2021
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng cảm ơn các tổ chức tôn giáo
Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng cảm ơn các tổ chức tôn giáo
Ông Vũ Chiến Thắng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, thay mặt Bộ Nội vụ và Ban Tôn giáo Chính phủ gởi thư cảm ơn đến các tổ chức tôn giáo, ghi nhận những đóng góp thiết thực của các tổ chức tôn giáo đã chung tay cùng Nhà nước trong việc phòng, chống và đẩy lùi đại dịch COVID-19.
Trong thư đề ngày 23-8-2021 gởi các tổ chức tôn giáo, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp của các tổ chức tôn giáo cho công tác phòng, chống dịch COVID-19 tại địa phương. Theo đó, các tổ chức tôn giáo đã chủ động vận động, hướng dẫn tín hữu thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; ban hành các văn bản gởi các tổ chức tôn giáo tại địa phương tạm dừng các cuộc lễ, các hoạt động tập trung đông người; thực hiện các nghi lễ tôn giáo trực tuyến,… Bên cạnh đó, với truyền thống “thương người như thể thương thân”, sống “tốt đời, đẹp đạo”, các tổ chức tôn giáo đã tích cực đóng góp vào quỹ vaccine, ủng hộ vật tư, trang thiết bị y tế cho công tác phòng, chống dịch; vận động, kêu gọi hàng ngàn tín hữu tham gia tuyến đầu hỗ trợ các y, bác sĩ trong việc chữa trị các bệnh nhân nhiễm COVID-19; tổ chức các chương trình từ thiện ủng hộ lương thực, nhu yếu phẩm cho người dân có hoàn cảnh khó khăn bởi đại dịch qua nhiều hành động sáng tạo…
Trong thư gởi Hội đồng Giám mục Việt Nam và Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng ghi nhận “Trong suốt thời gian qua, Giáo hội Công giáo Việt Nam luôn đồng hành cùng Chính phủ trong công tác phòng chống dịch bệnh bằng nhiều hình thức như: các Tổng Giáo phận, giáo phận đã ban hành văn bản hướng dẫn sinh hoạt tôn giáo theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nội vụ và chính quyền địa phương; hỗ trợ, vận động, kết nối mọi nguồn lực để ủng hộ “Quỹ Vắc xin phòng, chống Covid-19” do Chính phủ thành lập; tổ chức nhiều hoat động bác ái để hỗ trợ người dân trong vùng dịch gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Đặc biệt là kêu gọi hàng ngàn linh mục, nam, nữ tu sĩ lên đường vào tâm dịch, phục vụ các bệnh viện tuyến đầu, chăm sóc các bệnh nhân Covid-19 nặng. Các linh mục, nam, nữ tu sĩ đã dấn thân phục vụ, đưa ngọn lửa yêu thương, trái tim cảm thông, bàn tay chia sẻ đến với bệnh nhân bị nhiễm Covid-19. Tôi thật sự xúc động khi thấy nhiều hội dòng, dòng tu, giáo xứ đã tự nguyện dùng cơ sở tôn giáo làm nơi cách ly tập trung, cộng tác với các bệnh viện đưa bệnh nhân từ các bệnh viện vào trong các cơ sở tôn giáo để chăm sóc; nhiều linh mục, tu sĩ tình nguyện xin ở lại các bệnh viện tuyến đầu để tiếp tục dấn thân phục vụ. Đây chính là nghĩa cử hy sinh của các linh mục, nam, nữ tu sĩ cùng quyết tâm đẩy lùi đại dịch, đem bình an trở lại cho nhân dân Việt Nam”.
2021
Nhật ký tu sĩ từ bệnh viện Covid-19: “Nếu như không vào bệnh viện…”
Nhật ký tu sĩ từ bệnh viện Covid-19: “Nếu như không vào bệnh viện…”
Nữ tu Maria Phạm Thị Nhung, dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn tâm tình với Công giáo và Dân tộc từ Bệnh viện Hồi sức Covid-19 (TP Thủ Đức) về những ngày phục vụ ở tuyến đầu.
“Nếu như không vào bệnh viện, mình mãi mãi không biết được, siêu vi Corona có thể hủy hoại cơ thể bệnh nhân nhanh chóng như vậy. Hôm nay người bệnh có thể vui cười, nói chuyện với mình thì ngày mai họ đã nằm bất động mê man và ngày mốt thì ra đi vĩnh viễn. Hôm nay họ còn may mắn gọi điện được về cho người thân, nhưng ngày mai người thân gọi vào thì họ không còn nghe điện thoại được nữa. Họ rời xa người thân mà không một lời từ biệt, không một lời trăn trối, không một nén nhang…
Nếu như không vào bệnh viện, mình mãi mãi không biết được, khí trời mà Thiên Chúa ban tặng cho con người lại quý giá đến như vậy. Trong hoàn cảnh bình thường, chúng ta tự nhiên hít thở được không khí, thì không cảm thấy quý giá. Khi Covid-19 ập tới giành lấy ôxy thì chúng ta đành bất lực. Thiếu ôxy, người bệnh phải chịu đựng một nỗi đau rất lớn, cảm giác khó thở không thể nào diễn tả được. Dù họ được máy móc hiện đại hỗ trợ, được bác sĩ giỏi cứu chữa nhưng cũng có lúc phải chịu thua. Bệnh nhân vừa phải chiến đấu về thể xác, vừa phải gồng mình chiến đấu về tinh thần khi hay tin trong gia đình có 3, 4 người ra đi…
Nếu như không vào bệnh viện, mình mãi mãi không biết được, tiền bạc lúc này là vô nghĩa. Có những bệnh nhân mang theo rất nhiều tiền, thường hay nói với tình nguyện viên chúng mình là: ‘Các con cầm tiền đi mua ít đồ cho mọi người cùng ăn, hay mua giùm cô cái này, mua giùm cô cái kia…’, nhưng chúng mình đều từ chối. Không ai dám cầm một đồng tiền trong bệnh viện ra ngoài, vì tất cả điều nhiễm khuẩn. Trong bệnh viện, ai cũng như ai, không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt chức quyền, ai cũng có cùng một chế độ chăm sóc tùy theo mức độ bệnh của mỗi người. Rơi vào hoàn cảnh này, con người chỉ còn lại thân xác bệnh tật thôi chứ vật chất ngoài thân đều vô nghĩa.
Nếu như không vào bệnh viện, mình mãi mãi không biết được, còn được ăn uống bình thường là điều vô cùng quý giá. Bởi bệnh nhân trong viện ăn uống rất khổ sở. Trên người họ gắn rất nhiều dây nhợ, họ bị tổn thương cả về thể xác lẫn tâm hồn, chỉ cần cựa mình đón lấy một muỗng cháo thôi đều rất mệt nhọc. Với những bệnh nhân đeo mặt nạ ôxy, mỗi lần đút cháo, mình phải tháo mặt nạ ra, đút cho họ ăn rồi sau đó lại ụp uống để họ thở. Mỗi lần SpO2 của bệnh nhân tụt xuống dưới 90 là mình thót tim, phải kêu họ dừng nhai để hít thở nếu không sẽ nguy hiểm. Bệnh nhân vừa ăn vừa thở nên rất chậm, mình phải kiên nhẫn đợi họ ăn và nuốt xong, ôxy ổn định mới đút muỗng thứ hai. Cũng có nhiều bệnh nhân mất tinh thần không chịu ăn, sức khỏe kém không thể tiếp nhận kháng sinh. Bệnh nhân càng mất tinh thần, không chịu ăn uống thì lại càng dễ bị nguy kịch. Vì thế, việc chăm bệnh nhân, kiên nhẫn thôi thì vẫn chưa đủ, còn cần phải có tình thương nữa, mình vừa đút cháo, vừa động viên, vỗ về, để họ phấn chấn ăn cho có sức chống chọi với bệnh tật.
Nếu như không vào bệnh viện, mình mãi mãi không biết được, còn được nói chuyện với người khác là điều quý giá. Vì có những bệnh nhân phải đặt nội khí quản, dù tâm trí họ còn tỉnh nhưng không thể nói chuyện. Mình thấy trong lòng họ rất thao thức, rất khao khát muốn nói với mình một điều gì đó nhưng họ không thể cất lời. Cảm giác lúc đó mình thấy rất khó chịu, thấy rất thương bệnh nhân nhưng không thể hiểu bệnh nhân muốn nói gì. Mình chỉ biết im lặng hiện diện bên họ, đồng cảm, chia sẻ nỗi đau với họ.
Nếu như không vào bệnh viện, mình mãi mãi không biết được, bình an là điều quý giá nhất. Phục vụ ở khoa cận nặng, ngày ngày chứng kiến bệnh nhân phải cố gắng giành lấy từng hơi thở để có đủ lượng ôxy trong máu một cách rất mệt nhọc, đau đớn, thì đâu là niềm vui, là động lực thúc đẩy mình cố gắng làm việc hơn 40 ngày qua? Đó là khi mình nhìn thấy các bệnh nhân được chuyển về khoa nhẹ hơn. Điều đó chứng tỏ họ có cơ hội sống sót cao hơn. Họ có thêm niềm hy vọng hồi phục để trở về với gia đình.
Nếu như không vào bệnh viện, mình mãi mãi không biết được, mỗi sớm mai thức dậy còn được gặp người thân quen là điều quý giá. Đại dịch cho mình thấy được sự mong manh của kiếp người. Khi tiễn bệnh nhân vô viện, người nhà còn nhìn thấy bệnh nhân lành lặn, nhưng có khi vài ngày sau chỉ nhận lại nắm tro tàn. Vì thế, mình mong mọi người biết quý trọng hơn những mối quan hệ tương quan của mình, biết gạt bỏ những giận hờn, sẵn sàng tha thứ khi còn có cơ hội gặp nhau, biết nhẫn nhịn, biết nói lời yêu thương xây dựng hơn những ghen tương, đố kị. Con người bỏ quá nhiều thời gian để tham, sân, si, tìm kiếm tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp nhưng khi cái chết ập đến thì chẳng mang theo được gì.
Nếu như không vào bệnh viện, mình mãi mãi không biết được, tất cả rồi sẽ qua đi… chỉ có tình yêu thương là ở lại!”.
Ngọc Lan (ghi)
2021
Sứ vụ và hoạt động của Hội đồng Tòa Thánh cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu
Tiếp tục loạt bài về sứ vụ và hoạt động của các Bộ, các Hội đồng và các cơ quan của Tòa Thánh, trong tuần qua, Vatican News đã có cuộc phỏng vấn với Đức Hồng y Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu, từ năm 2010, nhưng từ năm 2002 đã là thành viên của Hội đồng này. Qua cuộc trò chuyện này, Đức Hồng y đã cho biết về những điều liên quan đến cơ quan này của Tòa Thánh như: lịch sử, các mục tiêu, ngân sách sứ vụ và các cơ cấu hỗ trợ sứ vụ của Đức Thánh Cha.
Thưa Đức Hồng y, Hội đồng Tòa Thánh về Hiệp nhất các Kitô hữu là một trong những thành quả quan trọng nhất của Công đồng Vatican II. Làm thế nào để di sản của một kinh nghiệm đã gần sáu mươi năm có thể tồn tại cho đến ngày nay?
Đúng là theo một cách nào đó, Hội đồng Tòa Thánh cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu là một trong những thành quả quan trọng nhất của Công đồng Vatican II. Không nghi ngờ gì nữa, một trong những mục đích chính của Công đồng, được Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII hiểu, là tái thiết lập sự hiệp nhất của các Kitô hữu; qua đó, một Ban Thư ký đặc biệt đã được thành lập. Nhưng cũng đúng là chính Công đồng, về nhiều mặt, là thành quả công việc của Ban Thư ký Hiệp nhất lúc bấy giờ. Thực tế, vào lúc đó, Ban Thư ký đã có một vai trò quyết định trong việc chuẩn bị các dự thảo của một số văn kiện chính của Công đồng, như Hiến chế tín lý về Mạc Khải của Thiên Chúa – Dei Verbum, Sắc lệnh Đại kết – Unitatis redintegratio và Nostra Aetate, và Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo – Dignitatis humanae. Sau sáu mươi năm giáo huấn công đồng, đặc biệt Hiến chế tín lý về Giáo hội – Lumen Gentium và Sắc lệnh Đại kết- Unitatis redintegratio, vẫn là nguồn cảm hứng và là kim chỉ nam cho hoạt động Hội đồng Tòa Thánh.
Cầu nguyện đại kết
Năm ngoái, kỷ niệm 25 năm Thông điệp Ut unum sint – Xin cho họ nên một, với văn kiện này, thánh Gioan Phaolô II đã xác nhận “một cách không thể đảo ngược” sự dấn thân đại kết của Giáo hội. Chúng ta còn phải làm gì thêm nữa để thực hiện trọn vẹn lời kêu gọi hiệp nhất của Tin Mừng?
Thông điệp Ut unum sint – Xin cho họ nên một, thông điệp duy nhất dành riêng cho sự hiệp nhất các Kitô hữu, đã xác nhận những trực giác đại kết tuyệt vời của Công đồng trong việc khẳng định con đường hiệp nhất là con đường tất yếu của Giáo hội. Đặc biệt, thông điệp xác thực hai cuộc đối thoại: đối thoại bác ái và đối thoại chân lý được thực hiện ngay sau Công đồng với tất cả các cộng đoàn Kitô hữu khác, nhưng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của đại kết tinh thần như linh hồn của phong trào hiệp nhất.
Trong chương cuối, Thông điệp đề cập đến con đường còn phải đi. Rõ ràng sự hiệp nhất là một hồng ân của Thánh Thần, một hồng ân được ban cho chúng ta khi chúng ta bước đi cùng nhau, như Đức Thánh Cha Phanxicô thường lặp lại. Để nhận được ân ban này, điều thiết yếu không chỉ là xin hồng ân nhưng còn phải chuẩn bị sẵn sàng, cầu nguyện để Chúa sẽ gia tăng ước muốn hiệp nhất của chúng ta, như Người đã khao khát.
Nhân viên của Hội đồng Tòa Thánh đến từ đâu và được đào tạo như thế nào? Cần có những kinh nghiệm và kỹ năng cụ thể nào?
Để đáp ứng sứ mạng toàn cầu, chúng tôi là một nhóm nhỏ gồm hai mươi bốn người đến từ mười ba quốc gia khác nhau, trong đó, có bảy vị giàu kinh nghiệm phụ trách các công việc khác nhau. Ít nhất ba quy định cơ bản được yêu cầu cho công việc của chúng tôi: chắc chắn là các khả năng thần học chuyên biệt, kiến thức ngôn ngữ, và khả năng phát triển các mối quan hệ tin cậy, vì tình bạn và tình huynh đệ là một chiều kích quan trọng của tinh thần đại kết. Nhưng trên hết, công việc phục vụ của chúng tôi đòi hỏi một lòng say mê hiệp nhất và một tình yêu đối với Giáo hội như đã được Chúa Kitô thiết lập và mong muốn. Say mê này thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu liên tục, cho phép chúng tôi học hỏi “khi cùng nhau bước đi”, khám phá những con đường khả thể mới, và cũng để thực hiện đức tính kiên nhẫn, bởi vì thời gian không phải của chúng ta mà là thời gian của Chúa Thánh Thần. Công việc của Hội đồng Tòa Thánh cũng có sự tham gia của các thành viên và cố vấn, cũng như các chuyên gia, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, những người tham gia vào nhiều cuộc đối thoại thần học và các sáng kiến khác, được thực hiện với hầu hết các hệ phái Kitô khác.
Tuần Cầu nguyện cho sự Hiệp nhất các Kitô hữu hàng năm đại diện cho một cuộc gặp gỡ trọng tâm cho đời sống của Hội đồng Tòa Thánh Hiệp nhất các Kitô hữu. Tình hình của phong trào Đại kết thế giới ngày nay như thế nào và triển vọng của nó là gì?
Tuần Cầu nguyện cho sự Hiệp nhất chắc chắn là một thời điểm quan trọng, không chỉ đối với Hội đồng Tòa Thánh Hiệp nhất các Kitô hữu, nhưng tôi hy vọng, cũng quan trọng đối với tất cả các Kitô hữu. Tuy nhiên, đây không phải là dịp duy nhất để cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Thực tế, trong Thánh lễ, chúng ta luôn cầu xin Chúa ban “sự hiệp nhất và bình an” cho Giáo hội. Hơn nữa, đại kết tinh thần không chỉ bao gồm việc cầu nguyện cho sự hiệp nhất, mà còn trong việc “hoán cải tâm hồn và sống thánh thiện”, như Công đồng Vatican II nói. Tôi sẽ thêm ít nhất ba khía cạnh quan trọng khác của đại kết tinh thần: cầu nguyện chung với Sách Thánh, thanh tẩy ký ức lịch sử và đại kết của các Thánh, và đặc biệt là các vị Tử Đạo. Tình trạng của Phong trào Đại kết ở cấp địa phương cũng như ở cấp độ thế giới phụ thuộc vào tất cả những cội nguồn tinh thần này.
Gặp gỡ đại kết
Cơ quan mà Đức Hồng y đang làm Chủ tịch được chia thành hai khu vực: Đông và Tây. Hành trình Đại kết tiến triển như thế nào trên cả hai khu vực của sự dấn thân này?
Sự khác biệt này tương ứng với cơ cấu của sắc lệnh Công đồng về Đại kết, trong đó, có tính đến những đặc điểm cụ thể về nguồn gốc và thực tại của Kitô giáo. Trên thực tế, ngay cả khi phong trào Đại kết chỉ là một, các vấn đề phải đối diện trong các cuộc đối thoại khác nhau là khác nhau. Trong khi chúng ta chia sẻ cùng một truyền thống Tông đồ với các Giáo hội Chính thống và Đông phương, đồng thời có cùng một cơ cấu Giáo hội và bí tích, thì với các Cộng đoàn Giáo hội phương Tây, hoàn cảnh khá đa dạng và phải đối diện với việc thiếu một khái niệm chung về sự hiệp nhất. Tuy nhiên, cuộc đối thoại giữa các Kitô hữu trong sáu mươi năm qua đã làm cho nó có thể đạt được nhiều tiến bộ hơn bao giờ hết trong lịch sử. Ví dụ, chúng ta có thể trích dẫn những tuyên bố về Kitô học với các Giáo hội Chính thống Đông phương đã chấm dứt 1500 năm tranh cãi, hoặc tuyên bố chung về giáo thuyết công chính hóa đã giải quyết những vấn đề cơ bản của cuộc Cải cách ở thế kỷ XVI. Không kém phần thực tế là, các Kitô hữu không còn nhận mình là kẻ thù nữa, nhưng là anh chị em trong Đức Kitô.
Gặp gỡ đại kết
Tài liệu “Cẩm nang Đại kết – Vademecum ecumenico”, với tựa đề “Giám mục và sự Hiệp nhất các Kitô hữu”, được công bố vào cuối năm 2020, đại diện cho tài liệu gần đây nhất do Hội đồng Tòa Thánh cổ võ Hiệp nhất các Kitô hữu thực hiện. Nó đã được đón nhận như thế nào trong Giáo hội Công giáo và các Giáo hội Kitô khác?
Văn kiện này tương ứng với sứ vụ đầu tiên của Hội đồng Tòa Thánh, nghĩa là thúc đẩy tinh thần đại kết trong Giáo hội Công giáo. Trong đó, Giám mục là người chịu trách nhiệm chính đối với việc thúc đẩy sự hiệp nhất trong giáo phận. Chúng tôi vui mừng nhận thấy rằng, bản văn đã được đón nhận nồng nhiệt, cả trong Giáo hội Công giáo, qua việc các Hội đồng Giám mục chuẩn bị các ấn bản địa phương, và ở các Giáo hội và Cộng đoàn Giáo hội khác, đã có phản ứng rất tích cực với sáng kiến này.
Một ủy ban “đặc biệt” giải quyết các mối quan hệ tôn giáo với Do Thái giáo (CRRE). Kết quả chính thu được trong cuộc đối thoại với những “người anh cả” là gì?
Trực giác của thánh Giáo hoàng Phaolô VI về việc thành lập ủy ban này vào năm 1974 trong Hội đồng Tòa Thánh đã tỏ ra là phù hợp, dựa trên mối quan hệ đặc biệt, “nội tại”, giữa Kitô giáo và Do Thái giáo, như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định. Bốn tài liệu quan trọng đã được ủy ban công bố, mỗi tài liệu đã góp phần nâng cao nhận thức của người Công giáo trong quan hệ với những người “anh cả”. Tài liệu cuối cùng, có tựa đề “Tại sao các hồng ân và lời kêu gọi của Chúa là không thể hủy bỏ”, là một suy tư về các vấn đề thần học liên quan đến mối quan hệ Công giáo – Do Thái, được công bố nhân dịp kỷ niệm 50 năm Sắc lệnh Nostra Aetate. Bản văn này có thể làm phong phú và tăng cường chiều kích thần học của cuộc đối thoại Do Thái – Công giáo, điều này đặc biệt cần thiết vì mối quan hệ của chúng ta, trên hết, có một nền tảng tôn giáo.
Nguồn: vaticannews.va/vi/
2021
Hội nghị online của các đại chủng viện tại Việt Nam
Lm. Giuse Phạm Văn Trọng,
Thư ký Ủy ban Giáo sĩ Chủng sinh/ HĐGMVN
“Nhu cầu gặp gỡ và chia sẻ giữa các nhà đào tạo rất cần thiết.” (Thư mời tham dự hội nghị, 8/2021).
Câu mở đầu trong thư gởi đến các đại chủng viện tại Việt Nam của Đức cha chủ tịch Ủy ban Giáo sĩ Chủng sinh (UBGSCS) đã nhấn mạnh đến một nhu cầu quan trọng trong việc đào tạo. Đó là nhu cầu gặp gỡ và chia sẻ kinh nghiệm của các nhà đào tạo tại đại chủng viện. Đây cũng là lý do thúc đẩy sáng kiến đưa đến Hội nghị online của các đại chủng viện tại Việt Nam trên nền tảng Zoom (Zoom Meeting) vào ngày 17/09/2021.
Hội nghị online lần này quy tụ hơn 100 người có kinh nghiệm đào tạo bao gồm Đức cha chủ tịch Giuse Đỗ Mạnh Hùng, cha Thư ký UBGSCS Giuse Phạm Văn Trọng, quý cha giám đốc, phó giám đốc, quý cha giáo nội trú và ngoại trú thuộc các 11 đại chủng viện tại Việt Nam.
Trong buổi sáng, từ 8g00 – 11g45, với chủ đề “Đào tạo linh mục và đường hướng truyền giáo trên nền tảng Hy tế Thập giá trong bối cảnh ‘khủng hoảng môi sinh’”, Hội nghị đã triển khai một nội dung gồm 03 phần vừa mang tính thời sự vừa xoay quanh hai huyết mạch xuyên suốt trong quá trình đào tạo linh mục tại đại chủng viện, đó là, đời sống cộng đoàn và truyền giáo (x. Ratio 2016, số 90 và 91).
Phần thứ nhất, Hội nghị lắng nghe bài thuyết trình “Công cuộc truyền giáo của hai giám mục tiên khởi tại Giáo hội Việt Nam” của Đức cha chủ tịch Giuse. Đây là một đề tài mang tính thời sự đối với Giáo hội Việt Nam bởi vì Giáo hội Việt Nam đang tiến hành hồ sơ phong thánh cho hai giám mục tiên khởi tại Việt Nam, Đức cha Pierre Lambert de la Motte và Đức cha Francois Pallu. Cùng với Đức tổng Giuse Vũ Văn Thiên, Đức cha chủ tịch UBGSCS Giuse Đỗ Mạnh Hùng được HĐGMVN ủy thác để tiến hành tiến trình sưu tập những bằng chứng về đời sống thánh thiện và nỗ lực truyền giáo tại Việt Nam của hai Đức cha Pierre Lambert de la Motte và Francois Pallu. Lắng nghe về hai gương mẫu giám mục tiên khởi tại Việt Nam là cơ hội để mỗi nhà đào tạo xác tín rằng truyền giáo là một huyết mạch sống còn của Giáo hội (Evangelii Nuntiandi, số 14). Đồng thời, nó là cơ hội để các nhà đào tạo kiểm nghiệm sức mạnh của đời sống cộng đoàn trong việc cộng tác để tạo nên hoa trái cho Giáo hội Việt Nam hôm nay với hơn 100.000 vị tử đạo, 27 giáo phận với các đại chủng viện đào tạo linh mục, 30 dòng Mến Thánh Giá, các hiệp hội Mến Thánh Giá Tại Thế…
Phần thứ hai, Hội nghị lắng nghe bài thuyết trình “Làm chứng cho Chúa trong bối cảnh khủng hoảng môi sinh thời đại dịch Covid-19” của cha Giuse Bùi Công Trác, Giám đốc Đại chủng viện Sàigon. Dựa trên giáo huấn nền tảng của Giáo hội về việc làm chứng cho Chúa giữa lòng thế giới, cha Giám đốc Giuse đã phác họa một bức tranh sống động về việc cộng tác của mọi thành phần dân Chúa trong việc giúp đỡ những anh chị em khốn khổ do ảnh hưởng của đại dịch tại Việt Nam. Đây là cơ hội để các nhà đào tạo suy nghĩ và mở ra một hướng đào tạo thích ứng và phù hợp cho các chủng sinh trước tiếng “than khóc của nhân sinh” nhằm làm cho họ trở thành các mục tử mang “mùi chiên” và sống giữa đoàn chiên (Ratio 2016, Dẫn Nhập và số 120).
Phần cuối, mỗi đại chủng viện chia sẻ về kế hoạch đào tạo trong thời gian bất ổn vì giãn cách do đại dịch Covid. Với hoàn cảnh riêng của mình, các đại chủng viện đã định hướng và xây dựng cho mình một chương trình đào tạo phù hợp nhằm bảo đảm tính liên tục và toàn diện của tiến trình đào tạo (Ratio 2016, Dẫn Nhập).
Kết thúc Hội nghị online, các tham dự viên tạ ơn Chúa vì đã có cơ hội được gặp gỡ, học hỏi và chia sẻ với nhau. Hội nghị online lần này đánh dấu một nỗ lực rất lớn của ban tổ chức và các tham dự viên sau một vài lần phải hủy bỏ hội nghị theo cách truyền thống vì giãn cách do đại dịch Covid. Nó cũng mở ra một hướng đi mới để các nhà đào tạo có cơ hội gặp gỡ và chia sẻ nhiều hơn các thao thức về đào tạo linh mục của mình.