2020
Tiếp Kiến Chung 10-06-2020: Cách cầu nguyện của tổ phụ Gia-cóp khi ông “vật lộn” với Thiên Chúa
Tiếp Kiến Chung 10-06-2020: Cách cầu nguyện của tổ phụ Gia-cóp khi ông “vật lộn” với Thiên Chúa
Trong bài giáo lý tại buổi tiếp kiến chung được truyền chiếu trực tiếp tại Thư viện Dinh Tông Tòa vào sáng thứ Tư 10/06/2020, khi suy tư về cầu nguyện, Đức Thánh Cha đã giải thích về cách cầu nguyện của tổ phụ Gia-cóp khi ông “vật lộn” với Thiên Chúa cả đêm và sau đó đã thay đổi: từ con người tinh ranh, tự tin, không biết đến ân sủng và lòng thương xót, ông đã khám phá ra sự mỏng dòn yếu đuối của mình và khám phá mình được bao bọc bởi lòng thương xót của Chúa.
Cầu nguyện không luôn dễ dàng, thường đòi chúng ta chiến đấu với Chúa và nhận ra sự yếu đuối và mỏng dòn của mình trước Chúa và ý muốn của Người. Nhưng chính trong cuộc chiến này và trong thương tích của chúng ta mà chúng ta cảm thấy sức mạnh chữa lành của ân sủng và tăng trưởng trong đức tin. Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu cầu nguyện xin ơn luôn mở lòng mình ra với cuộc gặp gỡ với Chúa, với sự hoán cải của tâm hồn và với nhiều phúc lành mà Chúa muốn ban cho chúng ta.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Gia-cóp: người biết sử dụng sự tinh ranh để thành công
Sách Sáng thế, thông qua những sự kiện trong cuộc đời của những người sống vào các thời đại xa xôi, kể cho chúng ta những câu chuyện mà trong đó chúng ta có thể thấy phản chiếu cuộc sống của chúng ta. Trong loạt truyện về các tổ phụ, chúng ta cũng thấy chuyện một người đã biến sự tinh ranh thành năng khiếu nổi nhất của mình: đó là ông Gia-cóp. Câu chuyện Kinh Thánh cho chúng ta biết về mối quan hệ khó khăn giữa Gia-cóp với anh trai Esau. Ngay từ khi còn nhỏ, giữa họ đã có sự cạnh tranh và sự cạnh tranh này sẽ không bao giờ được khắc phục. Gia-cóp là em của người anh song sinh nhưng bằng sự lừa dối, ông đã cướp đi phước lành và món quà của cha mình là Isaac dành cho người con trưởng (x. St 25,19-34). Đó chỉ là lần đầu tiên trong một loạt nhiều thủ đoạn mà người thủ đoạn này có khả năng làm. Ngay cả tên gọi “Gia-cóp” có nghĩa là tính cách của người biết hành động không thẳng thắn, nghĩa là gian xảo khi hành động.
Thành công nhờ sự tinh ranh khéo léo
Buộc phải chạy trốn anh trai của mình, trong cuộc đời, ông dường như thành công trong mọi nỗ lực. Ông có kỹ năng kinh doanh: ông trở nên rất giàu có, trở thành chủ sở hữu của một đàn gia súc thật lớn. Với sự kiên trì và kiên nhẫn, ông có thể kết hôn với cô con gái xinh đẹp nhất của Laban, người ông thực sự yêu. Gia-cóp – chúng ta sẽ nói với ngôn ngữ hiện đại – là một người “tự mình xoay sở”, anh ta có thể chinh phục mọi thứ anh ta muốn bằng tài khéo và sự tinh ranh. Nhưng ông thiếu mối quan hệ sống động với nguồn cội của mình.
Cuộc vật lộn với Thiên Chúa
Một ngày nọ, ông nghe thấy tiếng gọi của quê nhà, của quê hương xa xưa của mình, nơi người anh Esau có lẽ vẫn sống, người anh trai mà ông luôn có mối quan hệ rất tồi tệ. Gia-cóp lên đường và trải qua một hành trình dài với một đoàn người và thú vật đông đảo, cho đến khi ông đến điểm dừng chân cuối cùng, tại suối Jabbok. Ở đây, sách Sáng Thế cung cấp cho chúng ta một trang đáng nhớ (x. 32,23-33). Sách nói rằng vị tổ phụ, sau khi đã đưa tất cả người dân và gia súc của mình băng qua suối, một mình ở lại trên bờ đất dân ngoại. Và ông nghĩ: điều gì chờ đợi ông vào ngày hôm sau? Anh trai Esau đã bị ông cướp quyền trưởng nam sẽ có thái độ nào? Tâm trí của Gia-cóp là một cơn lốc của những suy nghĩ … Và, khi trời tối, đột nhiên một người lạ tóm lấy ông và bắt đầu chiến đấu với ông. Sách Giáo lý giải thích: “Truyền thống tu đức của Giáo hội đã thấy trong câu chuyện này biểu tượng của việc cầu nguyện như một cuộc chiến của đức tin và chiến thắng của sự kiên trì” (GLHTCG, 2573).
Cuộc chiến diện đối diện với Chúa
Ông Gia-cóp đã chiến đấu suốt đêm, không lúc nào buông tay đối thủ. Cuối cùng, ông đã chiến thắng, bị đối thủ của mình tấn công vào dây thần kinh tọa, và kể từ đó ông bị khập khiễng suốt đời. Vị đô vật bí ẩn đó hỏi tên vị tổ phụ và nói với ông: “Ông sẽ không còn được gọi là Gia-cóp, mà là Israel. Ông không còn là người hành động như trước nhưng thẳng thắn. Ông được đổi tên, thay đổi cuộc đời, thay đổi cách sống. Ông sẽ được gọi là Israel bởi vì ông đã chiến đấu với Chúa và với con người và ông đã chiến thắng!” (c. 29). Rồi Gia-cóp cũng hỏi người kia: “Hãy cho tôi biết tên của ngài.” Người đó không tiết lộ cho ông biết tên, nhưng thay vào đó đã chúc lành cho ông và ông Gia-cóp nhận ra rằng ông đã gặp Thiên Chúa “diện đối diện” (x. cc. 30-31).
Sau cuộc vật lộn, ông Gia-cóp được biến đổi
Vật lộn với Chúa là một ẩn dụ của việc cầu nguyện. Những lần khác, Gia-cóp đã cho thấy mình có khả năng đối thoại với Chúa, cảm thấy Chúa hiện diện thân thiện và gần gũi. Nhưng vào đêm đó, qua một cuộc chiến đấu kéo dài và thấy mình gần như không chịu nổi, vị tổ phụ đã thay đổi. Đổi tên, đổi cách sống và đổi nhân cách. Ông được biến đổi. Lần đó ông không còn làm chủ được tình hình – sự tinh ranh của ông không hữu dụng, ông không còn là chiến lược gia và người biết tính toán nữa, Chúa đưa ông trở lại với sự thật về con người phàm nhân, run rẩy và sợ hãi. Lần đầu tiên, Gia-cóp không có gì khác để trình bày với Thiên Chúa hơn là sự yếu đuối và bất lực của mình. Và chính ông Gia-cóp này đã nhận được phước lành từ Thiên Chúa, và với chúc lành này ông khập khiễng đi vào miền đất hứa: dễ bị tổn thương và bị tổn thương, nhưng với một trái tim mới. Có lần kia tôi nghe nói về một ông lão – một người tốt, một Kitô hữu tốt, nhưng là người tội lỗi! – rất tin tưởng vào Thiên Chúa. Và ông nói: “Thiên Chúa sẽ giúp tôi; Chúa không để tôi đơn độc. Tôi sẽ vào Thiên đàng, khập khiễng, nhưng tôi sẽ vào.” Trước đây, ông tự tin, dựa vào sự khôn lanh sắc sảo của mình; ân sủng không thấm nhập được vào con người ông; ông không cảm nhận lòng thương xót; không biết thế nào là lòng thương xót. Ông nghĩ: “Tôi ở đây. Tôi ra lệnh” không cần lòng thương xót. Nhưng Thiên Chúa đã cứu những gì đã mất. Người giúp ông hiểu rằng ông còn giới hạn, ông là người tội lỗi cần lòng thương xót và Người cứu độ ông.
Cuộc hẹn trong đêm tối cuộc đời với Chúa
Tất cả chúng ta đều có một cuộc hẹn trong đêm với Chúa, trong đêm tối của cuộc đời chúng ta, trong nhiều đêm của cuộc đời chúng ta: những khoảnh khắc đen tối, những khoảnh khắc tội lỗi, những khoảnh khắc mất phương hướng… Ở đó, luôn luôn có một cuộc hẹn với Chúa. Chúa sẽ làm chúng ta ngạc nhiên vào lúc chúng ta không mong đợi Người, khi chúng ta thấy mình thực sự cô đơn. Cũng trong đêm đó, khi chiến đấu với người lạ, chúng ta sẽ nhận ra rằng chúng ta chỉ là những người nghèo hèn, nhưng ngay lúc đó, khi cảm thấy mình nghèo hèn, chúng ta sẽ không phải sợ hãi: bởi vì lúc đó, Chúa sẽ đặt cho chúng ta một cái tên mới, chứa đựng ý nghĩa của cả cuộc đời chúng ta, nó sẽ thay đổi trái tim của chúng ta và ban cho chúng ta phước lành dành cho những người để mình được Chúa biến đổi. Đây là một lời mời tốt đẹp hãy để chúng ta được Chúa biến đổi. Chúa biết làm điều đó thế nào, bởi vì Người biết mỗi người trong chúng ta. Mỗi chúng ta đều có thể nói: “Lạy Chúa, Chúa biết con. Lạy Chúa, Chúa biết con. Xin hãy biến đổi con”. Hồng Thủy
2020
ĐHY Comastri: kinh Mân Côi giữa đại dịch đã thay đổi tâm hồn nhiều người
ĐHY Comastri: kinh Mân Côi giữa đại dịch đã thay đổi tâm hồn nhiều người
Ít nhất 1,5 triệu rưỡi người đã tham dự các giờ kinh Mân Côi do Đức Hồng y Angelo Comastri chủ sự tại đền thờ thánh Phêrô vào ban trưa mỗi ngày từ ngày 11/03-30/05, và hàng ngàn lá thư vẫn tiếp tục gửi đến ngài để chia sẻ những tâm tình.
Các chứng từ khám phá đức tin và tìm lại đức tin
Các chứng từ khám phá đức tin và tìm lại đức tin đến từ khắp nước Ý, kể về một hiện tượng phi thường xoay quanh ước muốn cầu nguyện, thậm chí bởi những người ở xa thế giới của Giáo hội: những người bạn gặp gỡ nhau đúng giờ để cùng nhau tham dự buổi đọc kinh; một người vô thần, sau khi bật khóc, đã quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện lần đầu tiên trong đời; một chàng trai trẻ yêu cầu tiếp tục việc lần hạt Mân Côi và nói rằng anh ta đã nhiều lần xúc động trong những khoảnh khắc đó; một bà cụ trong một nhà dưỡng lão, thường hay lầm lì, đã tìm lại niềm vui nói chuyện chia sẻ.
Nhận xét về những điều này, Đức Hồng y Comastri nói: “Điều này xác nhận thêm rằng các vấn đề chỉ được giải quyết khi bạn mở lòng với Đấng Toàn năng. Không có Thiên Chúa thì cuộc sống thật phi lý.”
Cầu nguyện là điều đẹp nhất chúng ta có thể làm trong cuộc sống này
Sáng kiến đã đánh động trái tim nhiều người, mặc dù chỉ dựa trên cầu nguyện. Đức Hồng y giải thích: “Cầu nguyện là điều đẹp nhất mà chúng ta có thể làm trong cuộc sống này, bởi vì nó đưa chúng ta vào hiệp thông với Chúa.” Đây chính là ý tưởng khi Đức Hồng y đưa ra sáng kiến đọc kinh Mân Côi trong những ngày đen tối của đại dịch.
Ký ức về người mẹ luôn đồng hành với con của mình
Trong giờ đọc kinh ngày 08/05, để nói về tình mẹ, Đức Hồng y kể về mẹ của ngài: “Mẹ tôi luôn đồng hành với tôi cho đến khi tôi được bổ nhiệm làm tổng giám mục Loreto. Bà không bao giờ đi ngủ trước khi tôi trở về nhà. Bà đóng cửa và nói với tôi: ‘Ngủ ngon nhé con của mẹ, xin Chúa chúc lành cho con!’. Đây là người mẹ. Và khi thiếu người mẹ, cuộc sống của người con trở nên non nớt, khó khăn và thậm chí là buồn.” (CSR_4405_2020) Hồng Thủy
2020
Bác sĩ Công Giáo đến ở cùng những người vô gia cư để bảo vệ họ khỏi đại dịch.
Bác sĩ Công Giáo đến ở cùng những người vô gia cư để bảo vệ họ khỏi đại dịch.
Ðược truyền cảm hứng từ gương Mẹ Têrêsa, bác sĩ Thomas Huggett và đội của ông đã và đang nỗ lực chăm sóc nhóm dân cư có nguy cơ nhiễm virus cao trong bối cảnh dịch bệnh covid-19 lan tràn …
Khi đại dịch COVID-19 bắt đầu hoành hành, những người có nguy cơ nhiễm bệnh nhất là những người vô gia cư. Bác sĩ Thomas Huggett, vốn là một chuyên viên dược ở Chicago, Mỹ, đã dành nhiều năm trong công tác chăm sóc nhóm dân cư nói trên. Khi virus lan đến Chicago, ông cùng đồng nghiệp tại trung tâm chăm sóc sức khỏe công giáo Lawndale biết rằng họ cần phải hành động để bảo vệ những con người có cơ hội sống sót tưởng chừng như rất mong manh.
Giải pháp của họ chỉ đơn giản là thuê hàng trăm căn phòng từ 2 khách sạn tại trung tâm thành phố và biến chúng hành một cơ sở cách ly tạm thời dành cho những người vô gia cư, với sự tương trợ của chính quyền thành phố Chicago.
“Tôi đã làm việc hàng thập kỷ với những người lang thang cơ nhỡ, và trong thời gian khó khăn này, chúng tôi rất muốn bảo vệ họ khỏi đại dịch nhưng lại không có cơ sở vật chất để che chở những người vô gia cư ” Bác sĩ nói trong một cuộc phỏng vấn với Aleteia. Ông giải thích một vài lý do đằng sau quyết định này:
Hiện tại, để giữ an toàn cộng đồng, người ta tiến hành cách ly xã hội tại nhà. Tuy nhiên, những người này không có lấy một mái nhà để trú thân. Nhiều người chọn ẩn náu ở những nơi rất rộng lớn, được xem là những cơ sở sống tập trung, với 200 đến 300 người chen chúc trong 1 căn phòng. Ðây là một tình huống hết sức nguy hiểm do virus rất dễ lan truyền nơi đông người. Tình trạng này cũng xảy ra ở những nhà hưu dưỡng với nhiều người cùng tập trung lại một nơi.
Chúng tôi rất quan ngại việc virus có thể phát tán nhanh trong môi trường đông người nói trên, trên hết là mạng sống của những con người này đang bị đe dọa. Họ là những người ngoài 55 hoặc ngoài 60, họ có thể đang bị tiểu đường hoặc gặp những vấn đề về tim mạch, hoặc có những mối lo về sức khỏe khác. Ðiều đó có nghĩa là họ có nguy cơ tử vong cao, vì vậy, chúng tôi cảm thấy có trách nhiệm bảo vệ và gìn giữ những con người không nơi cư trú này.
Huggett là bác sĩ lãnh đạo chương trình và đã quyết định chuyển vào ở trong những khách sạn được thuê cho người vô gia cư, để chăm sóc sức khỏe cả ngày lẫn đêm cho họ. ”Tôi ở đây hầu hết các đêm trong tuần ” Ông cho biết. ”nhưng tôi có về nhà 1 lần mỗi tuần để giặt giũ, lấy thư và chăm sóc những khóm hồng của tôi ”
Những nghĩa cử cao đẹp của bác sĩ Hugget đối với những người vô gia cư thực sư phi thường, nhưng đối với ông thì đây không phải chuyện gì khác hơn việc tiếp tục một thập kỷ khác làm việc ăn ý cùng đội ngũ. Bác sĩ Huggett là một phần của trung tâm đã thực thi công việc của Thiên Chúa ngay tại khu vực tây và nam của Chicago kể từ những năm 1980. Trên trang web của tổ chức, người ta có thể đọc thấy:
Nhiệm vụ của trung tâm chăm sóc sức khỏe công giáo Lawndale là biểu lộ và lan tỏa tình thương của Chúa Giêsu qua việc gìn giữ sức khỏe, cung cấp dịch vụ chất lượng, vừa túi tiền cho khu vực Lawndale và những vùng phụ cận.
Trung tâm chăm sóc sức khỏe công giáo Lawndale cung cấp những dịch vụ chăm sóc sức khỏe về tâm bệnh, thể xác và cả về đời sống tâm linh của bệnh nhân. Công việc của họ thực sự cần thiết và chẳng có gì phải thắc mắc khi chính quyền thành phố Chicago đã nhờ sự cộng tác của trung tâm trong việc chăm sóc những người không có nơi cư trú trong bối cảnh khủng hoảng sức khỏe toàn cầu hiện nay.
Huggett không phải là người duy nhất chăm sóc sức khỏe tại những khách sạn được cải tạo, những đồng nghiệp của ông cũng thay phiên nhau ở lại khách sạn qua đêm. Bác sĩ Huggett cho biết: ”Tôi giúp đỡ họ liên tục nhờ vào những cộng sự. Những nhân viên điều hành và những cộng sự khác của tôi cũng ở lại đây qua đêm.. thường ngày chúng tôi có khoảng 35 người làm việc tại khách sạn chỉ để phân phát đồ ăn và đưa người ta lên xuống thang máy, kèm theo 10 nhân viên y tế thăm hỏi mọi khách trọ trong phòng của họ mỗi ngày ”
Ở khách sạn, mỗi một người có một phòng riêng với nhà tắm và vòi sen, thức ăn mỗi ngày 3 bữa được giao tận phòng, mỗi ngày đều được chăm sóc y tế.
Những khách sạn được cải tạo đã trở thành nơi cư ngụ của hơn 240 người. Vào ngày tôi trò chuyện cùng bác sĩ Huggett thì số lượng khách trọ là 163 người, bác sĩ cho biết: “chúng tôi đang làm việc với 20 cơ sở cư trú khác xuyết suốt Chicago, và chúng tôi thường xuyên khảo sát để nhận những người đang có nguy cơ nhiễm dịch cao và sắp xếp cho họ chuyển đến những khách sạn ”
Tất cả mọi việc đều phù hợp với tinh thần và nhiệm vụ của trung tâm chăm sóc sức khỏe công giáo Lawndale: chăm sóc người nghèo với tình yêu của Chúa Kitô. Với bác sĩ Hugget, Ðức tin của ông đã truyền cảm hứng và sức mạnh cho ông để thực hiện nhiệm vụ ấy.
“Chúng tôi được truyền cảm hứng từ những người như Mẹ Têrêsa và những người đã mở rộng vòng tay với những người nghèo khổ khốn cùng. Chúng tôi noi gương các vị thánh. ” Ông chia sẻ.
Khi bác sĩ Hugget lo lắng hồi hộp, ông luôn tìm được sự cổ vũ tinh thần trong những câu chuyện về cha Walter Ciszek, một linh mục dành hàng thập kỷ trong nhà giam và trại lao động cải tạo đầy khó nhọc ở Liên Xô cũ từ năm 1939 đến 1963, và về hạnh của các thánh khác.
”Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, ta không thể là Mẹ Têrêsa hay cha Walter Ciszek, nhưng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa, và xin vâng theo ý người ”. Bác sĩ nói.
Với Huggett, tiếng gọi ấy là hy sinh quên mình để phục vụ cho ”những người bé mọn nhất trong chúng ta ” (Mt 25:40). Song song với việc cải tạo lại những khách sạn để ứng phó với dịch bệnh, ông cùng những đồng nghiệp vẫn ngày đêm miệt mài làm việc để cải thiện đời sống những bệnh nhân của họ một các tích cực và lâu dài:
Chúng tôi không chỉ cố gắng bảo vệ họ khỏi virus corona, hay cứu chữa họ, mà còn giúp đỡ họ có nơi lưu trú lâu dài. Chúng tôi không muốn mai này họ phải rời khách sạn mà trở về những nhà cơ nhỡ. Họ sẽ được an toàn hơn nếu ở trong căn hộ của chính họ, đặc biệt là vào mùa thu, khi virus trở lại như nhiều người đã dự đoán. Vài người trong số những người khách trọ sẽ phải sống một mình, vì vậy họ rất cần một cơ sở lưu trú tại chỗ và hiệu quả, và lúc này chính là lúc chúng tôi sẽ biến điều đó thành hiện thực.
Trên tất cả mọi sự, bác sĩ Huggett mong mỏi những kinh nghiệm sống và làm việc của mình với những người lang thang cơ nhỡ có thể đem ánh sáng vào nơi tăm tối nhất của tình hình hiện tại.
”Có rất nhiều hiểu lầm xoay quanh những người không có nơi cư trú ”, ông nói. Ðã có những người đến hỏi tôi rằng liệu khách sạn có thể bị hư hại vì những người vô gia cư không biết giữ gìn? Câu trả lời là hoàn toàn không. Họ không chỉ giữ cho phòng ốc luôn ngăn nắp gọn gàng mà còn hỏi xin tôi những vật dụng để lau dọn nhà cửa. ”
Bác sĩ chia sẻ với chúng tôi rằng Ngày Của Mẹ là một ngày thực sự khó khăn cho những vị khách trọ, họ nhớ gia đình, bạn bè và những người thân yêu. Như bất kì ai, những bệnh nhân của ông đều muốn được khỏe mạnh, sống trong một nơi an toàn và có những mối tương quan tích cực với những người họ quan tâm.
”Những người bị mất nhà cửa cũng như bao người khác, họ cũng cố gắng sống lương thiện, họ cũng là hình ảnh của chính Chúa như chúng ta mà thôi ” Bác sĩ nói. ”Nếu người ta đến khách sạn, ngồi xuống, nói chuyện, lắng nghe họ, chắc chắn người ta sẽ hiểu vì sao một ai đó đang sống yên ổn bỗng dưng trở thành vô gia cư ”
Bác sĩ và đội của ông vẫn đang ra sức bảo vệ những người mỏng dòn yếu đuối nhất trong chúng ta, cho họ một mái nhà giữa tâm bão của cuộc khủng hoảng toàn cầu. Hy vọng rằng nỗ lực phi thường của bác sĩ cùng những đồng nghiệp sẽ là bàn đạp nâng đỡ họ không những trong đại dịch mà còn trong quãng đời còn lại.
Bác sĩ Huggett tâm tình: ”Vẫn còn đó sự kì thị người vô gia cư, nhưng họ cũng là con người như chúng ta, họ xứng đáng được tôn trọng, được có tiếng nói trong cộng đồng, và một nơi để tựa đầu, một nơi để dừng chân ”. Minh Thảo dịch từ Aleteia
2020
Phỏng vấn ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Hiệp nhất các Kitô hữu
Năm nay, Hội đồng Tòa Thánh về Hiệp nhất các Kitô hữu kỷ niệm 60 năm thành lập và 25 năm Thông điệp “Ut unum sint – Xin cho họ nên một” được ban hành. Nhân dịp này, Vatican News có cuộc phỏng vấn với ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Hiệp nhất các Kitô hữu.
Thưa Đức Hồng y, bối cảnh đại kết cách đây 60 năm khác nhiều so với hiện nay. Vậy tình hình đại kết và những thánh đố nào cho đại kết ngày hôm nay?
Vào năm 1960, trong Giáo hội Công giáo, phong trào đại kết chính thức được hình thành, nhưng vẫn còn ở giai đoạn sơ khai. Trong 60 năm qua, nhiều cuộc gặp gỡ và đối thoại đã diễn ra, đem lại nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, mục tiêu thực sự của phong trào đại kết, cụ thể là khôi phục sự hiệp nhất của Giáo hội, vẫn chưa đạt được. Hiện tại, một trong những thách đố lớn nhất nằm ở chỗ thiếu sự đồng thuận thực sự vững chắc về mục tiêu của đại kết. Chúng ta đều cho rằng cần phải hiệp nhất, nhưng chúng ta chưa có hình thức cụ thể nào. Cần phải có một cái nhìn chung, điều thiết yếu cho sự hiệp nhất của Giáo hội.
Con đường đại kết thường được định nghĩa là “trao đổi hồng ân”. 60 năm qua, Giáo hội Công giáo đã được thay đổi như thế nào trong sự dấn thân này? Giáo hội đã trao cho các Kitô hữu khác những hồng ân nào?
Đằng sau định nghĩa này là sự tin chắc rằng mỗi Giáo hội có thể đóng góp cụ thể cho việc khôi phục hiệp nhất. Từ các Giáo hội sinh ra trong thời Cải cách, trên tất cả, Giáo hội Công giáo đã học được tính trung tâm của Lời Chúa trong đời sống Giáo hội, trong các cử hành phụng vụ và tư tưởng thần học. Chúng ta ý thức rằng đức tin đến từ việc lắng nghe Lời Chúa và Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô phải là trung tâm của Giáo hội. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần nhấn mạnh, từ các Giáo hội Chính thống, chúng ta có thể học được rất nhiều về công nghị tính (sinodalità) trong đời sống của Giáo hội và đoàn thể tính (collegialità) của các Giám mục. Về phần mình, Giáo hội Công giáo có thể cung cấp tính phổ quát của Giáo hội như một hồng ân đặc biệt cho cuộc thảo luận đại kết. Vì Giáo hội Công giáo sống trong mối tương quan giữa sự hiệp nhất của Giáo hội hoàn vũ và tính đa dạng của các Giáo hội địa phương, vì thế Giáo hội có thể chỉ ra rằng ngay cả trong đại kết, sự hiệp nhất và khác biệt không đối lập, nhưng hỗ trợ lẫn nhau.
Đại kết hướng đến sự hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả các Kitô hữu. Vậy những điều cụ thể nào đã được thực hiện?
Mọi nỗ lực và hoạt động đại kết phải phục vụ cho mục đích khôi phục sự hiệp nhất các Kitô hũu; cần phải tiếp tục thực hiện để đạt được mục tiêu này. Điều này đặc biệt đúng đối với cuộc đối thoại của đức ái, nghĩa là quan tâm duy trì tương quan thân thiện giữa các Giáo hội khác nhau. Cuộc đối thoại này đã cho phép vượt qua nhiều định kiến của quá khứ và tăng cường hiểu biết tốt hơn. Điều quan trọng không kém là đối thoại trong sự thật, hoặc phân tích thần học về các vấn đề gây tranh cãi đã đưa đến sự chia rẽ trong suốt lịch sử của Giáo hội. Trong những cuộc đối thoại này đã cho thấy những gì hợp nhất chúng ta lớn hơn những gì chia rẽ chúng ta. Cuối cùng, đại kết tinh thần phải được ghi nhớ như một khía cạnh cơ bản, đó là sự tuân thủ sâu sắc và phù hợp của mọi tín hữu với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu linh mục xin cho “tất cả nên một”. Lời cầu nguyện này giúp chúng ta nhận thức rằng sự hiệp nhất của Giáo hội tương ứng với ý muốn của Chúa.
Trong những ngày này, chúng ta mừng 25 năm Thông điệp “Ut unum sint – Xin cho họ nên một” do Thánh Gioan Phaolô II ban hành 25/5/1995. Có phải Thông điệp này rất quan trọng cho con đường đại kết?
Đúng vậy, tầm quan trọng của nó chủ yếu nằm ở chỗ lần đầu tiên trong lịch sử, một Giáo hoàng đã viết một thông điệp về đại kết. Với thông điệp này, 30 năm sau khi Công đồng kết thúc,Thánh Gioan Phaolô II nhắc lại rằng trong hành trình đại kết, Giáo hội Công giáo đã dấn thân và Giáo hội không thể đảo ngược sự dấn thân này. Và vì đức tin, tất cả các thành viên của Giáo hội được yêu cầu tham gia vào phong trào đại kết.
Có một điểm đáng chú ý, làm cho tôi ngạc nhiên đối với sáng kiến này của Thánh Giáo hoàng: Một mặt, ngài nhận thức được sứ vụ Phêrô là một trong những trở ngại lớn cho việc khôi phục sự hiệp nhất; mặt khác ngài tin thừa tác vụ Giám mục Roma có tầm quan trọng trong việc tạo sự hiệp nhất của Giáo hội. Ngài đã mời toàn thể cộng đoàn đại kết tham gia vào một “cuộc đối thoại huynh đệ, kiên nhẫn” về tính ưu việt của Giám mục Roma, với mục đích tìm kiếm một hình thức thực thi quyền ưu tiên mở ra cho một hoàn cảnh mới, nhưng không từ bỏ bất cứ điều thiết yếu nào của sứ vụ. Theo tôi, đây là một sáng kiến rất hứa hẹn, chính Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI và Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại tư tưởng này trong những dịp khác nhau.
Từ khi thành lập Hội đồng Tòa Thánh về Hiệp nhất các Kitô hữu, các Giáo hoàng đã nỗ lực rất nhiều cho hoạt động đại kết. Theo Đức Hồng y, mỗi vị có những điểm nổi bật nào?
Trước hết, chúng ta phải biết ơn tất cả các Giáo hoàng vì luôn theo sát Công đồng, đã thể hiện một tấm lòng rộng mở đối với công cuộc đại kết, và giữa các vị luôn có tính liên tục và gắn kết tuyệt vời.
Thánh Gioan XXIII đã nhận thức rõ rằng việc khôi phục hiệp nhất Kitô giáo là nền tảng cho việc canh tân của Giáo hội Công giáo.
Thánh Phaolô VI đã đóng góp quan trọng trong việc thông qua Sắc lệnh “Đại kết- Unitatis redintegratio” của Công đồng. Ngài là một vị giáo hoàng của những cử chỉ đại kết vĩ đại, đặc biệt đối với Chính thống giáo và Anh giáo, và là vị giáo hoàng đầu tiên đến thăm Hội đồng Giáo hội Đại kết các Giáo hội Kitô.
Thánh Gioan Phaolô II tin rằng thiên niên kỷ thứ ba sẽ phải đối diện với nhiệm vụ to lớn là khôi phục sự hiệp nhất đã mất. Ngài nhìn nhận chứng tá của các vị tử đạo của các Giáo hội là hồng ân cho sự hiệp nhất.
Đối với Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI, đại kết ở một mức độ sâu sắc, là một vấn đề của đức tin. Và như thế là một nghĩa vụ chính của người kế vị Thánh Phêrô.
Đối với Đức Thánh Cha Phanxicô, điều nền tảng là các Giáo hội cùng đi trên con đường hiệp nhất, bởi vì sự hiệp nhất tăng trưởng trên đường đi. Ngài cũng nhấn mạnh về tầm quan trọng của đại kết máu.
Để đánh dấu việc kỷ niệm này, Hội đồng Tòa Thánh sẽ cho công bố tài liệu Vademecum ecumenico dành cho các giám mục. Tại sao Hội đồng Tòa Thánh lại cho công bố tài liệu này?
Sứ vụ ủy thác cho giám mục là phục vụ hiệp nhất trong giáo phận của ngài và hiệp nhất giữa các giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ. Nhưng sứ vụ này cũng có một tầm quan trọng đặc biệt trong đại kết. Nghĩa là sứ vụ đại kết của giám mục phải hướng đến cả những người đã rửa tội nhưng không phải tín hữu Công giáo. Do đó, trong các Giáo hội địa phương, các giám mục có trách nhiệm chính cho sự hiệp nhất các Kitô hữu. Vademecum nhằm mục đích giúp các giám mục hiểu trách nhiệm đại kết của giám mục một cách chi tiết hơn và đưa chúng vào thực tế.
Một sáng kiến khác của Hội đồng Tòa Thánh là sẽ cho công bố tạp chí Acta Œcumenica. Mục đích của tạp chí này là gì?
Ngày nay, nhiều tín hữu có cảm tưởng rằng đại kết đã đi đến bế tắc. Suy nghĩ này phần lớn là do thực tế mọi người không được thông tin đầy đủ về sự phát triển và tiến triển của đại kết. Do đó, điều quan trọng là các kết quả đại kết quan trọng hơn cả đã được đón nhận. Điều này đặc biệt đúng với các tài liệu được chuẩn bị và xuất bản bởi các ủy ban đại kết. Như đã biết, các tài liệu ít được đọc sẽ không đem lại hiệu quả nhiều. Tạp chí Acta Oecumenica nhằm tạo điều kiện cho sự tiếp nhận này, chủ yếu cung cấp thông tin về dấn thân đại kết của Đức Thánh Cha Phanxicô và về các hoạt động đại kết của Hội đồng Tòa Thánh Hiệp nhất các Kitô hữu, và giới thiệu các tài liệu chính của các cuộc đối thoại đại kết. Tạp chí nhằm mục đích hỗ trợ đào tạo đại kết, một khía cạnh quan trọng cơ bản cho tương lai.
Đại kết được thực hiện trong các cuộc gặp gỡ và đối thoại. Khủng hoảng do đại dịch đã gây ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động này?
Đại kết phát triển mạnh qua các cuộc đối thoại và gặp gỡ trực tiếp, cá nhân. Bây giờ điều này không dễ thực hiện do những hạn chế của đại dịch virus corona. Thực tế, chúng ta không thể đón tiếp các vị khách của các Giáo hội khác đến thăm Roma hoặc đi đến gặp đại diện của các Giáo hội khác. Đối thoại đại kết gặp khó khăn lớn khi thực hiện từ xa, thông qua “văn phòng tại nhà”.
Mặt khác, hoàn cảnh khó khăn của thời điểm này góp phần đưa các Giáo hội Kitô giáo, tất cả ở trên một chiếc thuyền, gần nhau hơn. Điều này rất rõ ràng, chẳng hạn, khi Đức Thánh Cha Phanxicô mời tất cả các Giáo hội Kitô hiệp nhất với ngài trong lời kinh Lạy Cha vào ngày 25/3 để cầu nguyện cho đại dịch kết thúc. Đối với lá thư mà tôi gửi lời mời của Đức Thánh Cha đến những người đứng đầu các Giáo hội Kitô giáo, hầu hết các vị trả lời rất nhanh, bày tỏ lòng biết ơn đối với sáng kiến này. Điều này cho tôi thấy mối quan hệ đại kết đã trở nên sâu sắc như thế nào trong thời gian này. Nhưng tất nhiên chúng ta sẽ rất hạnh phúc khi chúng ta có thể gặp mặt và đối thoại trực tiếp.
Sau 10 năm được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Hiệp nhất các Kitô hữu, Đức Hồng y nghĩ gì về sứ vụ này?
Tôi thấy công việc không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng rất đẹp và phong phú. Tôi biết ơn Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI vì đã giao phó cho tôi nhiệm vụ này và Đức Thánh Cha Phanxicô đã củng cố tôi. Trong những năm qua, tôi đã có thể tham gia và đóng góp cho các sự kiện khác nhau và nhiều sáng kiến đại kết của hai giáo hoàng. Tôi đã học được rất nhiều và có kinh nghiệm này: trong công việc đại kết những gì nhận được lớn hơn những gì có thể trao ban. Tôi nhận thức được rằng về cơ bản chỉ có một thừa tác viên đại kết, đó là Chúa Thánh Thần; chúng ta chỉ là công cụ của Ngài. Nhìn lại 10 năm qua là một dịp thuận tiện để tạ ơn Chúa Thánh Thần và xin Ngài tiếp tục đồng hành cho công cuộc đại kết, giúp chúng ta thực hiện từng bước tích cực, đưa chúng ta đến gần hơn với sự hiệp nhất của Giáo hội.
Ngọc Yến – Vatican News