả những người trẻ nhất đều hiểu được bài giảng. Đạo đức mời gọi chúng ta chân thành trong cách diễn tả. Tôi muốn quy chiếu vào “tiếng nói của linh mục”: giọng nói trong trẻo, chậm rãi hơn, không liên quan gì đến cách diễn tả thông thường. Tiêu chuẩn thứ ba là cảm xúc: chúng ta muốn truyền cảm xúc gì liên hệ đến bài giảng cho giáo dân? Niềm vui tìm lại con chiên đi lạc, đồng xu bị mất, giận dữ trước sự từ chối của kẻ có tội, nỗi buồn của Chúa Kitô ở ngôi mộ của ông Ladarô? Nhiều linh mục không thoải mái với câu hỏi về cảm xúc này và không xem trọng nó. Họ thích núp trong những chuyện về trí tuệ hơn.
Ba tiêu chuẩn sau được giáo sư tâm lý học Albert Mehrabian ở Đại học California chính thức hóa. Nó nói về ngôn ngữ lời nói và giọng nói: chúng ta nói gì và nói như thế nào. Và ngôn ngữ hình ảnh: ánh mắt, cử chỉ, tư thế. Làm thế nào để thiết lập mối liên hệ với giáo dân khi chúng ta chúi mũi vào bài soạn sẵn? Trau dồi tài hùng biện, cách diễn tả thường bị hiểu lầm. Một số người tức tối cho rằng đó là thao túng. Chúng ta không được nhầm lẫn giữa tài hùng biện, vốn là một nghệ thuật trong phục vụ, ở đây là Tin Mừng, và ngụy biện tìm cách thuyết phục bất kỳ ai về bất cứ điều gì…
Đôi khi giáo dân bị hiểu lầm khi đề cập đến bài giảng: nó thuộc lãnh vực thiêng liêng. Vậy mà giáo dân là người đầu tiên nghe giảng! Đề cập đến vấn đề chất lượng bài giảng là chủ đề nhạy cảm với linh mục: vì nhận xét nào cũng ảnh hưởng đến cá nhân họ. Chúng ta quên rằng kỷ luật này đã được Giáo hội ban hành từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 19. Ngày nay chỉ có ba chủng viện trong số hơn mười lăm chủng viện tôi liên hệ còn dạy môn này. Tuy nhiên, nhu cầu là rất lớn. Gần đây một linh mục tâm sự với tôi: ‘Bài giảng lễ là thánh giá hàng tuần của tôi’”.
- Không phải là một trong bảy bí tích được Giáo hội công giáo chính thức công nhận, nhưng “vì bản chất phụng vụ, bài giảng cũng mang một ý nghĩa bí tích: Chúa Kitô hiện diện trong cộng đoàn tụ họp lại để nghe Lời Ngài và do đó cũng hiện diện trong Bài giảng của thừa tác viên. (…)”, nhắc lại Hướng dẫn về Bài giảng (2010) của Bộ Giáo lý Đức tin, được tông huấn Verbum dominicủa Đức Bênêđictô XVI đề cập đến.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2023
Sơ Magaret Scott với sứ mạng giáo dục để giúp Nam Sudan phát triển
Sơ Magaret Scott với sứ mạng giáo dục để giúp Nam Sudan phát triển
Trong gần 25 năm, Sơ Margaret Scott và các nữ tu thuộc nhiều dòng khác nhau đã làm việc ở Nam Sudan, giúp quốc gia trẻ nhất thế giới mang lại tương lai cho những người trẻ tuổi thông qua việc đào tạo giáo viên.
Vào năm 2008, Hội đồng Giám mục Sudan đã yêu cầu xin giúp đỡ. Liên hiệp các Bề trên Tổng quyền các dòng nam (USG) và Liên hiệp Quốc tế các Bề trên Tổng quyền các dòng nữ (UISG), là các tổ chức đại diện cho các nam nữ tu sĩ, đã nhanh chóng đáp lại lời yêu cầu bằng việc thành lập tổ chức Liên đới với Nam Sudan.
Sơ Margaret Scott, thuộc Dòng Đức Bà Truyền giáo, đã kể lại kinh nghiệm của sơ khi tham gia vào sứ mạng liên hội dòng đó và giải thích chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô có ý nghĩa như thế nào đối với người dân Nam Sudan.
Sự ra đời của tổ chức Liên đới với Nam Sudan
Vào năm 2006/2007, tôi đã tham gia một số cuộc họp ở Rôma, khi các phái đoàn đầu tiên của các Liên hiệp các Bề trên Tổng quyền các dòng nam và của các dòng nữ kể lại những gì họ đã thấy và trải nghiệm ở miền nam Sudan. Dòng của chúng tôi đã quyết định tham gia dấn thân vào sứ vụ trợ giúp khu vực này và tôi được hỏi có muốn tham gia vào sứ vụ này không. Vào tháng 8 năm 2008, tôi đã cùng với bốn nữ tu đến miền nam Sudan và chúng tôi đã thành lập một cộng đoàn gồm năm nữ tu dòng Đức Bà Truyền giáo ở Riimenze, thuộc giáo phận Tombura-Yambio. Tổ chức Liên đới dự định xây dựng các trường đào tạo giáo viên ở Malakal và Riimenze và một học viện đào tạo y tế ở Wau, cũng như đào tạo những người làm công tác mục vụ.
Thành lập trường cao đẳng sư phạm
Hai người trong chúng tôi được yêu cầu làm việc trong lĩnh vực đào tạo giáo viên ở giáo phận Yambio. Lúc đầu, chúng tôi cung cấp đào tạo chuyên nghiệp trong các học viện. Khoảng năm 2011, cộng đoàn bắt đầu mở rộng với các thành viên từ các hội dòng khác mới đến. Cuối cùng chúng tôi chuyển đến thành phố chính, Yambio, và một trường cao đẳng được xây dựng trên đất của Giáo hội. Trong cấu trúc đặc biệt này, vào năm 2012, chúng tôi bắt đầu việc đào tạo các giáo viên. Mục tiêu chính của chúng tôi là đào tạo giáo viên tiểu học, vì nhu cầu này vào thời điểm đó rất cao.
Nam Sudan trở thành một quốc gia
Người dân vô cùng phấn khích khi Nam Sudan giành được độc lập vào năm 2011. Họ nghĩ rằng điều này sẽ giải quyết được mọi vấn đề: họ sẽ được độc lập và có thể tự quản lý đất nước. Mọi người tràn đầy hy vọng và nhiệt tình; nhưng trong những năm qua chúng tôi đã gặp phải những khó khăn rất lớn. Ở một khía cạnh nào đó, có một chút hụt hẫng vì mọi thứ không diễn ra tốt đẹp như mong đợi. Theo nhiều cách, đó là điều tự nhiên. Nhiều loại vấn đề xuất hiện khi chúng tôi bắt đầu làm việc cùng nhau như là một quốc gia độc lập.
Giáo dục thiết yếu cho một đất nước mới
Hầu hết mọi người đều hiểu rằng muốn phát triển thì cần có một hệ thống giáo dục tốt. Vào thời điểm đó, có rất ít giáo viên được đào tạo do thiếu các trường đào tạo chuyên nghiệp. Những trường đã có khi đó thì không hoạt động do thiếu nguồn tài chính. Chúng tôi là một bộ phận nhỏ cần thiết để giải quyết vấn đề cung cấp giáo viên được đào tạo. Khắp đất nước đều có một khát vọng lớn lao về học tập, giáo dục và đào tạo những giáo viên có thể chuẩn bị cho các thế hệ tương lai.
Ngay từ đầu, chúng tôi đã nhận ra rằng trong các trường có nhiều giáo viên chưa được đào tạo mong muốn được đào tạo. Vì vậy, chúng tôi đã làm việc trên hai cấp độ: đào tạo tại các trường nơi họ làm việc và chuẩn bị. Các sinh viên cao đẳng không có bằng cấp có độ tuổi khoảng 20, trong một số trường hợp, đến 50 tuổi. Họ tràn đầy nhiệt huyết và ham học hỏi. Sau khi tốt nghiệp, họ háo hức trở lại trường học của họ hoặc gia nhập hệ thống giáo dục và trở thành giáo viên, bởi vì họ muốn điều gì đó tốt hơn cho những người trẻ tuổi. Họ có một tính tích cực phi thường, mặc dù làm việc trong điều kiện cực kỳ bấp bênh. Thậm chí ngày nay bạn có thể thấy mọi người giảng dạy dưới những tán cây. Nhưng họ muốn dạy.
Chương trình đào tạo giáo viên đang có kết quả
Những người mà chúng tôi đã dạy đã đi khắp nơi với sự nhiệt tình và họ dấn thân trở thành giáo viên. Họ đã chuẩn bị công việc của mình bằng cách làm các tấm giấy, tấm bảng và tất cả các loại trò chơi – và cung cấp những thứ thực sự hữu ích. Thường thì những người do chúng tôi đào tạo được chính phủ mời làm việc trong các văn phòng giáo dục. Khi tôi giám sát học sinh của chúng tôi trong trường học, tôi thấy sự tham gia, sự hào hứng và năng lượng của các em, bởi vì các em có giáo viên mà các em có thể tin cậy. Họ có thể thấy những khả năng vô tận cho sự tiến bộ trong tương lai. Do đó, nó rất, rất hữu ích cho đất nước.
Ba lãnh đạo Giáo hội đến thăm Nam Sudan
Đức Thánh Cha, Đức Tổng Giám Mục Anh giáo Justin Welby và vị điều hành Giáo Hội Trưởng Lão Scotland cảm thương những người dân ở Nam Sudan và mong muốn cho họ thấy tình liên đới của các ngài, sự gần gũi của các ngài đối với họ. Chuyến thăm của các ngài là một biểu tượng đáng kinh ngạc của sự hỗ trợ. Những người dân và Giáo hội, những người đã cầu nguyện cho hòa bình, đã nuôi dưỡng hy vọng hòa bình cho đất nước non trẻ và đầy khó khăn này. Ba vị lãnh đạo từ các Giáo hội khác nhau cho thấy rằng mọi người có thể đoàn kết với nhau. Và nếu các Giáo hội có thể đoàn kết, thì mọi người cũng có thể đoàn kết để làm cho đất nước phát triển. Đó là một cử chỉ có giá trị biểu tượng cao và tôi nghĩ mọi người thực sự đánh giá cao chuyến thăm của các ngài.
Những người có đức tin phi thường
Người dân Nam Sudan có một đức tin phi thường. Họ tin vào Chúa; họ biết rằng Chúa yêu thương họ, và chuyến viếng thăm của Đức Giáo hoàng là một cách khác để trải nghiệm điều đó. Chúng ta không thường nghe thấy nói Nam Sudan sống trong tình cảnh khó khăn như thế nào và hàng triệu người hiện đang có nguy cơ chết đói. Trong những ngày đó, sự chú ý sẽ tập trung vào Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan. Tôi hy vọng điều này sẽ nâng cao nhận thức về hoàn cảnh khó khăn của hàng triệu người ở Nam Sudan đang phải chịu đau khổ và cần sự giúp đỡ của thế giới để tiến tới tương lai một cách hòa bình và hiệu quả.
Sơ Margaret Scott, RNDM và Sơ Bernadette Reis, FSP