2022
Nghi thức di chuyển hài cốt Đức Cha Lambert và Thánh lễ suy tôn Thánh Giá tại nhà thờ Chính Tòa Qui Nhơn
Nghi thức di chuyển hài cốt Đức Cha Lambert và Thánh lễ suy tôn Thánh Giá tại nhà thờ Chính Tòa Qui Nhơn
Trong đường hướng của Hội đồng Giám mục Việt Nam cho tiến trình xin phong thánh Đức cha Pierre Lambert de La Motte, vị Giám mục tiên khởi của Giáo phận Đàng Trong, một điều đòi buộc là phải có “Réputation de la Sainteté” (sự nổi tiếng thánh thiện của vị thánh). Một trong những dấu hiệu “nổi tiếng” là giáo dân biết, đến viếng thăm phần mộ và cầu nguyện để xin ơn (phép lạ).
Bởi đó, sau khi đã di chuyển hũ Hài cốt Đức cha Lambert (Hũ số 2), từ Hội dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán về đặt trong Nhà nguyện cổ của Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận Sài Gòn vào ngày 15.6.2022, thì ngày 14.9.2022, có nghi thức tưởng niệm và di chuyển Hài cốt Đức cha Lambert (Hũ số 3), từ Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn về đặt trong Nhà thờ Chính Tòa Qui Nhơn.
Vào lúc 14g30 ngày 14.9.2022, Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Trưởng Ban Hồ sơ phong thánh của Đức cha Lambert đã đến Tu viện Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn chủ sự nghi thức di chuyển Hài cốt Đức cha Lambert từ Nhà nguyện của Hội dòng đến Nhà thờ Chính Tòa Qui Nhơn. Trước khi cử hành nghi thức, Đức cha Giuse xác nhận Hài cốt Đức cha Lambert trong hộp inox được đặt trong hũ vẫn còn nguyên vẹn, sau đó niêm phong hũ Hài cốt. Lúc 15g00, nghi thức bắt đầu với kinh Chúa Thánh Thần. Hiện diện trong nghi thức có cha Giuse Trương Đình Hiền, Tổng Đại diện Giáo phận Qui Nhơn; cha Phaolô Nguyễn Minh Chính, Chưởng ấn Giáo phận Qui Nhơn; cha Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, Cáo thỉnh viên Ban Hồ sơ Phong Thánh, quý nữ tu trong Ban Hồ sơ Phong Thánh của Hội đồng Giám mục Việt Nam cùng đông đảo nữ tu thuộc Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn và anh chị em Hiệp hội Tín hữu Mến Thánh Giá của Hội dòng từ khắp các nơi quỵ tụ về.
Nghi thức tưởng niệm và di chuyển Hài cốt Đức cha Lambert được tuần tự tiến hành với các nội dung:
– Lời dẫn vào nghi thức
– Đọc Bức Tâm Thư của Đức cha Lambert
– Cầu nguyện trước Di cốt của Đức cha Lambert
– Niệm hương
– Đọc Kinh Xin ơn
– Kết thúc nghi thức tưởng niệm
– Di chuyển Hài cốt Đức cha Lambert đến Nhà thờ Chính Tòa Qui Nhơn.
Chị Anna Nguyễn Thị Yến Trâm, Tổng Phụ trách Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn, tiến vào Tiền sảnh Nhà thờ Chính Tòa và trao hũ Hài cốt Đức cha Lambert cho Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Giám mục Giáo phận Qui Nhơn. Đức cha tiếp nhận và rước Hài cốt Đức cha Lambert vào trong Nhà thờ, đặt lên bục trên bàn thờ kính ngài. Đức cha niệm hương trước Di ảnh và Hài cốt.
Thủ tục ký vào biên bản giao – nhận được thực hiện trên cung thánh của Nhà thờ. Đồng ký biên bản này có đại diện của Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn và đại diện Tòa Giám mục Qui Nhơn. Biên bản được lập thành 4 bản, Tòa Giám mục Qui Nhơn lưu giữ 1 bản, trao cho Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn lưu giữ 1 bản và trao cho Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng (Ban Hồ sơ Phong Thánh của Hội đồng Giám mục Việt Nam) lưu giữ 2 bản.
Với việc tiếp nhận Hài cốt này, từ đây, Hài cốt Đức cha Lambert trở thành Di sản tinh thần chung của toàn thể Dân Chúa, sẽ được công khai trưng bày cho cộng đoàn Dân Chúa kính viếng và cầu nguyện.
Trước khi bước vào nghi thức Tưởng niệm tại Nhà thờ Chính Tòa là phần chào đón và giới thiệu quý Đức cha, quý cha, quý Soeurs trong Ban Hồ sơ Phong Thánh. Tiếp theo là bài chia sẻ của Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng về chân dung của Đức cha Lambert và những công trình quý giá của người dành cho Giáo hội Việt Nam với những “hoa trái thánh thiện”.
Sau bài chia sẻ của Đức cha Giuse là bài thuyết trình của cha Phêrô Nguyễn Thanh Tùng; Giáo sư môn Giáo sử thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn và cũng là Cáo Thỉnh viên trong Ban Hồ sơ Phong Thánh, trình bày về tiểu sử Đức cha Lambert: gia cảnh, thời niên thiếu, linh mục thừa sai, Giám mục Đại diện Tông Tòa, cư ngụ tại Ayuthia, kinh lý Đàng Trong và Đàng Ngoài, các công trình đặc biệt, đặc biệt là di chúc của ngài…
Sau bài thuyết trình của cha Phêrô, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Giám mục Giáo phận Qui Nhơn thay mặt Giáo phận cám ơn Đức cha Giuse, quý cha, quý nữ tu, cách riêng Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn đã sẵn sàng trao Hài cốt Đức cha Lambert cho Giáo phận, đồng thời ngài cũng nêu cao vai trò của Đức cha Lambert nơi mảnh đất Qui Nhơn thân yêu này, phần đất còn lại của Giáo phần Đàng Trong và ước mong tất cả mọi thành phần dân Chúa trong Giáo phận năng sùng kính và cầu nguyện xin ơn với ngài.
Trước bàn thờ Hài cốt Đức cha Lambert, cha Tổng Đại diện Giáo phận Qui Nhơn; Phó ban đặc trách Hồ sơ Phong Thánh cho Đức cha Lambert, hai cha phụ tế cùng với hai chị : Anna Nguyễn Thị Yến Trâm; Tổng Phụ trách Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn và chị Anna Nguyễn Thị Thanh; Phó ban đặc trách Hồ sơ Phong Thánh, đã cử hành nghi thức với bài Văn tế tưởng niệm, những lời cầu nguyện sốt sắng, những nén hương nghi ngút khói được dâng lên… Kết thúc nghi thức tưởng niệm, cả cộng đoàn đọc chung kinh Xin ơn nhờ lời chuyển cầu của Đức cha Lambert.
Sau ít phút giải lao, Thánh lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành với đoàn đồng tế tiến lên cung thánh. Trong bài giảng lễ, dưới lăng kính của Lời Chúa, Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi đã triển khai giá trị và ý nghĩa và của Mầu Nhiệm Thập Giá trong cuộc đời Đức Giêsu Kitô. Hình ảnh Đức Giêsu bị treo trên Thập Giá qua biểu tượng hình ảnh con rắn đồng bị treo trong hoang địa là biểu tượng của tình yêu Đức Giêsu dành cho Thiên Chúa Cha và nhân loại. Việc suy tôn Thập Giá không có nghĩa là suy tôn bất kỳ cây Thập Giá nào mà suy tôn cây Thập Giá trên đó Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh, Đấng được “ đưa lên cao” và được Thiên Chúa tôn vinh “ Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa…” (Pl 2, 9-11)
Qua hình ảnh Đức Kitô trên Thập Giá, Đức cha chủ tế mời gọi cộng đoàn làm sao biến Thập Giá đời mình trở thành Thánh Giá, nghĩa là không những chấp nhận nó trong đời thường mà còn thánh hóa những đau khổ của mỗi người trong niềm tin và lòng mến. Theo gương Chúa Giêsu trong việc thánh hóa Thập Giá, mỗi người hãy thể hiện tình yêu trước hết đối với Thiên Chúa và sau đó là tình yêu đối với tha nhân. Việc sống Mầu nhiệm Thập Giá theo gương Đức Kitô là dịp để suy niệm tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta và như là lời mời gọi mỗi người đi theo con đường Thập Giá của Ngài. Trong đó, cuộc đời của Đức cha Lambert de La Motte đã gắn liền với Mầu Nhiệm Thập Giá: từ lúc chín tuổi, trong những tháng ngày với vai trò mục tử, hành trình truyền giáo, bệnh tật cuối đời… Vì đã bám sâu đời mình vào Thập Giá Đức Giêsu Kitô, nên Đức cha Lambert đã thi hành nhiệm vụ mục tử của mình cách xuất sắc và trở thành mẫu gương cho tất cả mọi thành phần dân Chúa, cách riêng cho chị em các Hội dòng Mến Thánh Giá. Bởi đó, noi gương ngài, chị em được mời gọi hãy biết sống tinh thần Thập Giá bằng cách chấp nhận mọi đau khổ trong đời và phục vụ cho những người đau khổ. Đức cha cũng mời gọi cộng đoàn hãy noi theo gương đời sống đạo đức của Đức cha Lambert và cầu xin Chúa thương cho ngài sớm được tôn phong lên bậc chân phước và Hiển thánh.
Thánh lễ được tiếp tục với phần Phụng vụ Thánh Thể.
Trước khi ban Phép lành kết lễ, Đức cha Matthêô mời gọi cộng đoàn siêng năng đến kính viếng, cầu nguyện và xin ơn nhờ lời chuyển cầu của Đức cha Lambert.
Cộng đoàn đón nhận Phép lành cuối lễ trong tâm tình cảm tạ và tri ân.
Văn phòng Hội dòng MTG. Qui Nhơn
2022
Đôi lời cảm ơn trong nghi thức cung nghinh di cốt Đức cha Pierre Lambert de La Motte
Đôi lời cảm ơn trong nghi thức cung nghinh di cốt Đức cha Pierre Lambert de La Motte
Giáo phận Qui Nhơn chúng con xin hết lòng cảm ơn Đức cha Giuse, Quý Cha, Quý Soeurs trong Ban đặc trách Hồ sơ phong thánh cho Đức cha Lambert, cùng với Quý Thầy theo phụ giúp, mặc dù công việc bề bộn,…
ĐÔI LỜI CẢM ƠN
của Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Giám mục Giáo phận Qui Nhơn, trong nghi thức cung nghinh di cốt Đức cha Pierre Lambert de La Motte, tại nhà thờ Chính tòa Qui Nhơn ngày 14.9.2022.
Trọng kính Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Giám mục Giáo phận Phan Thiết, Trưởng ban đặc trách Hồ sơ phong thánh cho Đức cha Pierre Lambert de La Motte,
Kính thưa Quý Cha và Quý Nữ tu của Quý Ban.
Kính thưa Chị Tổng Phụ trách và toàn thể Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn.
Trong văn thư gửi Quý Đức Hồng y và Quý Đức cha của Giáo Hội Việt Nam, ngày 31.05.2021, Bộ Phong thánh đã viết: “Trước khi bắt đầu tiến trình điều tra cấp giáo phận, cần phải thẩm tra liệu danh thơm thánh thiện của ứng viên là có thực và có phổ biến trong phần đông Dân Chúa hay không, bằng cách đánh giá chất lượng của nó và phân biệt sự thánh thiện này khỏi danh thơm tiếng tốt trong công chúng, dư luận, các hoạt động xã hội và văn hóa… Danh thơm này phải là tự phát, nghĩa là, không được dựng nên cách giả tạo.
Xin lưu ý rằng danh thơm thánh thiện đích thực được biểu lộ bởi niềm tin của tín hữu về sự thánh thiện của một người, tự phát dẫn đưa tín hữu tới việc cầu xin cho những nhu cầu riêng của họ cũng như của những người khác, bao gồm việc thường xuyên thăm viếng mộ phần hay những nơi chốn khác liên kết với ký ức về ứng viên. Danh thơm thánh thiện cũng phải được kèm theo bởi những dấu hiệu khác, chẳng hạn, được chứng thực bởi những người đã nhận được những ân sủng và ân huệ từ trời, nhờ sự chuyển cầu của ứng viên”.
Để thực hiện quy định của Bộ Phong thánh, hôm nay Đức cha Giuse và toàn thể Ban đặc trách Hồ sơ phong thánh cho Đức cha Pierre Lambert de La Motte, đã đích thân đến với Giáo phận Qui Nhơn chúng con để giúp tổ chức nghi thức chuyển giao di cốt Đức cha Lambert từ Nhà mẹ Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn về nhà thờ Chính tòa, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi tín hữu trong và ngoài giáo phận có thể đến kính viếng để bày tỏ tâm tình tôn kính, yêu mến và xin ơn. Càng có nhiều tín hữu đến kính viếng và nếu được ơn, thì danh thơm đích thực về sự thánh thiện của Đức cha Lambert càng được bày tỏ, khiến cho tiến trình phong Chân phước và phong Thánh cho Đức cha được trở nên dễ dàng hơn.
Đức cha Lambert là vị Đại diện Tông tòa đầu tiên của Địa phận Đàng Trong và Giám quản Tông tòa của Địa phận Đàng Ngoài. Do đó, toàn thể Giáo hội Việt Nam từ Nam chí Bắc đều biết ơn ngài. Cách riêng đối với Giáo phận Qui Nhơn, ngài được coi là vị chủ chăn đầu tiên của giáo phận, và các vị chủ chăn của giáo phận đều được tính từ ngài trở đi, vì Giáo phận Qui Nhơn hiện nay là hậu thân trực hệ của Địa phận Đàng Trong, là phần còn lại của Địa phận Đàng Trong sau khi chia cắt để thành lập Địa phận Tây Đàng Trong năm 1844, Địa phận Bắc Đàng Trong năm 1850, Địa phận Kontum năm 1932, Địa phận Nha Trang năm 1957 và Giáo phận Đà Nẵng năm 1963.
Nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu khi được Tòa Thánh sai đi làm Đại diện Tông tòa Địa phận Đàng Trong là đào tạo hàng giáo sĩ địa phương. Vì thế, song song với việc sai các thừa sai đến truyền giáo tại Việt Nam, ngài cũng đồng thời thành lập chủng viện để đào tạo hàng giáo sĩ Việt Nam. Cha Giuse Trang, quê ở Quảng Ngãi, là vị linh mục Việt Nam đầu tiên của cả nước đã được ngài phong chức linh mục trong lễ vọng Phục sinh ngày 31.03.1668 tại chủng viện Ajuthia. Ngài cũng thành lập Dòng Chị Em Mến Thánh Giá Đàng Trong năm 1671 tại An Chỉ, Quảng Ngãi, với vị Bề trên tiên khởi là em gái của cha Giuse Trang. Trong di chúc được viết và ký tên ngày 22.7.1675, Đức cha đã để tại toàn bộ tài sản mà ngài có được do thừa kế gia đình và các bổng lộc cho việc xây dựng chủng viện đào tạo linh mục Đàng Trong.
Trong địa bàn Giáo phận Qui Nhơn hiện nay có nhiều nơi còn lưu dấu chân của ngài trong hai cuộc viếng thăm mục vụ. Trong cuộc viếng thăm lần thứ nhất (1671-1672), ngài đến Nước Mặn và ở lại đó 6 tuần. Nước Mặn là nơi Giáo phận đón nhận hạt giống Tin mừng đầu tiên từ các thừa sai Dòng Tên năm 1618. Tại đây, ngài rửa tội cho 18 dự tòng và ban phép thêm sức cho hơn 200 người. Trước khi lên đường trở lại Xiêm, ngài còn ghé thăm Nước Mặn một lần nữa.
Nơi thứ hai lưu giữ dấu chân của ngài là Quảng Ngãi. Trong chuyến viếng thăm lần thứ nhất, ngài từ Nước Mặn đi Quảng Ngãi và ở lại đó hơn hai tháng. Trong thời gian này ngài thành lập Dòng Chị Em Mến Thánh Giá như đã nói trên. Trong chuyến viếng thăm mục vụ lần thứ hai (1675-1676), ngài đến Quảng Ngãi để thăm giáo dân và nhận lời khấn lần đầu của các nữ tu Mến Thánh Giá. Ngài tỏ ra rất ưu ái đối với Quảng Ngãi và kể từ đó giáo đoàn Quảng Ngãi được coi như trưởng nữ của các giáo đoàn ở Đàng Trong.
Thời ngài, tại Địa phận Đàng Trong có cả trăm người được phúc tử đạo (từ 1664-1675). Trong hai cuộc viếng thăm mục vụ, ngài ban phép thêm sức cho trên 10.000 người. Khi ngài qua đời vào năm 1679, số giáo dân Đàng Trong có khoảng từ 50.000 đến 60.000 người, không kể những người chạy sang các nước lân cận để tránh các cơn bách hại. Ngài đã đặt nền móng cho hàng giáo sĩ bản xứ, cho các cộng đoàn nữ tu, đồng thời phát triển các cộng đoàn hoạt động tông đồ như các thầy giảng, xây dựng đời sống đức tin cho các tín hữu. Bằng thái độ vừa cương quyết vừa nhân hậu, ngài đã tạo được sự hòa thuận và hiệp nhất trong cộng đoàn Dân Chúa, cũng như sự kính trọng nơi các cấp chính quyền và anh chị em lương dân đối với đạo Chúa và bản thân ngài.
Vì vậy, Giáo hội Việt Nam tiến hành Hồ sơ phong thánh cho Đức cha Lambert với tư cách là một chủ chăn đã để lại những dấu ấn thánh thiện cho dân Chúa, chứ không phải chỉ vì ngài là Đấng Sáng lập Dòng Mến Thánh Giá. Đó là lý do khiến Ban đặc trách Hồ sơ phong thánh cho Đức cha Lambert de La Motte đã phối hợp với Giáo phận Qui Nhơn tổ chức cuộc chuyển giao di cốt của ngài từ Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn về nhà thờ Chính tòa, là nơi có nhiều người thường xuyên đến kính viếng và đọc kinh cầu nguyện. Mong rằng kể từ hôm nay, ngày càng có nhiều người đến kính viếng để cầu nguyện cho ngài sớm được tuyên phong Chân phước, cũng như xin ngài chuyển cầu cùng Chúa cho mình.
Sau khi tham dự nghi thức và được nghe bài chia sẻ của Đức cha Giuse, Giám mục Giáo phận Phan Thiết, Trưởng ban đặc trách Hồ sơ phong thánh, và bài thuyết trình của cha Phêrô Nguyễn Thanh Tùng, Cáo Thỉnh viên, mọi người có thêm hiểu biết về cuộc đời thánh thiện và sự hy sinh phục vụ của Đức cha Lambert đối với Giáo Hội Việt Nam nói chung và đối với Giáo phận Qui Nhơn nói riêng, nhờ đó góp phần làm cho hồ sơ phong thánh của ngài có điều kiện thuận tiện hơn.
Giáo phận Qui Nhơn chúng con xin hết lòng cảm ơn Đức cha Giuse, Quý Cha, Quý Soeurs trong Ban đặc trách Hồ sơ phong thánh cho Đức cha Lambert, cùng với Quý Thầy theo phụ giúp, mặc dù công việc bề bộn, đường sá xa xôi, đã gợi ý tổ chức và trực tiếp tham gia nghi thức cung nghinh di cốt Đức cha Lambert từ Nhà Mẹ Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn về nhà thờ Chính tòa, để mọi thành phần dân Chúa không những trong giáo phận mà còn ngoài giáo phận đến kính viếng.
Về phía nội bộ, chúng tôi cũng xin cảm ơn Chị Tổng Phụ trách và Quý chị em trong Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn, đã có công lưu giữ di cốt của Đức cha từ lâu nay, và hôm nay đã vui lòng chuyển giao lại cho giáo phận. Điều này chẳng những không gây mất mát cho Hội dòng, mà trái lại còn khiến cho nhiều Hội dòng Mến Thánh Giá khác và nhiều giáo dân khắp nơi đến hiệp ý với Hội dòng để kính viếng hài cốt Đức cha Lambert, vừa là vị Giám mục tiên khởi của Giáo hội Đàng Trong nói chung, của Giáo phận Qui Nhơn nói riêng, lại vừa là Đấng Sáng lập Dòng Chị Em Mến Thánh Giá Đàng Trong, mà Hội dòng Mến Thánh Giá Qui Nhơn hiện nay là tổ chức kế thừa trực hệ.
Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn sự hiện diện của Quý Cha, Quý Thầy Phó tế, Quý Bề trên và Nữ tu các Hội dòng, Quý Anh Chị em Mến Thánh Giá Qui Nhơn Tại Thế, Quý chủng sinh và toàn thể anh chị em giáo dân đã về tham dự nghi thức hôm nay. Cũng xin cảm ơn tất cả những người đã bằng cách này cách khác góp phần vào việc tổ chức nghi thức hôm nay.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả.
2022
Thánh lễ Mừng Kỷ niệm 42 năm Linh Mục của Đức Cha Phêrô và 8 năm nhận Giáo phận
GP.MỸ THO: Thánh lễ Mừng Kỷ niệm 42 năm Linh Mục của Đức Cha Phêrô và 8 năm nhận Giáo phận
Trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa nhân dịp mừng Kỷ niệm 42 năm ngày thụ phong Linh mục của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho và 8 năm ngài nhận Giáo phận Mỹ Tho trong cương vị Giám mục Giáo phận, ngày 30.08.2022, đoàn con cái trong Giáo phận Mỹ Tho cùng quy tụ nhau trong ngôi thánh đường nhà thờ Chánh Tòa để tạ ơn Chúa cùng với Đức Cha.
Thánh lễ được cử hành vào lúc 17g45, do Đức Cha chủ sự. Đồng tế với ngài có Cha Tổng Đại diện (TĐD) Phaolô và 17 cha trong Giáo phận. Tham dự thánh lễ có sự hiện diện của quý tu sĩ nam nữ và cộng đoàn giáo dân.
Trước khi bắt đầu thánh lễ, cha TĐD thay mặt cho quý cha và cộng đoàn có chút tâm tình chúc mừng Đức Cha dịp mừng Kỷ niệm 42 năm ngày thụ phong Linh mục và 8 năm nhận sứ vụ Giám mục Giáo phận Mỹ Tho: “Xin Chúa ban cho Đức Cha thật nhiều sức khỏe, sự bình an và tràn đầy Hồng ân của Chúa để Đức Cha luôn chu toàn những sứ vụ mà Chúa ủy thác cho Đức Cha… đồng thời chúng con là những anh em Linh mục, quý cha cố, quý tu sĩ chủng sinh cùng toàn thể anh chị em giáo dân sẽ vâng phục, cộng tác với Đức Cha để làm cho Giáo phận ngày càng phát triển hơn theo tinh thần của Giáo Hội Hiệp hành”. Cùng dâng lên Đức Cha bó hoa thay cho tấm lòng con thảo của đoàn con cái trong Giáo phận.
Đáp từ, Đức Cha cám ơn những tâm tình mà cha TĐD đã đại diện quý cha và cộng đoàn dành cho Đức Cha, ngài cũng chia sẻ, nay cũng là kỷ niệm 8 năm ngài nhận Giáo phận, ngài mời gọi cộng đoàn cùng cầu nguyện cho Linh mục đoàn, cho Giáo phận ngày càng trở thành cộng đoàn như lòng Chúa mong ước.
Trong bài giảng, Đức Cha nói đến hai chi tiết cần để ý trong bài Tin mừng: Thần ô uế ám: những thứ ô uế, tội lỗi đó chính là ma quỷ và Đấng Thánh của Thiên Chúa: những gì thuộc về Chúa thì đều là sạch, không có tội lỗi và không để thần ô uế ám được mình. Qua đó, ngài liên hệ hôm nay Lời Chúa muốn nhắc nhở mỗi người chúng ta phải làm sao để Giáo phận Mỹ Tho thật sự trở thành cộng đoàn thuộc về Chúa? Và bằng cách: Cầu nguyện: chỉ có Chúa Giêsu là Đấng duy nhất có quyền uy trục xuất thần ô uế, chỉ có Chúa Giêsu thật sự làm cho chúng ta nên Thánh; Lắng nghe Lời Chúa: lời của Chúa có uy quyền. Nhìn lại 8 năm qua, Đức Cha mời gọi cộng đoàn cùng tạ ơn Chúa về những ơn lành Chúa đã ban cho Giáo phận chúng ta, mà ơn lớn nhất đó là sự hiệp nhất, bình an trong Giáo phận và mời gọi tiếp tục cộng tác để Giáo phận ngày càng phát triển cả chiều sâu lẫn chiều rộng và chúng ta thật sự trở thành cộng đoàn thuộc về Chúa. Thánh lễ tiếp tục với lời nguyện tín hữu và phần phụng vụ Thánh Thể. Sau lời nguyện Hiệp lễ, Đức Cha cám ơn cha TĐD, quý cha, quý tu sĩ nam nữ, cộng đoàn đã hiệp dâng thánh lễ và cầu nguyện cho ngài.
Thánh lễ kết thúc vào lúc 18g45.
Bài viết: Mary FX. Thúy Nga
Ảnh: Phêrô Thành Hưng
2022
Câu chuyện ly kỳ về việc rửa tội của vua Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của Việt Nam
Câu chuyện ly kỳ về việc rửa tội của vua Bảo Đại, vị hoàng đế cuối cùng của Việt Nam
Vị hoàng đế cuối cùng của Việt Nam là một người Công giáo và hai người vợ của ông là những tác nhân lớn nhất cho cuộc trở lại của ông.
Một năm trước khi qua đời, khi đang sống lưu vong ở Pháp từ năm 1955, Bảo Đại đã xuất bản cuốn sách rất hay về hoàng cung với tên gọi “Huế, la cité interdite” (“Huế, Tử Cấm Thành”), nơi ông đã trị vì trong 20 năm.
Thật khó để tưởng tượng ông đã từng bị giam hãm bên trong những bức tường của cung điện cổ kính này vì những bộ quần áo thời trang đã mang lại cho ông vẻ bề ngoài hoàn toàn thuộc về một doanh nhân Tây phương. Sở thích săn bắn, chơi gôn và xe thể thao dường như đã khiến ông vĩnh viễn xa rời truyền thống và tôn giáo của cha ông mình. Nhưng số phận của vị hoàng đế cuối cùng của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam này còn đáng kinh ngạc hơn, bởi cả tính cách trái ngược lẫn câu chuyện trở lại đạo Công giáo của ông, những điều được đan xenvới lịch sử thuộc địa của Pháp.
Vị hậu duệ thứ 13 của triều Nguyễn này quả thực là một nhân vật phức tạp. Như Frédéric de Natal, một chuyên gia về hoàng tộc, giải thích với Aleteia rằng: “Trong suốt cuộc đời của mình, Bảo Đại vừa là một người có học thức (bon vivant) vừa là một người có lòng đạo.”
Hoàng đế Bảo Đại, hoàng cung Huế, những năm 1930. Ảnh: Public Domain
Hoàng tử Vĩnh Thụy, vốn là con trai của vua Khải Định, sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913 và lớn lên trong hoàng cung ở Huế. Trong khi Đông Dương sống dưới chế độ bảo hộ của Pháp, thì ông lên ngôi năm 1926 ở tuổi 12. Ông đã lấy niên hiệu là Bảo Đại (“người bảo vệ sự vĩ đại”). Nhưng sau khi bị quản thúc cho đến năm tuổi 19, cậu thiếu niên trẻ tuổi ngay lập tức rời đến Paris để du học: cậu theo học tại Cours Hattemer, Lycée Condorcet, Lycée Lakanal, và sau đó là École libre des sciences politiques (Học viện nghiên cứu chính trị).
Vị hoàng đế trẻ tuổi thích nghi khá tốt với cuộc sống ở Pháp. Sau khi làm hướng đạo sinh, cậu đã chơi gôn và quần vợt. Cậu còn yêu thích những chiếc xe hơi thể thao. Là một công tử thực thụ, cậu đã phân chia thời gian của mình giữa dinh thự riêng ở quận 16 thuộc Paris (một khu phố đầy công viên, bảo tàng, tượng đài và tư gia của những người giàu có) và ở Deauville, một khu nghỉ mát bên bờ biển danh tiếng ở Tây Bắc nước Pháp.
Bảo Đại rất thích lối sống Tây phương nên không vội vàng trở về Việt Nam. Frédéric de Natal nói thêm: “Cậu ấy không muốn từ bỏ lối sống của mình, và cậu ấy biết rằng khi trở về, cậu sẽ phải sống giam mình trong cung điện. Tuy nhiên, vào năm 1932, các nhà chức trách Pháp đã thành công trong việc thuyết phục cậu rằng cậu có thể sống cuộc đời tương tự như thế ở đất nước của mình. Hơn nữa, ngay khi trở về, cậu ấy đã nhanh chóng bắt tay vào thực hiện nhiều cải cách. Đặc biệt, cậu ấy muốn thiết lập một chế độ quân chủ lập hiến.”
Yêu từ cái nhìn đầu tiên ở Đà Lạt
Năm 1933, khi đang đi nghỉ mát tại một khu nghỉ dưỡng sang trọng ở miền Trung Việt Nam, Bảo Đại đã gặp Jeanne-Marie-Thérèse. Hai con người trẻ tuổi ngay lập tức rất hợp ý nhau: Họ đã cùng tiếp thu một nền giáo dục của Châu Âu. Thật vậy, cô gái trẻ này, vốn xuất thân từ một gia đình địa chủ giàu có, một trong những gia đình Công giáo lâu đời nhất nước, vừa học xong ở Pháp, nơi cô đã được gửi đi du học vào năm 12 tuổi, giống như Bảo Đại. Đầu tiên, cô đã theo học tại trường nội trú Notre-Dame, và sau đó tại nhà kín Les Oiseaux ở Neuilly.
Nam Phương hoàng hậu tương lai, Đà Lạt, những năm 1930. Ảnh Public Domain
Vì chân thành yêu nhau, nên sau một vài tháng, vị vua trẻ tuyên bố đính hôn với một phụ nữ Công giáo Việt Nam. Thật đáng mừng, cha mẹ của cô gái trẻ, những người Công giáo nhiệt thành đã dành thời gian xây dựng nhà thờ và các công trình tôn giáo trong nước, đã tận mắt chứng kiến sự thành hình cuộc hôn nhân của con gái mình với vị hoàng đế.
Tin tức gây chấn động này được triều đình đón nhận rất dữ dội. Đối với triều đình, đó là một thảm họa thực sự ở một đất nước chủ yếu theo Phật giáo, nơi những người theo Kitô giáo, vốn là một dân tộc rất nhỏ, đã bị bắt bớ từ rất lâu, thậm chí là từ cả người cha và ông nội của Bảo Đại.
Kết hôn với một phụ nữ Công giáo
Một vụ bê bối đã nổ ra trong bối cảnh có một tin đồn được phát tán trước đó từ một tờ báo cộng hòa khi cho rằng vị hoàng đế này đã được rửa tội.
Frederic de Natal nói rằng: “Không có bằng chứng nào cả; điều này hoàn toàn sai sự thật. Nhưng tin đồn đã lan rộng. Tại sao? Bởi vì Bảo Đại thực sự quan tâm đến đạo Công giáo.”
Vì sự náo động của dư luận do tin đồn gây ra, chính phủ Pháp cuối cùng đã nhận thức được vấn đề này và kiểm duyệt tất cả các bài báo đăng tin sai sự thật về việc rửa tội của Bảo Đại.
Cặp đôi hoàng gia, Huế, những năm 1930
Về phía Tòa Thánh, ngay từ đầu Đức Giáo Hoàng Piô XI đã từ chối ban miễn trừ theo giáo luậtcần thiết cho hôn nhân khác đạo, mặc dù vị hoàng đế này đã đưa ra thỉnh cầu. Đức Giáo Hoàng yêu cầu con cái trong tương lai phải được nuôi dạy trong đạo Công giáo. Frédéric de Natal giải thích thêm: “Điều này thực tế là không thể; triều đình sẽ phản đối. Nhưng Bảo Đại đã ký một nghị định thư bí mật, theo đó, ông sẽ bí mật nuôi dạy các con của mình theo đức tin Công giáo.”
Chính trong bối cảnh đó, lễ cưới kéo dài bốn ngày, với một phần nghi lễ nghiêm cấm công khai, đã diễn ra tại hoàng cung ở Huế, từ ngày 20 tháng 3 đến ngày 24 tháng 3 năm 1934. Vì được phú bẩm cho một cá tính mạnh mẽ, nên cô dâu đã yêu cầu được phong tước hiệu “Nam Phương” hoàng hậu.
Những lớp giáo lý trong bí mật
Hoàng hậu đã nuôi dạy các con của mình theo đạo Công giáo bên cạnh nền giáo dục Phật giáo. Cô đã bí mật rửa tội cho chúng. Và khi cô cho chúng học các lớp giáo lý, chồng cô cũng không ở đâu xa, và ông đã nghe lời cô.
“Nam Phương đã làm thấm nhuần nền giáo dục về đạo cho ông, đặc biệt là bằng cách đọc Kinh Thánh cho con trai trước mặt ông. Bầu không khí khác xa với các nghi thức hoàng tộc mà người ta có thể tưởng tượng được! Bảo Đại gìn giữ mọi thứ bên trong mình, giống như một kho báu bí mật mà cuối cùng sẽ nở rộ vào ngày ông xin được rửa tội,” vị chuyên gia về hoàng tộc cho biết.
Là một phụ nữ đầy tinh thần trách nhiệm, Nam Phương đã cùng với các nữ tu của Dòng Đức Bà ở Đà Lạt tận tụy mở mang một nhà kín Les Oiseaux, nơi mà cô đã cho các con gái của mình theo học. Nam Phương cũng có một dự án lớn mà cô muốn giao phó cho chồng: đó là đưa Việt Nam trở thành quốc gia Công giáo đầu tiên ở Châu Á. Mặc dù không bao giờ xuất hiện trước công chúng cùng với giới chức Công giáo, nhưng ông đã bí mật nghiên cứu Kinh Thánh.
Cuộc lưu vong của vị hoàng đế sa cơ
Năm 1945, Nhật Bản tuyên bố độc lập cho Việt Nam với Bảo Đại làm hoàng đế. Nhưng ông đã thoái vị ngay sau đó khi nền cộng hòa ra đời. Sau đó, ông bị giáng xuống cấp bậc “cố vấn tối cao” và sống lưu vong ở Hồng Kông. Ông được người Pháp phục chức vào năm 1949, với chức danh nguyên thủ quốc gia nhưng không còn là hoàng đế, và cuối cùng bị lật đổ vào tháng 10 năm 1955 bởi thủ tướng Ngô Đình Diệm. Từ đó, Bảo Đại, vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam, đã rời bỏ chính trường.
Vị cựu vương này đã lưu vong cùng vợ và năm người con của họ ở Pháp, năm 42 tuổi, để sống một cuộc đời hưu trí rất dài và kín đáo ở Cannes, và sau đó là ở Paris.
Ông vốn có một ít tiền và một nhóm nhỏ các quần thần cũng sống lưu vong xung quanh ông. Bà Nam Phương, đau khổ vì sự không chung thủy của chồng, đã rời bỏ ông bất chấp việc đó là sai trái và đến cư trú tại nơi thuộc quyền sở hữu của bà ở Corrèze, nơi bà qua đời ở tuổi 52. Về phần Bảo Đại, ông đã lại tìm thấy ở Pháp lối sống của thời trai trẻ, tiếp tục săn bắn, chơi gôn và xe hơi thể thao. Ông đã tiếp tục làm nẩy nở nhiều cuộc phiêu lưu tình ái của mình… cho đến khi gặp Monique Baudot, một phụ nữ 23 tuổi đến từ Lorraine, vào năm 1969.
Hoàng phi Monique trong lễ tang của Bảo Đại. Ảnh: AFP
Hoàng phi Monique và Saint-Louis des Invalides
Chính tại đại sứ quán Zairean, ánh mắt họ đã bắt gặp nhau. Khi đó, Monique Baudot phụ trách văn phòng báo chí của đại sứ quán. Bà kết hôn với vị hoàng đế này vào năm 1972. Được gọi là hoàng phi Monique, bà là một phụ nữ có lòng đạo đức với tính cách kín đáo, thường xuyên đi lễ tại nhà thờ Saint-Louis des Invalides ở Paris. Cuối cùng, bà đã thuyết phục được chồng mình gia nhập vào cộng đoàn Kitô giáo. Năm 1988, ông được rửa tội và lấy tên thánh là Jean-Robert.
Mặc dù buổi lễ diễn ra trong sự bí mật hết sức có thể, nhưng một số người thân cận với cả gia đình và Đức Hồng y Lustiger, Tổng Giám mục Paris vào thời điểm đó, xác nhận về sự chuẩn bị lâu dài của Bảo Đại cho việc rửa tội, đây có thể được coi là một con đường rất đặc biệt hướng tới đức tin Kitô giáo được đánh dấu bởi chứng từ sống động từ hai người vợ: vợ trước là Nam Phương hoàng hậu, và vợ sau là hoàng phi Monique.
Thánh lễ An táng Bảo Đại tại Nhà thờ Saint-Pierre de Chaillot, ngày 6 tháng 8 năm 1997 ở Paris. Ảnh: AFP
Vị chuyên gia về hoàng tộc đã đưa ra kết luận sau: “Sau khi được rửa tội, Bảo Đại đã toàn tâm toàn lực gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Ông đã trở thành một Kitô hữu sốt sắng. Sau khi trở thành một vị hoàng đế sa cơ thất thế và một người đàn ông cô đơn, ông ấy đã tìm thấy ơn cứu chuộc dưới ánh nhìn của Đức Kitô. Ông ấy đã chết theo cách như thế, mặc dù ông ấy vẫn còn cách xa với việc trở thành một vị thánh.”
Tác giả: Marzena Devoud
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên