2020
“Vẫn còn quá ít linh mục da đen ở Mỹ”
“Vẫn còn quá ít linh mục da đen ở Mỹ”
Biểu tình chống bạo lực cảnh sát trước nhà thờ chính tòa Thánh Gioan tại New York 5 tháng 6-2020
Cái chết của ông George Floyd ngày thứ hai 25 tháng 5 đã tạo một mối xúc cảm lớn nơi cộng đồng người công giáo da đen ở Mỹ. Họ xin Giáo hội và tín hữu da trắng đặt lại vấn đề.
Cảm xúc vẫn còn trong giọng nói của Tiến sĩ Ansel Augustine người Mỹ gốc Phi, ông là người có trách nhiệm mới về sự đa dạng văn hóa ở Tổng giáo phận Washington. Vừa hồi phục sau khi bị Covid-19 tàn phá cộng đồng người da đen ở thành phố New Orléans thân yêu của ông, bây giờ ông phải đối diện với video mà người xem không thể chịu đựng được về cái chết của ông George Floyd, người Mỹ Da đen ở Minneapolis bị một cảnh sát da trắng giết ngày 25 tháng 5. Ông cho biết: “Thật khó khăn về mặt cảm xúc khi đứng trước hành động bạo lực của cảnh sát đối với Người Da đen. Phản ứng đầu tiên của tôi là ghê tởm. Sau đó tôi tự hỏi không biết giây phút này sẽ là một giai đoạn khác trong hiệp thông với các buổi tụ họp và cầu nguyện không. Hay nó sẽ giúp chúng ta giải quyết công việc khó khăn của một sự thay đổi thể chế?”
Bị chấn động, người công giáo Mỹ gốc Phi làm nhiều hơn là chỉ lên tiếng chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc có hệ thống ở Mỹ: họ kêu gọi Giáo hội và giáo dân da trắng phải đối diện với nạn phân biệt chủng tộc của chính họ. Trong một buổi hội thảo trực tuyến do trường đại học Dòng Tên Georgetown tổ chức ngày thứ sáu 5 tháng 6, nữ giáo sư lịch sử người Mỹ gốc Phi Marcia Chatelain, thành viên của ủy ban về quá khứ nô lệ của đại học đã lên án mạnh mẽ: “Không ai ở đây sẽ đốt thánh giá (ám chỉ các việc làm của nhóm siêu quyền lực da trắng Ku Klux Klan). Nhưng một số trong quý vị không muốn tài trợ cho các trường học ở các khu phố khó khăn. Một số sẽ chê bai các học sinh da đen trong các trường công giáo…” Bà thẳng thắn nói với cử tọa trên mạng gồm các giáo dân và các nhà lãnh đạo công giáo. Dù đã có các lá thư mục vụ chống kỳ thị và có các lời hứa cải cách, người Mỹ gốc Phi công giáo cho rằng Giáo hội có thể làm nhiều hơn thế. Cộng đoàn của họ có 3 triệu người công giáo, 13 giám mục Mỹ gốc Phi (267) trong số này có 8 giám mục đang hoạt động. Năm giáo phận được người da đen điều hành trong đó có tổng giáo phận Washington. Nhà xã hội học Tia Noelle Pratt chuyên về vấn đề kỳ thị trong Giáo hội công giáo Mỹ phân tích: “Chúng ta phải xem cộng đồng nào bị ảnh hưởng nhiều nhất trong việc đóng cửa các giáo xứ. Phải xem lại việc tuyển nhân viên trong các trường học công giáo. Trong các chương trình học, chỗ đứng của người công giáo da đen hay vai trò của Giáo hội trong chế độ nô lệ là quá ít ỏi, chỉ có tính cách liệt kê. Bây giờ là lúc để qua một bên các chuyện nhạt nhẽo và cải cách cấu trúc Giáo hội. Chắc chắn các nhịp cầu của chúng ta không còn bị tách chia, nhưng nói như thế không có nghĩa là nạn kỳ thị đã chấm dứt. Vẫn còn quá ít linh mục da đen ở Mỹ. Điều này ảnh hưởng đến việc dấn thân của thanh niên trẻ Da Đen trong Giáo hội. Họ không có gương mẫu.”
Bốn ngày sau cái chết của ông George Floyd, bảy giám mục điều khiển các ủy ban (phân biệt chủng tộc, hoạt động ủng hộ đời sống, đa dạng văn hóa…) trong Hội đồng Giám mục Mỹ kêu gọi các mục tử “đồng hành xác thực hơn với các người mà trong lịch sử họ đã bị tước đi quyền của mình, lắng nghe câu chuyện cuộc đời của họ, học hỏi từ họ và tìm cách đáng kể để thực hiện sự thay đổi hệ thống.”
Về phần mình, Đức Giám mục Roy Campbell, chủ tịch Hội đồng Công giáo Quốc gia Da Đen bao gồm các giám mục người Mỹ gốc Phi đã kêu gọi một cuộc điều tra minh bạch về cái chết của ông George Floyd và lưu ý, tình trạng nô lệ đã có trước sự ra đời của nước Mỹ cho đến thời Nội chiến, và bây giờ vẫn còn tồn tại.”
Tiến sĩ Ansel Augustine xác nhận: “Các khóa lắng nghe là tốt. Nhưng chúng ta cần phải làm hơn. Chúng ta phải đảm bảo lịch sử công giáo của người Da Đen phải được đưa lên ngang tầm với lịch sử công giáo của người Da Trắng. Chúng ta không có vị thánh người Mỹ gốc Phi. Các đóng góp của người công giáo Da Đen không phải lúc nào cũng được công nhận.” Hiện tại một số nhóm công giáo tham gia các cuộc biểu tình chống bạo lực cảnh sát trên toàn quốc gia. Đây là trường hợp của phong trào hòa bình Pax Christi USA. Phong trào kêu gọi đầu tư hơn vào các chương trình xã hội. Ông Johnny Zokovitch, chủ tịch của Pax Christi USA lên tiếng: “Năm 2020 là năm bầu cử. Chúng ta phải đảm bảo, vấn đề phân biệt chủng tộc sẽ là một phần của cuộc tranh luận quốc gia”.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2020
Sau những lời chỉ trích Tổng thống Trump, Đức Cha Gregory đang ở giữa tâm bão những lời phê phán
Sau những lời chỉ trích Tổng thống Trump, Đức Cha Gregory đang ở giữa tâm bão những lời phê phán
Như chúng tôi đã loan tin, hôm thứ Ba 2 tháng Sáu, Tổng thống Donald Trump đã ký ban hành luật mới nhằm bảo vệ tự do tôn giáo. Trước khi ký văn kiện quan trọng này, ông và đệ nhất phu nhân đã đến kính viếng Đền thờ Quốc gia Thánh Gioan Phaolô II.
Đức Tổng Giám Mục Wilton Gregory của tổng giáo phận Washington DC đã chỉ trích rất mạnh chuyến viếng thăm này của Tổng thống Trump như một hành động lợi dụng Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho chiến dịch tranh cử của mình.
Những chỉ trích của Đức Tổng Giám Mục Gregory đang tạo ra một tai tiếng rất lớn.
Tờ Crux giải thích sự tức giận của Đức Tổng Giám Mục là vì ngài không biết trước. Tờ báo viết:
“Một chi tiết đã được báo cáo rộng rãi, và Crux đã xác nhận một cách độc lập rằng Đức Tổng Giám Mục Gregory không hề được thông báo về chuyến thăm cho đến tối thứ ba khi Tòa Bạch Ốc đưa ra một tuyên bố nhằm công bố [chuyến viếng thăm này]. Không ai liên quan đến đền thờ, kể cả những người chủ là các Hiệp sĩ Kha Luân Bố, dường như đã báo trước cho Đức Tổng Giám Mục”.
Đức Tổng Giám Mục đã không đính chính báo cáo của tờ Crux.
Gần như ngay lập tức, Tòa Bạch Ốc đưa ra bằng chứng cho thấy Đức Tổng Giám Mục đã được Tổng thống Trump mời đến Đền thờ Quốc gia Thánh Gioan Phaolô II cả một tuần trước đó, và Tòa Bạch Ốc đã nhận được thư phúc đáp của văn phòng tổng giáo phận Washington đề ngày 30 tháng Năm nói rằng ngài không đến được vì bận công vụ khác. Cả thư mời và thư từ chối đều được công bố.
Như vậy, Đức Tổng Giám Mục đã biết trước. Các phương tiện truyền thông quay sang phê phán ngài là đã hành động một cách bất công và thiếu đức bác ái. Nếu ngài không đồng ý tại sao ngài không bảo ngay từ đầu cho Tòa Bạch Ốc và Hội Hiệp Sĩ Kha Luân Bố là ngài không đồng ý.
JD Flynn chủ biên của Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, và cũng là một luật sư về giáo luật có bài nhận định sau. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Analysis: Archbishop Gregory promised the truth. Has he told it?
Phân tích: Đức TGM Gregory hứa nói sự thật. Vậy ngài đã nói thế chưa?
Trong buổi họp báo nhằm công bố việc nhậm chức Tổng Giám Mục Washington, Đức Tổng Giám Mục Wilton Gregory đã đưa ra lời cam kết: “Tôi sẽ luôn thấy sao nói vậy với anh chị em.”
Một năm sau khi được tấn phong tổng giám mục tại Washington, uy tín của lời hứa đó hiện đang bị soi mói vào thời điểm vô cùng khó khăn cho cả nước.
“Trước hết, tôi tin rằng cách duy nhất tôi có thể phục vụ tổng giáo phận này là nói cho anh chị em biết sự thật” Đức Tổng Giám Mục Gregory nói hôm 4 tháng Tư năm 2019.
Ngày hôm đó lẽ ra phải là một khoảnh khắc hy vọng cho các giáo dân Công Giáo tại thủ đô Washington là những người đã chịu đựng suốt gần một năm trời sự hỗn loạn bao quanh kẻ lạm dụng tên là Theodore McCarrick, và người kế vị của ông ta ở DC là Đức Hồng Y Donald Wuerl, là người cũng đã bị nhiều người Công Giáo buộc tội đánh lạc hướng, che giấu, và không trung thực.
Đức Tổng Giám Mục Gregory được kỳ vọng sẽ mang lại sự chữa lành cho Giáo hội.
Mặc dù có thể không có mọi câu trả lời nhưng ngài đã nói trong buổi họp báo, “sự minh bạch bao gồm cả việc chia sẻ những gì anh chị em biết.
Một năm sau khi Đức Cha Gregory được tấn phong, đã có những ý kiến trái chiều về việc thực thi các cam kết của ngài trong lời tuyên bố đó. Đức Tổng Giám Mục được ghi nhận có công kêu gọi cuộc điều tra về Đức Ông Walter Rossi, một linh mục trong khu vực đã bị buộc tội gạ gẫm các sinh viên, nhưng sau đó lại bị chỉ trích về tốc độ của cuộc điều tra sự việc, cũng như tại sao vẫn để cho Đức Ông Rossi tiếp tục các thừa tác vụ công khai trong tiến trình điều tra.
Ngài đã được các nhà lãnh đạo địa phương khen ngợi vì luôn có mặt cho công tác mục vụ của mình đối với các linh mục và giáo dân, tuy nhiên lại bị chê bai vì tổng giáo phận chưa hề công bố bất kỳ hồ sơ nào liên quan đến McCarrick.
Nhưng vào tuần trước, ý kiến của người Công Giáo về vị tổng giám mục này đã trở nên phân hoá mạnh mẽ hơn nhiều.
Vào ngày 2 tháng 6, Đức Cha Gregory đã đưa ra một tuyên bố nhằm phê phán chuyến thăm của Tổng thống Donald Trump khi ông đến viếng Đền thờ Quốc gia Thánh Gioan Phaolô II tại D.C.
Đức Tổng Giám Mục gọi việc đón tiếp ông Trump ở đền thánh này là “quái lạ và đáng trách”, và nói rằng ngôi đền đã bị “lạm dụng và thao túng một cách trầm trọng theo chiều hướng vi phạm các nguyên tắc về tôn giáo của chúng ta.”
Chuyến thăm của ông Trump đến đền thờ thực sự gây tranh cãi giữa những người Công Giáo.
Một ngày sau khi tổng thống nói trong một bài phát biểu rằng ông sẽ huy động lực lượng quân sự tại ngũ để dập tắt các cuộc biểu tình và bạo loạn trên khắp nước Mỹ, và sau đó cảnh sát liên bang đã có màn trình diễn ở mức báo động nhằm dẹp đường tại quảng trường đang có cuộc biểu tình ôn hòa, trước khi Tổng thống chụp hình ở phía trước một nhà thờ Anh Giáo với quyển Kinh thánh trong tay.
Sau những sự kiện đó, Thượng nghị sĩ Ben Sasse, một thượng nghị sĩ Cộng Hòa cùng phe với tổng thống, đã cáo buộc ông Trump sử dụng Kinh thánh như một màn tuyên truyền chính trị, và nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo khác cũng đưa ra những lời chỉ trích tương tự.
Đức Tổng Giám Mục Gregory là người Công Giáo Mỹ gốc Phi nổi bật nhất ở Hoa Kỳ, và vào thời điểm đó đã có tiếng nói quan trọng và có ảnh hưởng trong giới lãnh đạo Công Giáo về nạn phân biệt chủng tộc, công bằng xã hội và sự tàn bạo của cảnh sát sau cái chết của George Floyd vào ngày 25 tháng 5. Không có gì đáng ngạc nhiên khi ngài muốn đề cập một cách mạnh mẽ cách thức tổng thống xử lý tình trạng hỗn loạn của đất nước như thế nào.
Tuyên bố ngày 2 tháng 6 của Gregory đã trở thành tiêu đề chính trong các hãng tin lớn trên toàn thế giới. Chỉ vài ngày sau, Đức Tổng Giám Mục Gregory đã tăng thêm lời chỉ trích của mình về chuyến thăm này.
Đức Tổng Giám Mục Gregory không nói khi nào ngài đã biết về sự kiện này. Nhưng nhiều người Công Giáo suy đoán rằng, căn cứ vào cường độ trong lời tuyên bố của Đức Tổng Giám Mục thì ngài hẳn đã bị bất ngờ, có lẽ chỉ mới biết về chuyện này khi Tòa Bạch Ốc tuyên bố vào đêm hôm trước.
Vào ngày 7 tháng 6, theo phân tích tình hình trên trang Crux, Đức Tổng Giám Mục Gregory đã không hề nhận được thông báo về chuyến thăm viếng cho đến tận tối thứ ba khi Toà Bạch Ốc đưa ra một tuyên bố. Tờ Crux cho biết họ đã “xác nhận một cách độc lập” sự kiện đã được “tường thuật rộng rãi” rằng Đức Tổng Giám Mục Gregory đã không hề được báo trước.
Đức Gregory đã không hề đính chính chi tiết được “tường thuật rộng rãi” này.
Nhưng sau đó vào ngày 7 tháng 6, Tòa Bạch Ốc đã nói với Catholic News Agency rằng Đức Tổng Giám Mục Gregory đã được mời tham dự sự kiện vào tuần trước và ngài đã từ chối lời mời này.
CNA nhận đang có trong tay một bức thư gởi ngày 30 tháng 5 từ văn phòng của Đức Tổng Giám Mục Gregory, trong đó vị tổng giám mục đã từ chối lời mời, và bức thư cũng đề cập đến việc đích nhân Đức Tổng Giám Mục Gregory đã thảo luận với một nhân viên Tòa Bạch Ốc vào ngày 29 tháng Năm về việc ngài không thể đến dự.
Tổng giáo phận Washington từ chối trả lời các câu hỏi của CNA về các thời điểm. Một phóng viên nói rằng tổng giáo phận cũng không trả lời các câu hỏi của tờ Washington Post.
Kể từ tường thuật ngày 8 tháng 6 của CNA, Đức Tổng Giám Mục Gregory thường xuyên bị cáo buộc trên các phương tiện truyền thông xã hội về sự thiếu trung thực. Một cơn bão nhỏ đã bắt đầu!
Cần phải nói rõ: Đức Tổng Giám Mục Gregory đã không hề nói rằng ngài không được biết trước về sự kiện này.
Và một số tiếng nói của người Công Giáo dường như đã nhân cuộc tranh cãi này để trách móc Đức Tổng Giám Mục Gregory là đã hành động một cách bất công và thiếu đức bác ái, vì những lý do có vẻ như nhuốm màu đảng phái, về cả phương diện giáo hội và dân sự. Ngài đã bị cáo buộc tội nói dối công khai, mặc dù chưa đủ các dữ kiện biện minh cho cáo buộc ấy. Thủ thuật chính trị đó không bao giờ hữu ích, đặc biệt là tại những thời điểm gay go hoặc trong các vấn đề khó khăn như hiện nay.
Nhưng bất chấp các cáo buộc đó, một số người Công Giáo vẫn cảm nhận rằng Đức Cha đã không trung thực về mình, đã không đề cập đến các tường thuật trái ngược nhau về bản thân mình và từ chối trả lời các câu hỏi về cả dòng thời điểm và lý do cho sự thay đổi rõ rệt trong lập trường của ngài, từ phản ứng lịch sự lúc ban đầu chuyển sang lời tố cáo mạnh mẽ sau đó.
Thật dễ dàng để suy đoán về các lý do của Đức Tổng Giám Mục, nhưng chính ngài đã không sẵn sàng bày tỏ những lý do này.
Không có lý do gì để nghi ngờ rằng Đức Tổng Giám Mục Gregory không thể đưa ra câu trả lời hợp lý cho những câu hỏi mà ngài được chất vấn. Nhưng người ta không rõ tại sao ngài vẫn chưa làm như vậy.
Theo đạo đức Công Giáo, có những tội ta phạm vì đã làm, và bên cạnh đó còn có những tội ta phạm vì bỏ qua không làm. Đức Gregory chưa phạm tội không trung thực công khai. Nhưng những người Công Giáo đã xem trọng lời cam kết của ngài bây giờ dường như đang chờ xem vị tổng giám mục sẽ không lờ đi các chi tiết trong các tuyên bố công khai của mình, hoặc ít nhất là ngài sẽ làm rõ những phúc trình trái ngược, và sẽ trả lời câu hỏi đối với các vấn đề quan trọng đang gây tranh cãi.
Chắc chắn, đó là những khoảng khắc chưa từng có. Và việc ông Trump đến viếng đền đã đụng chạm đến một danh sách các chủ đề gây tranh cãi, nghiêm trọng và nhạy cảm, đặc biệt là đối với một giám mục người Mỹ gốc Phi ở thủ đô của quốc gia như: bản thân vị Tổng thống, liên kết thể chế của người Công Giáo với Tổng thống Trump, nạn phân biệt chủng tộc, các cuộc biểu tình làm náo loạn đất nước. Bất đồng trong một thời điểm như thế này là có thể hiểu được.
Nhưng khả năng lãnh đạo được thử thách trong những khoảnh khắc như thế này. Và Đức Tổng Giám Mục Gregory, người đã hứa nói lên sự thật, giờ lại phải đối mặt với một thử nghiệm đáng được theo dõi.
Source:Catholic News AgencyAnalysis: Archbishop Gregory promised the truth. Has he told it?
Emily Nguyễn
2020
Những kẻ phá hoại đã chặt đầu và tay tượng Thánh Tâm Chúa ở Tây Ban Nha
Những kẻ phá hoại đã chặt đầu và tay tượng Thánh Tâm Chúa ở Tây Ban Nha
Theo trang mạng Church Pop loan tin thì dân chúng rất đau lòng khi biết có một nhóm người phá hoại đã chặt đầu và hai tay của tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu ở La Roda de Andalucía, một ngôi làng nhỏ ở tỉnh Seville, Tây Ban Nha. Tượng đài này đã có hơn 70 năm nay
Vào tháng 10 năm 1952, tượng đài được khánh thành, đặt tại quảng trường của một thị trấn mang tên Quảng trường Thánh Tâm Chúa, vì Vua Alfonso XIII vào năm 1919, đã truyền dâng hiến nước Tây Ban Nha cho Thánh Tâm Chúa.
Các kẻ phá hoại đã chặt đầu và hai tay tượng Chúa. Hiên nay tượng đang được bọc vải đen cho đến khi tượng được sửa chữa. Người dân trong thị trấn vẫn đến cầu nguyện và thắp nến cũng như cắm hoa ở tượng đài… Vụ việc hiện đang được chính quyền điều tra.
Thanh Quảng sdb
2020
Tờ New York Times và bí tích xức dầu bệnh nhân thời đại dịch
Tờ New York Times và bí tích xức dầu bệnh nhân thời đại dịch
Trong thời gian đại dịch Covid-19, trong số các bí tích Công Giáo, người ta nhắc nhiều nhất tới bí tích xức dầu bệnh nhân vì nó là bí tích mà không một người Công Giáo nào lại không mong được lãnh nhận vào những giây phút quyết định nhất sự sống trần gian của họ.
Chính vì thế, ngày 6 tháng 6 vừa qua, tờ New York Times có bài viết khá cảm kích và chi tiết về bí tích này (nytimes.com). Xin mời độc giả cùng đọc:
“Ai trong anh em đau yếu ư?
Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa.
Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh;
và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha”. (THƯ GIACÔBÊ)
Xức dầu Lần cuối
Bản văn của ELIZABETH DIAS
Hình ảnh của RYAN CHRISTOPHER JONES
6 tháng 6, 2020
Cả hàng thế kỷ qua, các linh mục Công Giáo vốn xức dầu cho người hấp hối. Nghi thức này đã trở nên cực kỳ khó khăn thời đại dịch coronavirus. Nhưng trong một số trường hợp hiếm hoi, các linh mục vẫn có thể cung ứng các nghi thức sau cùng này.
NGƯỜI ĐÀN ÔNG NẰM ĐÀNG SAU TẤM KÍNH, bất tỉnh dưới ánh điện mầu lam, mình đầy dây nhợ. Gia đình ông không được phép vào thăm. Không ai được đụng tới thân thể ông.
Cha Ryan Connors đứng ngoài cửa quan sát, khó nhìn rõ chiếc cổ áo Rôma dưới tấm chắn che mặt ngài.
Từ lúc đại dịch coronavirus bắt đầu, ngài đã tới cạnh giường các bệnh nhân Civid-19 khắp khu vực Boston để thực thi một trong các nghi thức tôn giáo cổ xưa nhất dành cho người hấp hối: thực hành của Công Giáo Rôma quen gọi là các phép sau hết.
Cả hàng thế kỷ nay, các linh mục đã thực sự xức dầu cho người hấp hối bằng dầu thánh để chữa lành phần xác và phần hồn, nếu không ở đời này, thì ở đời sau. Nhiều người Công Giáo đã sống trọn cuộc sống họ với niềm tin tưởng rằng trong những giờ phút khó khăn nhất của họ, một linh mục, và qua ngài, Thiên Chúa, sẽ đến cứu giúp họ.
Vào buổi sáng Thứ Ba đó, tại đơn vị chăm sóc tận tình (ICU) ở Trung Tâm Y Khoa St Elizabeth, phía tây thành phố, Cha Connors chỉ biết tên người bệnh và gia đình ông có yêu cầu một linh mục.
Cha có một túi nhựa nhìn rõ với một cục bông gòn chứa một ít giọt dầu thánh. Ngài mang theo bản sao các trang của sách phụng vụ.
Lúc 10 giờ 18 phút sáng, cha hé mở chiếc cửa ra vào. Ngài bước tới chiếc giường, cẩn thận tránh các ống dây ở dưới đất.
Ngài giơ tay ra, và bắt đầu cầu nguyện.
Cha David Barnes sau khi xức dầu cho 1 bệnh nhân Covid-19 tại Bệnh viện Newton-Wellesley.
CORONAVIRUS ĐÃ DẪN Hoa Kỳ tới thung lũng bóng đen tử thần. Chỉ trong vòng 3 tháng, cái phân tử cực nhỏ đã phơi trần tính khả tử của con người. Toàn bộ quốc gia cố gắng tránh chết, đóng cửa các thành phố, che mặt ở ngoài đường, và cô lập người hấp hối khỏi người thân yêu trong những giờ phút cuối cùng của họ. Ấy thế nhưng, hơn 100, 000 người vẫn đã chết, và thường, là chết một mình.
Nhiều nghi thức, nhằm hướng dẫn qua những thời khắc thánh thiêng nhất đời người, đã trở thành bất khả. Con cháu nói lời ly biệt sau cùng với bậc cha ông đang hấp hối qua cửa sổ hay trên FaceTime, nếu có dịp làm như thế. Chỉ thỉnh thoảng lắm, các nhà lãnh đạo tôn giáo mới được phép vào các bệnh viện hay nhà dưỡng lão. Các gia đình dự đám tang trên Zoom.
Cả nước đang giáp mặt với cuộc khủng hoảng tinh thần bản thân sâu xa, chứ không phải chỉ là cuộc khủng hoảng sức khỏe hay kinh tế. Virus buộc ta phải tính sổ các vấn đề thân thiết nhất hiện có, những vấn đề không những liên quan đến việc phải sống ra sao, mà còn là phải chết như thế nào nữa. Về việc ta có thể kiểm soát được gì và không thể kiểm soát được gì. Về việc phải nêu tên nhân phẩm, thất vọng và hy vọng ra sao. Và nhất là về việc phải dành cho những giờ sau cùng sống trên cõi đất này ý nghĩa nào.
“Tai họa lớn lao này đang thay đổi mối liên hệ của chúng ta với sự chết; tôi không biết chắc hoàn toàn, nhưng tôi biết chắc nó sẽ thay đổi”. Đó là nhận định của Shannon Lee Dawdy, giáo sư nhân học tại Đại Học Chicago. “Điều này đang xẩy tới với mọi người chúng ta, về phương diện tâm lý”.
Trước việc xuất hiện các tôn giáo lớn của thế giới hiện đại rất lâu, con người đã sử dụng các nghi lễ để xử lý cái chết. Họ đã tôn vinh sự thánh thiêng của cuộc sống bằng cách chôn cất người chết. Họ đã dâng những bùa ngải hoặc đồ vật để chuẩn bị cho người ta về đời sau.
Đại dịch này đã đến một quốc gia đang trôi dạt ra xa nhiều truyền thống đức tin của nó. Kitô giáo, tôn giáo đa số ở Mỹ, đã dần dần suy giảm trong nhiều thập niên. Trong đại dịch cúm năm 1918, nhiều nhà thờ đã đóng cửa đối với các buổi lễ, nhưng ít ai tra hỏi việc một thừa tác viên có thể đến thăm người sắp chết. Một thế kỷ trước đây, các linh mục “đáp ứng lời kêu gọi đi thăm người bệnh cả ngày lẫn đêm”, một tờ báo Công Giáo đã tường trình như thế vào thời điểm đó. Bây giờ các y tá và bác sĩ, chứ không phải các nhà lãnh đạo tinh thần hay gia đình, có xác suất nhất được mục kích sự chết.
Teresa Berger, giáo sư nghiên cứu phụng vụ tại Trường thần học Đại Học Yale cho hay: Cách nay chỉ mấy thế hệ thôi, gia đình của người quá cố mặc đồ đen trong nhiều tháng, dừng mọi đồng hồ trong nhà, đóng các cửa chớp và đặt rơm trên đường để làm nhẹ các âm thanh.
Bà nói: “ngày nay chúng ta đã kìm hãm một số khá lớn các thực hành nghi lễ xung quanh cái chết và người sắp chết. Chúng ta không biết phải đồng hành với người sắp chết bằng nghi thức, chúng ta để việc đó cho các bệnh viện”.
Một số nghi thức vẫn còn đó. Các gia đình Do Thái rửa xác sau khi chết và ngồi shiva (nghi thức tụ tập than khóc người chết). Nhiều người Hồi giáo quay giường người chết thân yêu của mình về hướng Mecca. Và trong đạo Công Giáo, có các nghi thức sau cùng.
Khi các trường hợp nhiễm coronavirus tăng mạnh ở Boston, Đức Hồng Y Sean P. O’ Malley, tổng giám mục Công Giáo Rôma, đã chỉ định một toán đặc nhiệm gồm 21 linh mục được huấn luyện để xức dầu một cách an toàn cho bệnh nhân Covid-19. Thành phố, phần đông theo Công Giáo, là một trong ít nơi trong nước, trong đó, một số bệnh viện đã cho phép các linh mục vào, trong thời gian đại dịch.
Giây phúc có ý nghĩa nhất, giây phút quyết định cuộc sống ta là chúng ta sẽ chết ra sao, Cha Barnes nói thế
Cha Barnes mặc một bộ quần áo che chở bản thân tại Trung Tâm Y Khoa St Elizabeth trước khi xức dầu cho một nạn nhân Covid-19
Diane Roberio lãnh nhận bí tích sức dầu bệnh nhân từ Cha Barnes tại Trung Tâm Y Khoa St Elizabeth.
Cha Brian Conley, một tuyên úy dòng Tên tại Bệnh viện Brigham và Phụ Nữ, đã thực hiện khoảng 100 cuộc xức dầu kể từ khi đại dịch bắt đầu, đôi khi năm cuộc một ngày khi các vụ lây nhiễm lên đến cực điểm.
Ngài nói, “Trọng điểm của toàn bộ bí tích nhắc nhở ta rằng chúng ta không đơn độc. Giáo Hội có mặt với người này và Thiên Chúa hiện diện với người này”.
CÁC NGHI THỨC SAU CÙNG THỰC SỰ LÀ BA bí tích, hoặc nghi thức mà Giáo Hội tin là máng chuyển ơn thánh của Thiên Chúa: xưng tội lần cuối cùng và ơn tha thứ tội lỗi, xức dầu cho người bệnh và phép Thánh thể, tưởng nhớ thân thể và máu thánh Chúa Kitô.
Tập tục cổ xưa phát xuất từ một Giáo Hội được hạ sinh, hoàn toàn theo nghĩa đen, từ một người sắp chết. Các câu chuyện trong Kinh Thánh kể lại việc Chúa Giêsu từng đặt tay trên người bệnh, chữa lành và tha thứ cho họ, và các môn đệ của Người xức dầu cho người bệnh bằng dầu thánh. Khi chết trên thập giá, Người đã tha thứ cho kẻ thù và phó linh hồn của Người trong tay Thiên Chúa.
Các que bông gòn được các linh mục sử dụng để xức dầu cho các bệnh nhân Covid-19
Dây stola trong túi áo Cha Barnes (trái), Dầu thánh trước đây vốn được lưu giữ trong những chiếc lọ trang trí cầu kỳ nay được đựng trong những chai nhựa để dễ lau chùi
Vào thời đó, nghi thức phổ biến của người La Mã dành cho người chết là đặt một đồng xu vào miệng người quá cố, để trả tiền vé cho cuộc hành trình qua một dòng sông đến thế giới bên kia. Giáo Hội sơ khai đã dùng bánh mì thay thế cho đồng xu, để cung cấp thực phẩm cho người quá cố trong cuộc hành trình của họ tới nhan thánh Thiên Chúa. Đó là một cuộc cử hành Thánh Thể sau cùng, được gọi bằng tiếng Latinh là “viaticum” hay “của ăn đàng”.
Nghệ thuật về người hấp hối, Đức khoảng năm 1475 A.D.
Cha Barnes rời phòng một bệnh nhân Covid-19 tại Bệnh viện Newton-Wellesley
Bà Roberio tại đơn vị chăm sóc tận tình ở Trung Tâm Y Khoa St. Elizabeth
Ở châu Âu thời trung cổ, khi bệnh dịch giết chết một trong ba người, việc xức dầu cho người sắp chết càng trở nên nổi bật hơn nữa. Tuổi thọ rất ngắn, và cái chết là điều không thể đoán trước và được coi như hình phạt của Thiên Chúa. Đó là thời đại của lo lắng, “Inferno” (hỏa hào) của thời đại Dante, khi nhiều người lo lắng linh hồn của họ sẽ phải chịu đau khổ trong luyện ngục vì tội lỗi của họ. Các nghi thức sau cùng tha tội cho người sắp chết và làm dịu nỗi sợ hãi đối với số phận vĩnh cửu của họ.
Cả một thể loại văn học, gọi là ars moriendi (Nghệ thuật về người hấp hối), đã phát triển về việc làm thế nào để chết cách tốt lành. Các sách cẩm nang được truyền bá khắp châu Âu đã phác thảo nhiều lời cầu nguyện sau cùng cho người sắp chết và gia đình của họ, và làm thế nào tránh cơn cám dỗ và sợ hãi trong những giờ phút sau cùng.
Ralph Keen, giữ ghế nghiên cứu Công Giáo và là giáo sư lịch sử tại Đại học Illinois ở Chicago, cho biết: “Rất khó để các cá nhân thế tục hiện đại hiểu rõ mức độ tuyệt vọng. Một vị Thiên Chúa công chính trừng phạt loài người đầy sợ hãi, không có điều gì đáng sợ hơn thế”.
Ông nói: “Nó vốn có nghĩa một bí tích để an ủi”.
Sau Thế chiến II, Vatican đã mở rộng việc xức dầu cho người bệnh cũng như cho người sắp chết. Các linh mục bắt đầu xức dầu cho những người sắp phải giải phẫu hoặc mắc một căn bệnh nghiêm trọng, như ung thư chẳng hạn.
Linh mục Michael Witczak, phó giáo sư nghiên cứu phụng vụ và thần học bí tích tại Đại học Công Giáo America giải thích: Bí tích là một cách thừa nhận tính tháng thiêng của mọi cuộc sống nhân bản. Người bệnh, người tội lỗi và người sắp chết đều có giá trị và quyền lợi.
Cha Connors tại sân đậu xe của Trung Tâm Y Khoa St. Elizabeth
Cha Connors chuẩn bị các vật liệu của ngài trong thùng xe của ngài trước khi bước vào bệnh viện
Chữ “bệnh nhân” (patient) phát xuất từ tiếng Latin, thoạt đầu có nghĩa “một người chịu đau khổ”. Nhưng, theo ông, giữa một căn bệnh mới đáng sợ như Covid-19, các bệnh nhân có thể bị nhìn trước hết như những vấn đề cần giải quyết hoặc các con số thống kê.
Ngài nói “Điều mà việc đem bí tích đến cho họ làm là nhắc nhở chúng ta rằng họ là những hữu thể nhân bản có quá khứ và hiện tại và hy vọng một thứ tương lai nào đó”.
BỆNH NHÂN ĐÀNG SAU TẤM KÍNH ở Trung Tâm Y Khoa St. Elizabeth là cha của Dunia Barrios. Cô nhớ chỉ vài ngày trước đây, ông đang tìm kiếm một đài tôn giáo trên chiếc radio khi ngồi chờ xe cứu thương đưa ông đến bệnh viện, hy vọng được nghe một lời cầu nguyện.
Cô ước được chạm vào tay ông, được hôn ông. Cô Barrios không phải là người Công Giáo, nhưng cha cô, một người thợ (handyman) 59 tuổi, chuyên lát gạch và làm mái nhà, vốn tham dự thánh lễ mỗi Chúa nhật. Một người bạn nói với cô về những nghi thức sau cùng, và cô đã tra cứu chúng trên mạng. Hai tuần sau khi ông được đặt máy thở, cô gọi cho một linh mục.
Cô cho hay “Tôi biết người ta đang bất tỉnh. Tuy nhiên, đôi khi bạn tự hỏi, theo khía cạnh tôn giáo, họ bất tỉnh như thế nào? Họ có thực sự nghe được bạn không? ”
Cô bảo: “Khoa học có thể nói cho bạn một điều gì đó, nhưng có điều gì đó còn hơn cả khoa học nữa. Chỉ có điều chúng ta chỉ cảm thấy, nếu chúng ta ở đó, nếu chúng ta có thể chạm vào người…”
Giọng cô lạc đi.
Việc bảo đảm có sự hiện diện thánh thiêng là một niềm an ủi không những cho người sắp chết, mà còn cho những người thân yêu bị bỏ lại. Từ chối bí tích có thể có tác dụng tàn phá. Vào tháng Tư, Elvira Arbusto, 95 tuổi, đã chết vì Covid-19 tại một trung tâm chăm sóc ở Connecticut. Con cái của cụ không thể nhờ được bất cứ ai thiết lập một video để họ có thể nói chuyện với cụ, càng không sắp xếp được một linh mục.
Con dâu của cụ, Beth Cioffoletti, nói: “ Tôi biết rằng cụ muốn điều đó và nó cũng giúp gia đình tôi nữa. Mấy ngày qua là những ngày rất đáng lo ngại, cứ nghĩ đến việc cụ bị bỏ rơi trong căn phòng để chết”.
Đối với một số gia đình, việc xức dầu mở ra niềm hy vọng sẽ có một phép lạ. Addis Dempsey đã bất tỉnh và được đặt ống dây đầy người tại Trung Tâm Y Khoa St. Elizabeth, khi một linh mục đến ban bí tích vào đầu tháng Năm. Lắng nghe qua loa điện thoại là người anh em họ của ông Dempsey, Cha Bill Williams, người đã cung ứng những lời cầu nguyện tương tự vô số lần trong suốt 52 năm làm cha chính xứ.
Sau đó, ngài giải thích rằng Bí tích là một nghi thức chữa lành, một nhắc nhở với ta rằng bất luận sự việc diễn ra như thế nào, Thiên Chúa vẫn ở bên bạn.
Cha Connors cầu nguyện trên ông Skip Dempsey, một bệnh nhân mắc Covid-19
Cha Bill Williams nói rằng “Các bí tích giống như những cái ôm của Thiên Chúa, những khoảnh khắc khi Người ôm ấp chúng ta”
Cha Williams quả quyết: “Đây không phải là ma thuật. Mà là lời khẩn cầu trung thành dâng lên Thiên Chúa, thưa với Người, “Lạy Chúa, chúng con cần một cái ôm ngay lúc này’. Tôi muốn nói các bí tích giống như những cái ôm của Thiên Chúa, những khoảnh khắc khi Người ôm ấp chúng ta. Và không ai thích những cái ôm qua loa”.
Vài ngày sau, ông Dempsey không còn cần máy thở nữa. Chẳng mấy chốc, ông được rút các ống thở và có thể nói chuyện ít phút qua điện thoại với một người chị em họ khác, là bà Peggy Golden, khi ông bắt đầu hồi phục.
Bà nói “Có rất nhiều điều được tràn đổ lên ông, và Chúa là một trong số đó. Tôi phải tin rằng tất cả những điều đó đã đóng góp một phần vào sự kiện tôi được nói chuyện với ông ấy ngày hôm qua. Ai đó đang kiểm soát việc này. Nếu Người quyết định chữa lành cho ông ấy ở đây, điều đó rất tốt đối với tôi”.
KHI CÔ BARRIOS YÊU CẦU cho cha cô được xức dầu, một tuyên úy bệnh viện gọi cho Cha Connors, người đang dạy một lớp thần học luân lý trực tuyến.
Khi số người chết bắt đầu tăng lên ở Boston, Cha Connors tự nguyện cô lập với hai linh mục khác cũng thuộc toán Covid-19 của tổng giáo phận. Trước khi một trong các linh mục rời khỏi nhà để đi xức dầu cho người bệnh, ngài đặt một đôi giày sạch ngay bên trong cửa sau. Khi vị này quay trở lại, ngài sẽ lập tức có hàng đống quần áo để giặt.
Cha Connors, bên trái, và Cha đang điện thoại hàng tuần với các linh mục khác chuyên xức dầu cho các bệnh nhân Covid-19 tại các bệnh viện Boston
Cha Barnes ở trong nhà bếp của căn nhà ngài đang cư trú, Cha Connors và Cha Thomas Macdonald sống ở chỗ kiểm dịch
Giữa các cuộc gọi, ba linh mục dành thì giờ để suy nghĩ về thừa tác vụ của họ. Cha David Barnes vừa xức dầu một bệnh nhân sắp chết tại Bệnh viện Newton-Wellesley.
Cha Barnes nói “Bạn thường nghĩ, người này sẽ ở trên thiên đường sau khi nói chuyện với mình. Điều này luôn làm người ta rất sững sờ, nhưng nó cũng là một ý nghĩ đẹp, là bạn có thể ở đó trong khoảnh khắc đó với một ai đó.
Ngài bảo “Khoảnh khắc ý nghĩa nhất, khoảnh khắc quyết định đời ta là ta sẽ chết ra sao”.
Ngài giải thích: Lúc này là cơ hội để mọi người kiểm tra lại cuộc sống của chính họ và đối diện với những câu hỏi hóc búa: Điều gì là quan trọng ở trong đời? Ý nghĩa cuối cùng của cuộc đời là gì? Đâu là Hy vọng tối hậu của bạn?
Cha Thomas Macdonald nhớ lại các y tá đôi khi tham gia việc cầu nguyện với ngài khi ngài xức dầu cho các bệnh nhân trong phòng chăm sóc tận tình.
Ngài nói “Bạn dễ dàng thành người duy tục, thành người không tin Thiên Chúa, khi bạn nghĩ rằng, trong căn bản, nhân loại có quyền kiểm soát vận mệnh và các vấn đề của họ. Để sống tốt đòi hỏi phải chuẩn bị cho cái chết, thừa nhận rằng cái chết là một phần trong số phận con người của chúng ta. Không có niềm tin vào Thiên Chúa, không có niềm tin vào một mục đích thực sự cho cuộc sống của chúng ta, tôi không biết làm thế nào việc sống tốt này được thực hiện”.
Cha Barnes, bên trái, Cha Macdonald, ở giữa, và Cha Connors, bên phải, cử hành thánh lễ tại căn gác sát mái
Cha Macdonald trong căn nhà của các ngài tại Brighton
Cha Connors đang đẩy một máy tính bảng vào phòng của thân phụ Dunia Barrios để cô có thể theo dõi nghi thức
Và Cha Connors cho rằng, dù tương lai của tôn giáo ở Mỹ là một đề tài thảo luận thú vị, ngài hoàn toàn tập chú vào công việc trong tầm tay: chăm sóc cho nhu cầu tâm linh thực sự của người ta.
Ngài nói: “Trong vòng 400 năm, bất cứ điều gì xảy ra trong một đại dịch, vẫn sẽ có những linh mục xức dầu cho Dân Thiên Chúa. Bất chấp chuyện gì xảy ra.”
TRONG CĂN PHÒNG TẠI TRUNG TÂM Y KHOA ST. ELIZABETH, Cha Connors cầu nguyện trên người đàn ông. Dù họ mới gặp nhau lần đầu, nhưng chuyện này không thành vấn đề. Họ cảm thấy gần nhau do cùng chia sẻ một phép rửa chung và do cùng một niềm tin vốn lớn hơn chính họ rằng trong những giờ phút cuối cùng này, Thiên Chúa sẽ xuất hiện.
Cô Barrios đã theo dõi từ xa trên FaceTime từ trạm xá nơi cô làm y tá. Lần đầu tiên, cô thấy cha cô nằm trên giường. Cô yêu cầu một đồng nghiệp ngồi với cô trong khi cô xem màn hình, để cô có thể nắm tay một ai đó.
Đầu tiên, là bài đọc trích từ Tin Mừng Mátthêu. Hãy đến với Ta tất cả những người đang mang gánh nặng, và Ta sẽ cho các ngươi nghỉ ngơi, Cha Connors đọc như thế. Sau đó, là việc giải tội. Một sự bảo đảm được tha thứ.
Rồi, Cha Connors nâng miếng bông gòn lên. Ngài đụng nó vào trán người đàn ông, xức dầu cho ông bằng dầu thánh.
Vị linh mục đọc “qua việc xức dầu thánh này, xin Chúa vì tình yêu và lòng thương xót của Người giúp con bằng ơn thánh của Chúa Thánh Thần. Và xin Chúa giải thoát con khỏi tội lỗi, cứu độ con và nâng con lên”.
Ngài đặt miếng bông gòn xuống. Nó sẽ được đốt cháy, phù hợp với giáo huấn Công Giáo.
Ngài nhìn người đàn ông.
Và ngài cầu nguyện “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, xin Mẹ ở cùng chúng con bây giờ, và trong giờ lâm tử, Amen”
Thế là hoàn tất. Toàn bộ nghi thức chỉ kéo dài vài phút, chính việc xức dầu chỉ kéo dái một vài giây. Nhưng những giây đó cô đọng cả một vĩnh cửu.
Đối với cô Barrios, cảm xúc quả đã dâng trào.
Cô nói “Là con người, chúng ta rất mỏng dòn. Tình yêu quả chữa lành”.
Ba tuần và một ngày sau, cha cô, Otto Ronaldo Barrios, qua đời.
Cô Barrios nhìn qua màn hình khi Cha Connors ban phép xức dầu người bệnh cho cha Cô
Thân phụ Cô Barrios lúc được xức dầu
Vũ Văn An