2020
Ấn Độ: Chính phủ cho phép mở cửa nhà thờ nhưng Giáo hội không muốn
Từ thứ Hai 08/06 các nhà thờ ở Ấn Độ có thể mở cửa trở lại để cử hành các Thánh lễ với sự hiện diện của các tín hữu, nhưng một số vị lãnh đạo tôn giáo không muốn do các biện pháp quá khắt khe của chính phủ đưa ra buộc phải thực hiện khi muốn mở cửa các nơi thờ phượng.
Sau khi chính quyền trung ương cho phép mở lại các hoạt động phụng vụ, chính quyền các bang đã cho công bố các quy tắc cụ thể phải tuân giữ. Khác với những gì đang diễn ra tại phương Tây, ở Ấn Độ, rất khó đưa ra các quy tắc chung cho tất cả các tôn giáo. Ví dụ, tại bang Kerala, chính quyền cấm phân phát mọi loại lễ vật được trao cho những ai đang dự lễ nghi. Đối với người Công giáo rước lễ cũng bị cấm. Vì thế, nhiều giáo phận đã quyết định tiếp tục đóng cửa nhà thờ, ngay cả khi Hội đồng Giám mục đã gửi các khuyến nghị.
Đức Tổng giám mục Antony Kariyil của Tổng Giáo phận Ernakulam Angamaly, sau khi đã thảo luận với các linh mục và một số đại diện giáo dân, đã tuyên bố rằng, đối với Tổng giáo phận tốt hơn không cử hành các phụng vụ.
Cha Thomas Puthenpurackal, coi sóc giáo xứ Thekkekara của giáo phận Changacherry đã nói với Hãng tin Asia News, cha đã cho vệ sinh, khử trùng nhà thờ và khu vực giáo xứ, nhưng có thể cha sẽ không thể mở lại cửa nhà thờ cho cử hành Thánh lễ có giáo dân tham dự. Trở ngại lớn nhất đến từ chỉ thị của chính quyền Kerala là cấm cho giáo dân rước lễ. Cha chỉ ra: “Nếu chúng ta không thể hiệp thông Thánh Thể, đâu là ý nghĩa của việc giáo dân tham dự Thánh lễ”.
Hôm Chúa nhật 07/06, Đức cha Joseph Perumthottam, Tổng Giám mục Changanacherry đã thông báo các giáo xứ trong Tổng giáo phận sẽ không cử hành Thánh lễ có giáo dân tham dự. Các linh mục và giáo dân đều cho rằng các biện pháp do chính quyền đưa ra quá phức tạp: các linh mục phải ghi lại danh sách những ai đang tham dự Thánh lễ; cử hành Thánh lễ không quá 100 người; dỡ bỏ thảm ở nơi cho rước lễ; không sử dụng nước thánh, không xức dầu thánh; v.v. Ngoài ra, cấm những ai trên 65 tuổi vào nhà thờ.
Theo Đức Hồng y Baselios Cleemis, Tổng Giám mục trưởng của Giáo Hội Công giáo Syro-Malabar, người già cũng có quyền tham dự các nghi thức. “Đóng cửa các nhà thờ thì không chắc chắn virus không lây lan trong cộng đồng. Trong mọi trường hợp, các tín hữu của chúng tôi hiện diện rải rác trên cả nước sẽ tuân thủ nghiêm ngặt các chỉ dẫn của chính phủ”. Đức Hồng y đề nghị với chính quyền rằng Giáo hội có thể tìm cách tổ chức cử hành Thánh lễ chỉ dành riêng cho những người trên 65 tuổi. (Asia News 08/6/2020)
Ngọc Yến – Vatican News
2020
Aleksandar Ninkovic, quân nhân Xéc-bi trở thành linh mục công giáo
Linh mục Aleksandar Ninkovic ở nhà nguyện của Tòa Tổng Giám mục công giáo ở Belgrade. Tijanda Dindi
Cựu sĩ quan quân đội Nam Tư, người cộng sản trở lại này là một trong các linh mục công giáo người Xéc-bi duy nhất ở Belgrade, trong một nước tuyệt đại đa số theo chính thống giáo. Chân dung của một người ngoại hạng.
Vào thời Nam Tư cộng sản, Quân đội Nhân dân là trụ cột của đất nước và chúng tôi là con dân của họ. Cha tôi là kỹ sư hàng không với cấp bậc đại tá, mẹ tôi là y tá trong quân đội. Chúng tôi ở trong các căn hộ của quân đội ở Tân-Belgrade, một khu dân cư rộng lớn xây trên bờ sông Danube. Tất cả trẻ con thế hệ chúng tôi có thẻ đảng và ở trong phong trào Thanh niên Nam Tư. Với “lữ đoàn chúng tôi”, mùa hè chúng tôi làm việc ở nhiều công trường khác nhau, chẳng hạn như xây đường xá. Chúng tôi đi khắp nước, đó là tự do!
Tôi hết mình bảo vệ lãnh thổ, tôi ở trong các nhóm dân quân địa phương sẵn sàng đẩy lui kẻ xâm lược, đi theo học thuyết quân sự của Nam Tư dựa trên chiến tranh du kích nhân dân. Tôi nóng lòng được mặc đồng phục! Sau khi được nhận vào Học viện Quân sự ở Sarajevo, Bosnia-Herzegovina năm 1983, tôi được bổ nhiệm vào một căn cứ quân sự gần Mostar, với chức vụ trung úy, tôi là kỹ sư hàng không. Tôi phụ trách các chiếc trực thăng Gazelle do Pháp sản xuất. Nhưng, một cách không thể giải thích được, tôi nhận ra tôi không thích việc này. Tôi cảm thấy thiếu một cái gì. Sau vài năm, tôi ra khỏi quân đội và làm kỹ sư hàng không trong một công ty hàng không. Một thời gian ngắn sau, toàn bộ hệ thống sụp đổ. Mắt tôi mở ra với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Tôi nhận ra chúng tôi tất cả là nạn nhân của một vụ uy hiếp thiêng liêng hàng loạt. Lạm dụng thể xác đã là một bạo lực thuần túy đối với linh hồn. Nhưng việc lạm dụng thiêng liêng có thể xấu hơn, vì chúng ta tự mình tham gia vào đó. Chúng tôi thích chủ nghĩa cộng sản! Khi tôi được hiểu được điều này, đó là cả một giải phóng. Ngược lại, một số bạn của tôi tiếp tục đi theo lý tưởng cộng sản, dù sau khi chế độ đã sụp đổ. Tôi trả thẻ đảng trước khi đất nước rơi vào nội chiến. Tôi không ngạc nhiên khi Nam Tư nổ bùng vì cộng sản giấu giếm tất cả các bất bình của quốc gia. Chẳng hạn cấm nói đến vấn đề người Xéc-bi bị người phát-xít Crô-a-xi diệt chủng trong thời Thế chiến Thứ hai. Tuy nhiên, tôi đã không nghĩ nó sẽ đẫm máu. Tôi cám ơn Chúa vì đã khiến tôi rời khỏi quân đội trước đây!
Trong quân đội, tôi là người cộng sản, tôi là người bài tôn giáo. Tôi còn nhớ tôi đã chế giễu một người lính Bô-xni hồi giáo: “Làm thế nào mà bạn có thể xuẩn ngốc tin vào Chúa?” Sau này tôi biết ai là người xuẩn ngốc… Không có người vô thần tuyệt đối. Khi còn nhỏ, tôi tìm được một lá có bốn lá của cây cỏ ba lá, tôi quý báu cất kỹ. Khi gặp khó khăn, tôi đem nó ra và cầu nguyện mà không biết mình cầu nguyện! Cũng vậy, tôi đã nghĩ mình tiếp tục sống một cách nào đó sau cái chết. Một đêm nọ, khi tôi đang còn ở Học viện Quân sự, tôi thức dậy trong nỗi kinh hoàng: tôi mơ tôi chết và tôi đi lang thang một mình trong bớng tối, ngàn đời. Tôi không giải thích được sự hoảng loạn này. Bây giờ tôi biết, đó là kinh nghiệm của hỏa ngục. Hỏa ngục không phải là dầu sôi lửa cháy nhưng là cô đơn.
Tôi bắt đầu đi tìm Chúa. Một người bạn đưa tôi đến nhóm Hare Krishna, họ đã định cư ở Belgrade: họ bắt chước các tín hữu kitô họp nhau ngày chúa nhật và họ có ban nhạc rất hay! Tôi đã thử các câu thần chú… Nhưng khi nào cũng có một cái gì đó thiếu. Về phần gia đình tôi, anh tôi đã rửa tội, anh vào Giáo hội chính thống giáo Xéc-bi. Dưới ảnh hưởng của anh, tôi muốn tìm hiểu kitô giáo. Trở thành nhà khoa học máy tính, tôi đã cài đặt một trong các Hệ thống Bảng (Bulletin board system, BBS) trong vùng vịnh Balkan, một máy chủ trao đổi tin nhắn và các tập tin – đó là tiền thân của Internet. Tôi đã đọc ở đó Ẩn ngữ thiêng liêng (Énigme sacrée), một ngọn lửa chống kitô giáo xuất bản năm 1982 mà Da Vinci code chỉ là một bản sao mờ nhạt. Xa lạ với tôi, nhưng nó lại khơi lên tính hiếu kỳ của tôi. Tôi muốn đưa lên Hệ thống Bảng BBS các thông tin chính xác về kitô giáo để người dùng có thể có một quan điểm. Than ôi, không thể tìm ai trong Giáo hội chính thống giáo để viết cho tôi phần giáo lý. Ngược lại, người công giáo thì lại rất tích cực.
Vậy là cựu đảng viên cộng sản đến với đức tin qua Sách Thánh, linh mục Ninkovic nói đã “mê hoặc” ngài. Ngài trở thành thần học gia và điều hành một trường Kinh Thánh nhỏ ở Belgrade (Serbia). © Tijanda Dindi
Linh mục Marko là đan sĩ Dòng Phanxicô ở đan viện Zemun, vùng ngoại ô Belgrade. Cha giải thích cho tôi đức tin kitô giáo và tôi đăng các thông tin của cha trên máy tính. Cha không tìm cách thuyết phục tôi nhưng cho tôi xem thư viện của cha và nói: “Anh có thể lấy tất cả sách nào anh muốn!” Tôi rất thích tinh thần tự do trí tuệ này. Tôi vốn lười biếng, tôi đi lễ mỗi sáng chúa nhật, ngồi hàng giờ trên phương tiện giao thông, trời mưa cũng như trời tuyết. Cuối cùng tôi có một phòng ở đan viện. Khi tôi xin rửa tội, cha Marko ngạc nhiên: “Anh là người Xéc-bi, anh về với chính thống giáo!” Nhưng chính Giáo hội công giáo là nơi tôi muốn ở lại. Tôi nhanh chóng hợp tác và tham gia vào tạp chí giáo xứ. Ngày chúa nhật cha Marko cho tôi vào thư viện đọc để tôi viết các bài bình luận. Một ngày nọ, cha gởi các bài của tôi cho một giáo sư thần học người Crô-a-xi, trích dẫn chúng làm ví dụ. Tôi rất tự hào! Cùng lúc đó, mật vụ Xéc-bi triệu tôi đến và yêu cầu tôi cung cấp tin cho họ. Tôi trả lời: “Không thể được, tôi sắp làm linh mục!”
Khi tôi xin rửa tội, cha Marko ngạc nhiên: “Anh là người Xéc-bi, anh về với chính thống giáo!” Nhưng chính Giáo hội công giáo là nơi tôi muốn ở lại”
Sau khi rửa tội, tôi chỉ muốn là ẩn sĩ trong sa mạc. Dần dần cha Marko khuyên tôi nên làm linh mục. Nhưng không có chủng viện công giáo ở Xéc-bi, và tôi không thể đến Crô-a-xi vì chiến tranh giữa người Xéc-bi và người Crô-a-xi vừa mới chấm dứt. Tôi được gởi đến Szeged ở Hungaria. Ngôn ngữ rất khó để đồng hóa, tôi học tiếng Hy Lạp và Do Thái bằng tiếng Hungaria… Tôi bám vào. Sách Thánh làm tôi mê hoặc. Để chuyên môn hóa, tôi đến Học viện Kinh Thánh Giáo hoàng ở Rôma. Đây là một thử thách. Có quá nhiều linh mục ở Rôma… Tôi nhớ lần đầu tiên khi tôi gặp Viện trưởng, ông khẳng định: “Cha là người ưu tú!” Tôi như bị xúc phạm khi nghe câu này vì giáo dục cộng sản của tôi nói rằng tất cả đều bình đẳng. Đối với tôi, Giáo hội phải là người phục vụ, chứ không phải là người được phục vụ. Nhưng khi Chúa gọi bạn, Ngài ban cho bạn sức mạnh. Tất cả đã thay đổi khi tôi theo chương trình tiến sĩ ở Giáo hoàng Học viện Thánh Tôma Aquinô. Tôi ngạc nhiên vì sự đơn giản và tinh thần cởi mở ở đó. Viện Angelicum (Thiên thần) xứng đáng với tên gọi của mình: tôi ở trong số các thiên thần.
Từ năm 2005, tôi điều hành một trường Kinh Thánh nhỏ ở Belgrade. Tôi bắt đầu với một người, bây giờ tôi có từ 25 đến 40 sinh viên đủ mọi nơi đến. Tôi viết nhiều sách về Kinh Thánh, phân khoa thần học chính thống giáo đã dùng một sách của tôi cho các lớp học của họ. Tôi là linh mục ở nhà thờ Chúa Kitô Vua, một trong các giáo xứ công giáo xưa nhất ở Belgrade. Giờ rảnh tôi chơi pop-rock với cây đàn guitar điện và tôi vẽ trên gỗ các hình tượng!
Thật khó là người Xéc-bi và công giáo. Trong vùng vịnh Balkan, đức tin hòa với quốc gia. Người Crô-a-xi phải là người công giáo, người Xéc-bi phải là người chính thống giáo. Khi tôi ở Szeged, các linh mục Crô-a-xi cố đuổi tôi ra khỏi chủng viện, cho tôi là gián điệp. Ở Belgrade, tôi bị hăm dọa, họ tố cáo tôi phản bội quốc gia Xéc-bi. Thực tế ở Xéc-bi, nhiều linh mục công giáo giảng bằng tiếng Crô-a-xi hoặc tiếng Slovenia. Kết quả là chúng tôi luôn bị coi là người xa lạ. Để thay đổi hình ảnh công giáo, bạn phải suy nghĩ và nói tiếng Xéc-bi. Dù gì chăng nữa, thì không có người Xéc-bi “tinh tuyền!” Mẹ tôi gốc Tiệp; người Sla-vơ tất cả đều pha trộn.
Thời Babel dạy chúng ta, chia rẽ là hình phạt nặng như thế nào. Là tín hữu kitô, chúng ta phải nhắm đến sự hiệp nhất.
Chúng tôi đã phạm một sai lầm khủng khiếp với sự ly khai của giáo phái phương Đông. Tôi biết trong nhiều thế kỷ chiếm đóng của Thổ Nhĩ Kỳ, chính thống giáo đã giúp người Xéc-bi giữ bản sắc của họ. Dù vậy trên bờ biển Dalmatia, ở Crô-a-xi hiện nay và ở Bô-xni có những người Xéc-bi công giáo. Thời Babel dạy chúng ta, chia rẽ là hình phạt nặng như thế nào. Là tín hữu kitô, chúng ta phải nhắm đến sự hiệp nhất. Hiện nay, Đức Giáo hoàng vẫn không thể đến Xéc-bi vì có các xu hướng khác nhau giữa những người phát-xít Crô-a-xi và Giáo hội công giáo. Thần học bị thao túng vì mục đích chính trị. Bất cứ ai lợi dụng các chia rẽ này sẽ bị xét xử nghiêm khắc vì tội ác chống Thần Khí. Vào ngày cuối cùng, người phụ nữ già đã giúp người nghèo sẽ không bị Chúa phán xét về các cuộc cãi vã chia rẽ này!
Linh mục Aleksandar Ninkovic dâng thánh lễ ở nhà thờ Chúa Kitô Vua ở Belgrade. © Tijana Dindi
Linh mục Aleksandar Ninkovic
1963 Sinh tại Belgrade, Nam Tư.
1983 Vào Học viện Quân sự ở Sarajevo.
1988 Rời Quân đội Nhân dân Nam Tư.
1991 Tan vỡ liên bang Nam Tư.
1994 Rửa tội trong Giáo hội công giáo.
1997 Học thần học ở Hungaria.
2008 Từ Rôma về hẳn Belgrade.
Kitô giáo ở Serbia
Từ thế kỷ 13, Giáo hội chính thống giáo độc lập Serbia là người canh giữ linh hồn người Xéc-bi. Bị chủ nghĩa cộng sản đàn áp, Nam Tư thật sự đã sống lại trong những năm 1990 và quy tụ hơn 80% dân số. Giáo hội chính thống giáo Xéc-bi đã trải qua các trào lưu đối thoại thuận lợi với các tín ngưỡng kitô giáo khác, trong đó có thượng phụ Irénée hiện nay, còn các giáo phái khác thì dè chừng hon. Giáo hội công giáo chỉ chiếm 5% dân số là người thiểu số Hungaria, Crô-a-xi và Slovenia ở Belgrade và ở Voïvodine, vùng bắc Xéc-bi. Còn tin lành chỉ chiếm 1% trong thiểu số người Slovaquia và Hungaria và xem thường các chia rẽ sắc tộc.
Marta An Nguyễn dịch
2020
Linh mục da đen Josh Johnson: “Phục sinh của Chúa ở bên cạnh thập giá”
Phẫn nộ về cái chết của ông George Floyd, người da đen bị ông Derek Chauvin, cảnh sát người da trắng ghì cổ chết ở Minneapolis ngày 25 tháng 5, linh mục Josh Johnson lên tiếng. Linh mục Johnson 32 tuổi là con của ông Aaron Johnson Jr., cựu sĩ quan cảnh sát ở Baton Rouge, mẹ là bà Patricia, người da trắng. Linh mục không chống cảnh sát.
Là linh mục, cha Johnson tin vào tha thứ và phục hồi.
Cha nói: “Tôi có một quan điểm khác biệt về mọi sự. Tôi nghĩ Chúa đã tạo ra tôi cho một thời buổi như thời buổi này.”
Kể từ khi chịu chức được 6 năm nay, linh mục Johnson đã nói về các bất bình đẳng chủng tộc. Các thông điệp đầu tiên của cha không có tiếng vang. Cha cho biết: “Khi đó nhiều người nói: ‘Ồ cha Josh, đây không phải là vấn đề lớn.” Bây giờ không ai nói như vậy.
Trong ba năm vừa qua, cha Josh là linh mục ở nhà thờ công giáo Mân Côi ở St. Amant, cha có thể nói thẳng về các đối xử tàn tệ mà người da đen phải chịu. Cha là chứng nhân cho các đối xử ngược đãi mà hôn nhân khác chủng tộc của thân sinh cha phải gánh chịu. Cha cũng bị nghi ngờ khi không mang cổ cồn linh mục. Cha cho biết: “Khi tôi mặc y phục tập thể dục đến phòng tập, lúc nào tôi cũng bị theo dõi. Tôi chỉ là người da đen và tôi bị theo dõi. Có một lần tôi gặp rắc rối với một trong các thành viên của lực lượng cảnh sát, lần khác khi tôi vào một cửa hàng tạp hóa, tôi đi đâu cũng có người đi theo và họ giận dữ ra mặt. Họ nói thẳng vào mặt tôi, họ không muốn có những người như tôi vào cửa hàng của họ.
“Cuối cùng tôi đi ra. Tôi nhớ mình đã nghĩ chuyện gì có thể xảy ra trong tình huống này nếu tôi hỏi họ muốn kiếm chuyện gì. Tôi tự hỏi liệu mình có phải là một trong những người như ông George Floyd không, có thể bị bắt và bị đối xử tàn bạo không. Tôi luôn tự hỏi. Khi tôi xem video và các hình ảnh của những người như ông George Floyd bị giết, tôi bị chấn động. Người này có thể là tôi. Người cảnh sát này không biết cha tôi là ai. Khi tôi bị theo dõi, họ không biết tôi là linh mục. Họ không biết tôi đã làm những gì cho người nghèo trong cộng đồng của tôi.”
Hai tuần trước cái chết của ông Floyd, linh mục Johnson đã thực hiện một “Lời mời gọi cầu nguyện: lần chuỗi để hòa giải chủng tộc”, cha mời gọi tín hữu kitô cầu nguyện cho sự phân chia chủng tộc của quốc gia với sức mạnh sâu đậm như Chúa Giêsu đã cầu nguyện trong Vườn Giếtsêmani trước ngày Ngài bị đóng đinh. Một tuần sau cái chết của ông Floyd, cha có bài thu âm “Kinh cầu của nhiệm thể Chúa Kitô” đã lan truyền mạnh trên các trang mạng xã hội.
Cha Johnson tin rằng người công giáo và các tín hữu kitô khác chịu trách nhiệm về tình trạng của các quan hệ xã hội, khi họ không công nhận và chống lại phân biệt chủng tộc.
Điều ngược lại cũng đúng, cha Johnson nói: “Giáo hội là giải pháp. Nếu giáo hội kết hợp với nhau, trở nên một và thống nhất thì khi đó giáo hội có thể đi ra và biến đổi xã hội.”
Bằng cách nào?
Cha Johnson nói: Bắt đầu bằng cách nhận biết, mỗi người, bất kể chủng tộc mình là gì đều mang hình ảnh của Chúa. Nếu tín hữu kitô nhận ra điều này thì họ sẽ thay đổi cách họ hành động và phản ứng với những người khác họ, nhất là những người thuộc chủng tộc khác chia sẻ cùng đức tin với họ.
Cha Johnson cũng xin các tín hữu kitô tìm các tiếng nói khác và lắng nghe thay vì nói. Cha kêu gọi mọi người đọc các trang mạng xã hội có các ý tưởng khác ý tưởng của họ, đi mua sắm ở các nơi khác của thành phố để gặp và nói chuyện với những người thuộc các chủng tộc khác, xem các phim tài liệu về các định kiến xã hội.
“Đôi khi tôi nghĩ những gì xảy ra như thử chúng ta sống trong các phòng vang vọng, chúng ta chỉ thấy và nghe những người giống chúng ta, suy nghĩ và hành động như chúng ta, nên ‘đâu là vấn đề?’. Khi chúng ta đi ra khỏi căn phòng vang vọng này, chúng ta sẽ nhận ra có nhiều điều hơn nữa.”
Nếu tín hữu kitô biết lắng nghe, họ có thể tìm giải pháp cho các chính sách và những cách hành động gây chia rẽ.
Linh mục Johnson nhớ lại cách Tổng Giám mục Alfred Hughes, giáo phận New-Orléans, khi ngài biết tin có một câu lạc bộ thỉnh thoảng tổ chức các sự kiện tôn giáo đã không cho các thành viên người da đen tham dự. Tổng Giám mục đã gởi một thư mục vụ cho toàn giáo phận nói rằng, không một sự kiện công giáo nào được tổ chức ở một nơi áp dụng các quy tắc loại trừ. Từ đó, câu lạc bộ đó đã thay đổi quy tắc.
Theo cha Johnson, đó là dấu chỉ khích lệ mà các thành viên của giáo xứ chủ yếu là người da trắng đã phản ứng tích cực với thông điệp của giám mục. Ngài muốn các bạn da đen của mình cũng được nâng đỡ.
Cha Johnson nói tiếp: “Và đó là thông điệp hy vọng mà tôi luôn nói với các anh chị em da màu của tôi. Anh em không ở một mình. Tôi ở với anh em, nhưng Chúa Kitô cũng ở với chúng ta. Ngài gần với các quả tim bị tan vỡ lúc này. Trái tim của chúng tôi bị tan vỡ và đã từ rất lâu. Nhưng sự phục sinh của Chúa ở ngay bên cạnh thập giá. Đúng vậy. Và đó là thông điệp của hy vọng – tang tóc và hy vọng.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2020
Đức Giám mục Phi châu Frank Nubuasah, giáo phận Botswana khóc George Floyd, bạn của ngài
Đức Giám mục Frank Nubuasah, giáo phận Gaborone, Botswana viết thư vĩnh biệt George Perry Floyd Jr., người ngài đã gặp trong những năm 1990.
Trong những năm 1990, khi ở Mỹ Đức Giám mục Frank Nubuasah đã gặp và kết bạn thân tình với George Floyd và gia đình anh. Giám mục Frank sinh ở Ghana, ngài cho biết ngài nhớ “nụ cười lây lan của George.”
George Floyd (14-10-1973 – 25-5-2020), người to cao là người Mỹ gốc Phi bị cảnh sát giết, cái chết của ông đã gây phẫn nộ trên toàn nước Mỹ và trên thế giới. Các cuộc biểu tình yêu cầu cảnh sát ngưng các hành động bạo lực trên người da đen. Cảnh sát người da trắng Derek Chauvin đã giết ông Goerge Floyd khi ông đã bị bắt, đã bị còng tay, đã nằm xuống đất, ghì cổ ông Floyd gần 9 phút dù ông đã van xin “tôi không thở được”.
Đức Giám mục Frank Nubuasah cho biết ngài đã gặp ông George Floyd trong một trận bóng chày ở Sân vận động Three Rivers, Pittsburgh, Mỹ, khi đó George mới 20 tuổi. Ngài cho biết: “Chúng tôi cùng thảo luận với nhau và trở thành bạn với nhau.”
Đây là bức thư của Đức Giám mục Frank Nubuasah
George Floyd thân mến,
Chào một ngày tốt lành.
Cha không biết bây giờ là mấy giờ ở vương quốc của Chúa. Nhưng cha nhớ rất rõ buổi gặp đầu tiên của chúng ta. Đó là ở trận bóng chày. Con mặc quần jean xanh, áo T-shirt, đội mũ kết, một tay cầm cốc giấy Coca thật to, tay kia là túi bắp nướng. Cha ngồi ở đó và con đến sau. Khi đó là ở Pittsburgh cũng đã rất nhiều năm. Con mới ngoài 20. Chúng ta nói chuyện với nhau và trở thành bạn của nhau.
Trong hoàn cảnh này, đây sẽ là lần liên lạc cuối cùng của cha với con ở “vùng đất của người sống”, vùng đất đã không cho con có quyền sống. Làm thế nào cha có thể quên con được hả George? Nét mặt của con quá đặc biệt, mũi to, môi dày, nét đặc biệt của người Phi châu. Cha biết, con luôn nói với cha, con không phải là người Phi châu nhưng là người Mỹ gốc Phi. Hai tiền đề rất quan trọng với con mà con không muốn mất cái nào. Hai chân con vững chắc trong hai truyền thống. Giữa hai bàn chân con là giòng nước Đại Tây Dương. Và con không bao giờ băng qua được!
Một trong những điều cha trân trọng nhất ở con là nụ cười lây lan của con. Như thử coronavirus đã dạy cho con bằng cách nào con làm lây lan cho mọi người. Quả tim của con rộng lớn và đủ sức đón nhận mọi người. Con luôn luôn là như vậy, luôn đưa tay ra cho người khác. Đúng vậy, con có thể chạy một ngàn dặm cho bất cứ ai. Chạy, con đã chạy cho cha nhiều dịp, nhưng đây là chuyện cha sẽ kể vào một dịp khác.
Lòng cha nặng trĩu khi cha ngồi trong góc cầu nguyện để viết thư cho con, biết rằng nhiều người khác sẽ đọc chứ không phải con. Đôi mắt của con đã nhắm và không mở lại, nhưng không đúng, đôi mắt của con sẽ mãi mãi nhìn thấy ngọn lửa mà cái chết của con đã làm bùng lên. Cuộc cách mạng mà cái chết hy sinh của con đã truyền cảm hứng, các phong trào và liên minh mới chống phân biệt chủng tộc, chống chủ nghĩa giai cấp, chống phân biệt đối xử đang gia tăng. Con đã thắp một ngọn lửa cho hòa bình và cho thay đổi. Vậy thì bạn của cha, khi con nghe lời hát “đúng, chúng tôi có thể”, con biết tất cả đang hát vì con và cho con. Con đã ra đi, nhưng còn rất nhiều người ở đây! Ở châu lục mẹ, mọi người sẽ gọi tên con, người đã chết nhưng vẫn còn sống.
Cha nhớ kỳ nghỉ hè với con và các bạn của con. Quincy là cậu bé trai khi đó. Và chúng ta đã ăn ăn thịt nướng với nhau trong các buổi tối mùa hè. Cha nghĩ người Nam Phi chúng ta ăn rất nhiều thịt, con thích ăn thịt tái, cha thích ăn thịt chín. Con đưa cha đi xem đá banh, không phải đá banh kiểu Mỹ nhưng đá banh thật sự, kiểu nhẹ nhàng. Ồ, con chán đến tận xương. Con thích đá banh theo kiểu của con. Tất cả đã là nước chảy qua cầu, cây cầu Three Rivers gần sân vận động khi chúng ta gặp nhau lần đầu.
Theo lời mời của cha, con đã lên kế hoạch về thăm quê hương, về thăm gốc rễ của mình. Cha đề nghị con tham dự lễ hội liên văn hóa Phi châu (PANAFEST) ở Ghana, rồi con sẽ đi thăm vùng đất xinh đẹp Botswana với cha. Cha sẽ đưa con đi xem sở thú có các động vật sống trong thiên nhiên. Con sẽ đi thăm cánh đồng gia súc và ruộng cày, thưởng thức món thịt thăn của vùng Seswaa. Con sẽ không đến đây bằng xương bằng thịt, như thế chương trình của cha sẽ ở trong băng đá lạnh.
Với khí hậu nóng lên, biết đâu băng sẽ tan chảy và cha sẽ được xem lại các chương trình của cha. Ai biết được, Quincy sẽ có thể nhìn nét đẹp tuyệt vời của người phụ nữ đã bồng cha ngày đêm, nuôi nấng cha. Bà luôn nâng đỡ cha. Người phụ nữ Botswana này là nhà cho mọi người. Làm thế nào con bỏ lỡ chuyến thăm chúng ta đã lên kế hoạch từ lâu? Lòng cha đau nhói. Cha viết thư này cho con như một cơ chế thích ứng với trị liệu mà cha đã học cách đây nhiều năm khi cha gặp con ở Pittsburgh. Đời sống của con đã bị cắt. Con đã tạo một kỷ lục khi chết dưới mắt mọi người và không phải do tai nạn. Sự kiện đã thâu lại cho hậu thế. Con không thấy con là người cao cả sao? Ồ, cha thích các điện thoại cầm tay biết bao! Không ai thoát khỏi tội ác mà không bị trừng phạt, bằng chứng đã lan truyền trên các phương tiện truyền thông xã hội. Hệ thống tư pháp hình sự có thể làm con thất vọng nhưng quan điểm quần chúng sẽ biết sự thật.
Thăm dò ý kiến quần chúng cho biết hai phần ba người dân nước của con ủng hộ cuộc cách mạng bắt đầu sau cái chết của con. Bây giờ con đã thấy “lối vào âm phủ” (G 38; 17), con đã trả lời cho cuộc gọi của con, dù hơi sớm. Cha nghĩ những người ở trên thiên đàng đang chờ con. Cha chào từ giã người em trai của một bà mẹ khác của cha ở Mỹ. Chúng ta sẽ gặp lại nhau.
Lúc này cha đang giận vì cha là con người, cha không bao giờ nghĩ con người lại xuống thấp như vậy. Một sự chào đón vô cùng lớn lao đang chờ con ở nhà của Cha, cha hy vọng Coca và bắp nướng cũng có ở đó. Con chỉ còn một nhiệm vụ nữa để làm. Đó là chuẩn bị đón bốn vị đã giết con khi đến giờ của họ và chỉ cho họ thấy họ đang ở nơi vui vẻ mà chúng ta gọi là thiên đàng. Bà Michelle Obama đã nói, khi họ xuống thấp, chúng ta lên cao.
George, cha nhớ con. Bây giờ con có thể thở mãi mãi hơi thở của tình yêu.
An nghỉ bình an!
Giám mục Frank Nubuasah, Dòng ngôi Lời
Gaborone Botswana
Ngày 4 tháng 6 – 2020
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch