2023
Chuỗi Mân Côi từ nhựa tái chế thu gom ở đại dương được phát tại Đại hội GTTG Lisbon
Ngân hàng Nhựa, một doanh nghiệp xã hội có trụ sở tại Vancouver, đã tạo ra một thị trường cho riêng mình bằng cách biến rác thải nhựa thành những đồ vật có giá trị. Sứ vụ của họ vừa hạn chế lượng rác thải nhựa bị ném xuống đại dương đồng thời giải quyết vấn đề nghèo đói bằng cách biến nhựa trở thành một nguồn tài nguyên quý giá không nên bị vất bỏ.
Quan tâm đến trái đất
Ông Peter Nitschke, người đứng đầu bộ phận Đối tác Cộng đồng của Ngân hàng Nhựa cho biết rằng trong số 1.000 tràng hạt được thực hiện, 100 chuỗi đã được phân phát vào Đại hội Giới trẻ Thế giới và nhận được phản hồi rất tích cực. Ông hy vọng rằng những chuỗi Mân Côi độc đáo này sẽ hợp với sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thông điệp Laudato si’, kêu gọi công dân toàn cầu quan tâm đến hành tinh này.
Sáng kiến ra đời
Sáng kiến này được bắt đầu cách tình cờ. Ông Nitschke kể: “Khi ông Taylor Cannizzaro, Giám đốc Văn phòng về các mối quan hệ, đang trên đường đến Roma để thảo luận về quan hệ đối tác tiềm năng giữa Ngân hàng Nhựa và Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện của Vatican, đã tình cờ gặp gỡ một hành khách đồng hành, một người làm tràng hạt, và đã có ý tưởng sáng tạo về việc làm tràng hạt từ nhựa gom ở các đại dương.”
Quá trình này lấy cộng đồng làm trung tâm. “Người dân địa phương thu gom rác thải nhựa từ nhiều nguồn khác nhau, từ các khu vực ven biển đến các khu dân cư đô thị. Điều này không chỉ giúp làm sạch môi trường mà còn thúc đẩy các cộng đồng này phát triển kinh tế.” Sau khi được thu gom, nhựa được chế biến, cuối cùng được tạo thành những sản phẩm khác nhau, bao gồm cả chuỗi tràng hạt.
Ý nghĩa xã hội của sáng kiến
Sáng kiến này cũng có ý nghĩa xã hội. “Những chuỗi Mân Côi này được các tù nhân ở Nhà tù Thành phố Manila làm thủ công cách tỉ mỉ, như một phần của chương trình đặc biệt của Cục Quản lý Nhà tù Philippines. Chương trình này cung cấp cho các tù nhân, được định nghĩa là những người bị tước đoạt quyền tự do, con đường phát triển kỹ năng và cơ hội có thu nhập.” (ACI Stampa 19/08/2023)
2023
Sự sùng kính Mẹ Maria và đức tin ở Nhật Bản
Jean-François Thomas, sj
– Công cuộc truyền giáo ở Nhật Bản sẽ không thể hiểu được nếu không có Mẹ Thiên Chúa. Từ thời thánh Phanxicô Xaviê, qua thời linh mục Maximilien Kolbe, Đức Trinh Nữ luôn hiện diện. Khi thiếu linh mục, chính nhờ Đức Maria mà các Kitô hữu đã bảo vệ được kho báu đức tin.
Lễ Mông Triệu là một lễ kính quan trọng ở Pháp, vì nước Pháp đã từng được dâng hiến cho Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời; tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời đã mang lại muôn ơn lành cho khắp thế giới, điều này diễn ra ngay cả trước khi được giáo quyền công bố.
Toàn bộ các tín điều về Đức Mẹ và sự sùng kính dành cho Mẹ Thiên Chúa đã đóng góp rất lớn cho việc loan báo Tin Mừng và lòng trung thành với đức tin, đặc biệt trong những giai đoạn bị bách hại.
Một ví dụ đặc biệt đáng nói trong muôn vàn ví dụ, đó là sự xuất hiện, hình thành, phát triển và thử thách của đức tin Công giáo ở đế chế Mặt Trời Mọc.
Ảnh Đức Mẹ ẵm Chúa Hài Đồng
Khi Thánh Phanxicô Xaviê lên thuyền đi từ Malacca đến Nhật Bản cùng với cha Cosme de Torrès và thầy dòng Jean Fernandez, cùng Yagiro – một thương nhân Nhật được ngài giúp trở lại Kitô giáo với tên thánh là Phaolô, ngài đã phải trải qua trận chiến nội tâm với ma quỷ, cụ thể là ngài đã cần phải suy niệm nhiều về ‘Hai Ngọn Cờ’ trong chương trình Linh Thao.
Những thử thách và thảm kịch không hề thiếu trên đường đi, và việc ngài đến được Nhật Bản vào ngày 15-8-1549, được xem như đặc biệt nhờ ơn Chúa quan phòng, đúng 15 năm sau ngày các tu sĩ đồng hành với thánh Inhaxiô Loyola tuyên khấn ở Paris, tại Montmartre nơi thánh Denis tử đạo.
Vừa cập bến ở Kagoshima, ngài bắt tay ngay vào việc giảng đạo, giúp cho nhiều người trở lại đạo và lãnh các bí tích. Ngài chỉ ở quần đảo này hơn hai năm một chút – vì ngài mau chóng hiểu rằng phải loan báo Tin Mừng ở Trung Hoa trước khi đưa nước Nhật về với Chúa -, tuy vậy ngài vẫn để lại đàng sau những cộng đoàn có đức tin rạng ngời.
Được phong làm Sứ thần Tòa Thánh ở các xứ Ấn Độ, một trong những động thái đầu tiên của ngài là gặp gỡ Takahisa Shimazu, lãnh chúa ở vùng đó.
Anjiro, người thông dịch (cuối đời lại trở thành hải tặc!) – có đem theo ảnh Đức Mẹ ẵm Chúa Hài đồng gây ấn tượng mạnh với ông hoàng và người thân của ông đến độ ông tôn sùng ảnh và cho phép thần dân của mình tự do chọn lựa theo đức tin Công giáo. Mẹ ông hoàng còn xin thêm một bức ảnh Đức Mẹ. Như vậy rõ ràng Đức Mẹ đã mở cửa nước Nhật đón ánh sáng chân lý.
Những Kitô hữu ‘ẩn trốn’
Khi những vụ bách hại khủng khiếp bắt đầu vào năm 1597, giết hại hàng chục ngàn tín hữu, đầu tiên là 26 vị tử đạo ở Nagasaki, trong đó có thánh Phaolô Miki, tất cả những người bị nghi là môn đệ của Đức Kitô, đều bị buộc phải bước qua ảnh Thánh giá hay ảnh Đức Mẹ nhằm thử thách sự vững tin của họ. Những kiểu tra tấn thì rất tinh vi, đáng sợ, nhưng rất nhiều người vẫn có khả năng trung thành và đổ máu vì Chúa của mình nhờ gắn bó với Mẹ Maria.
Ngày nay, tại nhiều đền thánh và bảo tàng viện, vẫn còn đó những chứng tích cảm động về sự bất khuất hay yếu đuối của những tín hữu đang cận kề cái chết đau đớn. Những độc giả của tiểu thuyết ‘Sự Im Lặng’ (1966) của Shusaku Endo cùng bộ phim điện ảnh chuyển thể của Masahiro Shinoda và Martin Scorsese, hẳn đã thấy những cảnh được tái dựng một cách tuyệt vời về những dằn vặt tinh thần và thể xác của những người Công giáo – linh mục và giáo dân – bị kẹt trong cơn bách hại, dẫn đến việc đóng cửa hoàn toàn nước Nhật trong 250 năm.
Những Kitô hữu ‘ẩn trốn’ sống lay lắt như vậy, cô độc, không hàng giáo phẩm, không bí tích ngoài bí tích rửa tội mà họ cử hành cho con cái mình, hàng thế kỷ cách ly khỏi thế giới bên ngoài. Lúc đó họ giấu ảnh của Đức Mẹ dưới hình thức một nữ thần ngoại giáo, truyền tai nhau vài câu kinh, trong đó có kinh Kính Mừng, truyền dạy cho thế hệ kế tiếp rằng một ngày nào đó, có thể các linh mục sẽ quay lại và họ sẽ được nhìn nhận, đặc biệt nhờ tình yêu họ dành cho Đức Mẹ Chúa Trời.
Năm tháng trôi qua và các Kitô hữu ‘ẩn trốn’ đó đã sống sót được bằng cách tập hợp nhau trên vài hòn đảo ở phía tây Kyushu, sống theo lịch phụng vụ mà các linh mục truyền gíao để lại cho họ.
Năm 1853, Nhật chấm dứt lệnh bế quan tỏa cảng khi các hoàng đế có lại toàn quyền và thủ đô được dời từ Kyoto về Tokyo.
Hội Truyền giáo hải ngoại Paris gởi đi những linh mục đầu tiên, trong đó có Đức Giám mục Bernard Petitjean; ngài đã xây dựng thánh đường Các Vị Tử Đạo ở Nagasaki, đền thờ Oura trên đồi Urakami.
Năm 1865, một năm sau công trình xây cất ấy, vị truyền giáo này kinh ngạc khi tiếp đón một số ‘Kitô hữu ẩn trốn’ nói trên, là những nông dân ở quanh vùng; họ thận trọng đến xem thử những linh mục ngoại quốc này có phải thật là Công giáo không. Họ yêu cầu được xem tượng Đức Trinh Nữ và nhận ra đúng là Đức Bà mà họ hằng không ngừng tôn kính. Như vậy Đức Bà đã khai trương cách ngoạn mục công cuộc loan truyền Tin Mừng lần thứ hai ở nước Nhật, đầy chông gai với những cuộc bách hại mới.
Sử thi Mẹ Maria ở Nagasaki
Năm 1930, một tu sĩ dòng Phan Sinh viện tu từ xứ Ba Lan xa xôi đã đến đây cùng với 4 huynh đệ, đó là cha Maximiliano Maria Kolbe.
Năm 1917, lúc đang ở Rôma, cha Kolbe đã thành lập Đạo Binh của Mẹ Vô Nhiễm, một phong trào cầu nguyện và truyền giáo của Đức Mẹ.
Ở Ba Lan, tại Niepokalanov, ngài thành lập một “Thành phố của Mẹ Vô Nhiễm” nơi ngài điều hành một cộng đoàn tu sĩ lớn nhất thế giới: 800 thầy dòng.
Tuy nhiên, ngài còn quyết định lan rộng công cuộc này, chọn Nhật Bản để thực hiện và đưa gia đình Phan Sinh viện tu vào, một cộng đoàn mà ngài gắn bó.
Ngài mua một miếng đất nằm hơi xa thành phố, địa thế không tốt trước sự ngạc nhiên của mọi người, để thành lập một Thành phố Mẹ Vô Nhiễm nho nhỏ, một nơi để sống chiêm niệm. Sự chọn lựa này tỏ ra chí lý và hợp ý Chúa vì tu viện sẽ không suy suyển khi bom nguyên tử thả xuống Nagasaki.
Vì đã bị bệnh lao, ngài được một bác sĩ người Nhật chăm sóc – là người sau năm 1945 đã trở nên nổi tiếng thế giới: bác sĩ Takashi Nagai.
Chỉ một tháng sau khi đến Nhật, ngài đã cho xuất bản số đầu tiên của tạp chí Hiệp Sĩ của Mẹ Vô Nhiễm, bằng tiếng Nhật.
Vị tu sĩ ngoại lệ này, người đã hy sinh đời mình ở trại tập trung Auschwitz để cứu một người tù khác, đã chết vì đói khát trong một boong ke, hôm trước lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên Trời, ngày 14-8-1941. Người đầy tớ này của Mẹ Vô Nhiễm đã tận hiến cách hoàn hảo.
Sử thi Đức Maria ở Nagasaki không chỉ dừng lại ở năm 1936 khi cha Kolbe trở lại Ba Lan. Vào ngày 9-8-1945, lúc 11g02, khi các tín hữu Công giáo ở đây đang chuẩn bị lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, chủ yếu bằng việc xưng tội, thì quả bom nguyên tử nổ ngay bên trên khu vực Kitô giáo, cách Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm vài bước chân. Tám ngàn giáo dân của họ đạo này đã chết tại chỗ, không kể vô số người bị bỏng và bị nhiễm xạ sẽ chết trong những năm kế tiếp.
Vợ của bác sĩ Nagai cũng mất trong đám cháy. Bản thân ông thì bị thương và bị nhiễm phóng xạ, qua đời năm 1951 vì bệnh ung thư máu, nhưng đã dùng những năm còn sống để diễn thuyết về hòa bình.
Trở thành người Công giáo từ khi gặp cha Kolbe, ông rút tỉa được bài học thiêng liêng từ thảm họa; khi lên tiếng trong thánh lễ Cầu Hồn, được cử hành trước tàn tích ngôi Nhà thờ chính tòa ngày 23-11-1945, ông đã so sánh những nạn nhân như của lễ hiến tế để ghìm bớt chiến tranh.
Cuốn sách ông viết, Những Quả Chuông Nagasaki, được dịch ra nhiều thứ tiếng, là chứng tá cho đức tin, niềm hy vọng và lòng bác ái. Người ta rất cảm động khi nhìn thấy tượng Đức Mẹ rất thánh đặt ở chỗ danh dự trong “căn phòng ẩn sĩ” nhỏ xíu, nơi ông sống liệt giường suốt 5 năm. Ông trút hơi thở cuối cùng ngay ngày đầu tiên của tháng Đức Mẹ.
Đức Trinh Nữ luôn chiến thắng
Rất nhiều câu chuyện nho nhỏ khác có thể được thêm vào sau những câu chuyện hạt giống đầu tiên này vì chuỗi tràng hạt sống ở Nagasaki không thể đứt đoạn và sẽ tiếp tục sinh hoa kết trái.
Khi đứng trước những tàn tích năm 1945, một khán giả nguội lạnh hay không có đức tin có thể chiêm nghiệm những lời này trong sách Khải Huyền (Ap 18, 18-19):
Họ la lớn khi nhìn thấy khói từ trận hỏa hoạn. Họ nói: “Thành phố nào có thể sánh bằng thành phố lớn này?” Vừa phủ tro bụi lên đầu, vừa khóc trong nước mắt tang tóc, họ nói: “Khốn thay! khốn thay! Thành phố lớn này, đã từng làm giàu cho tất cả những ai có tàu ngoài biển: trong một giờ, nó đã bị tàn phá!”
Nhưng Đức Nữ Đồng Trinh rất thánh, Đấng vô nhiễm nguyên tội, Hồn Xác lên Trời, sẽ luôn chiến thắng và sẽ đưa lên thiên đường cùng Bà toàn bộ những người tử đạo và các tín hữu, trước mũi mọi quỷ ma.
Chuyển ngữ: Lê Hưng
2023
Học Thuyết Xã Hội và Tính Hiệp Hành
Học thuyết xã hội mang tính hiệp hành sâu xa. “Các phong trào Công giáo Tiến hành, trong lịch sử của mình, đã phát triển các thực hành hiệp hành thực sự, đặc biệt là trong đời sống đồng đội vốn hình thành nên nền tảng cho kinh nghiệm của anh chị em. Giáo hội của chúng ta cũng đã hoàn toàn dấn thân vào một hành trình hiệp hành, và tôi trông chờ vào sự đóng góp của anh chị em”. (Phanxicô, 2022).
Tính hiệp hành
Học thuyết xã hội của Giáo hội, một đặc quyền của toàn thể cộng đồng
Học thuyết xã hội mang tính hiệp hành sâu xa nếu chúng ta thừa nhận, với cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, rằng “Học thuyết xã hội là của Giáo hội bởi vì Giáo hội là chủ thể xây dựng, phổ biến và giảng dạy học thuyết đó. Nó không phải là đặc quyền của một bộ phận trong cơ thể Giáo hội, mà là của toàn thể cộng đồng: nó là sự diễn tả cách thức mà Giáo hội hiểu về xã hội và xác định mình đối với những cơ cấu và những thay đổi của nó. Toàn thể cộng đồng Giáo hội – linh mục, tu sĩ và giáo dân – góp phần làm nên học thuyết xã hội, tùy theo sự đa dạng của các bổn phận, đặc sủng và thừa tác vụ trong Giáo hội.”[1]
Về mặt lịch sử, học thuyết xã hội của Giáo hội được hình thành khi các Đức Giáo hoàng từ bỏ can thiệp trực tiếp vào các vấn đề thế tục và các Nước trực thuộc Tòa Thánh chỉ còn như là một “miếng da lừa”. Thông điệp của các ngài giờ đây khuyến khích các giám mục và giáo dân tham gia vào vấn đề xã hội.
Nhưng trung tâm của học thuyết xã hội của Giáo hội vẫn được cấu thành chủ yếu bởi các lập trường của Vatican. Trong các thông điệp xã hội, từ “phân định” ít khi xuất hiện, ngoại trừ qua công thức được Công đồng Vatican II công nhận: “tìm hiểu kỹ lưỡng các dấu chỉ thời đại” (GS 4). Tuy nhiên, Đức Thánh Cha Phanxicô thực hiện bước ngoặt đầu tiên bằng cách trích dẫn các Hội đồng Giám mục[2]. Họ làm rõ hơn nguồn gốc được thể hiện bằng kinh nghiệm địa phương và công việc phân định tập thể được thực hiện.
Giáo dân được mời gọi phân định
Thượng hội đồng về tính hiệp hành đánh dấu một bước ngoặt mới. Bài phát biểu khai mạc về tiến trình hiệp hành kêu gọi tất cả các Kitô hữu hãy phân định: “Xin cảm ơn anh chị em đã có mặt tại buổi khai mạc Thượng Hội đồng. Anh chị em đã đến bằng nhiều con đường khác nhau và thuộc về nhiều Giáo hội. Mỗi người mang trong lòng những câu hỏi và hy vọng. Tôi chắc chắn rằng Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta và ban cho chúng ta ân sủng để cùng nhau tiến bước, lắng nghe nhau và khởi xướng một sự phân định về thời đại của chúng ta, bằng cách trở nên liên đới với những nỗ lực và ước muốn của nhân loại.” Đây không còn chỉ là vấn đề thực hiện học thuyết xã hội của Giáo hội do hàng giáo phẩm nghĩ ra, nhưng là đưa giáo dân vào chính sự phân định của Giáo hội.
Khi tiếp các phong trào Công giáo Tiến hành Pháp vào ngày 13 tháng 1 năm 2022 tại Rôma, Đức Thánh Cha đã trả lời cho một tài liệu dài 16 trang được cấu trúc xung quanh bộ ba: “xem, xét, hành động”. Về điểm thứ hai, Đức Thánh Cha Phanxicô nói một cách minh nhiên: “Trong cuộc gặp gỡ giữa một bên là các biến cố của thế giới và cuộc sống của chúng ta, bên kia là Lời Chúa, chúng ta có thể phân định những tiếng gọi của Chúa dành cho chúng ta.”[3]. Ngài nói thêm: “Các phong trào Công giáo Tiến hành của anh chị em, trong lịch sử của mình, đã phát triển các thực hành hiệp hành thực sự, đặc biệt là trong đời sống đồng đội vốn hình thành nên nền tảng cho kinh nghiệm của anh chị em. Giáo hội của chúng ta cũng đã hoàn toàn dấn thân vào một hành trình hiệp hành, và tôi trông chờ vào sự đóng góp của anh chị em.”
Các phong trào Giáo hội sống hiệp hành
Sau lá thư [của Đức Phanxicô] gửi Dân Chúa (24/8/2018)[4], khoảng năm mươi tổ chức và phong trào của Giáo hội đã thành lập Tập thể “Promesses d’Église” (Những hứa hẹn của Giáo hội)[5]. Thông qua đó, họ đóng góp cho Thượng hội đồng. Cách tiếp cận này rèn luyện sự phân định chung, bắt đầu từ chính các phong trào. Việc rèn luyện các thành viên về sự phân định cá nhân và tập thể có thể giúp họ đóng góp vào cách thức mới mẻ “tạo ra” học thuyết xã hội.
Chuyển ngữ: Tý Linh
Theo nhật báo CERAS (02.08.2023)
Nguồn: xuanbichvietnam.net (19.08.2023)
[1] Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình, Tóm lược học thuyết xã hội của Giáo hội, 2008, §79.
[2] Thông điệp Laudato Si’ trích dẫn 6 HĐGM : Nam Phi, Phi Luật Tân, Afrique du Sud, Philippines, Hoa Kỳ, Canada, Úc, châu Mỹ Latinh và Caribe. Thông điệp Fratelli tutti trích dẫn 10 HĐGM.
[3] Diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô cho các vị hữu trách Công giáo Tiến hành Pháp, ngày 13/1/2022.
[4] Trong lá thư này, Đức Thánh Cha khẳng định rằng “điều cần thiết là mỗi người đã được rửa tội cảm thấy dấn thân cho sự biến đổi giáo hội và xã hội mà chúng ta rất cần” và “không thể tưởng tượng được một sự hoán cải của hoạt động của Giáo hội mà không có sự tham gia tích cực của mọi thành phần Dân Thiên Chúa” (ctcnd).
[5] Chẳng hạn https://www.promessesdeglise.fr/ bao gồm: Tổ chức CCFD-Terre Solidaire, Kitô hữu ở Thế giới Nông thôn, Emmanuel, Chemin Neuf, Cộng đồng Đời sống Kitô hữu, Hội đồng Tu sĩ Pháp, Doanh nhân và Lãnh đạo Kitô giáo, Fondacio, Phong trào Kitô hữu của các Cán bộ và Lãnh đạo (MMC), Phong trào Hướng đạo Pháp, Cứu trợ Công giáo, Ban Tổng thư ký Giáo dục Công giáo, v.v.
2023
Các Giám Mục Pháp quan tâm đến cuộc cách mạng kỹ thuật số
Các Giám Mục Pháp quan tâm đến cuộc cách mạng kỹ thuật số
CÁC GIÁM MỤC PHÁP
QUAN TÂM ĐẾN CUỘC CÁCH MẠNG KỸ THUẬT SỐ
Juliette Vienot de Vaublanc
Trong số tháng 7/2023 của tạp chí Documents Episcopat, các Giám mục Pháp quan tâm đến những hậu quả đạo đức của cuộc cách mạng kỹ thuật số và chất vấn về vị trí của Giáo hội trong những biến đổi đang diễn ra.
Sự gia tăng tài khoản của các linh mục hay tu sĩ trên mạng xã hội, sự xuất hiện của những rôbốt đàm thoại trả lời các câu hỏi thần học… Không thiếu những dấu hiệu cho thấy ảnh hưởng ngày càng tăng của công nghệ kỹ thuật số đối với đời sống của Giáo hội Công giáo.
Để làm sáng tỏ những phát triển công nghệ gần đây, Hội đồng Giám mục Pháp (CEF) đã dành số mới nhất của tạp chí Documents Episcopat, “Kitô hữu trong cuộc cách mạng kỹ thuật số, các công trường xây dựng cho Giáo hội”, được xuất bản vào cuối tháng Bảy.
Một công cụ “tiên nghiệm không tốt cũng không xấu”
Trong số này, từ phần giới thiệu, các tác giả tìm cách làm sáng tỏ việc sử dụng kỹ thuật số, một công cụ “tiên nghiệm không tốt cũng không xấu”, dưới ánh sáng của “sự khôn ngoan trong Kinh thánh và các truyền thống tôn giáo”, để thúc đẩy việc sử dụng đúng đắn công nghệ này. Những phân tích này được bổ sung bởi những chứng thực, chẳng hạn như của Bruno Tardieu, người đã dạy tin học cho những người trẻ tuổi ở một khu phố nghèo của New York vào những năm 1980.
Mục tiêu của số báo này là đầy tham vọng, vì có rất nhiều câu hỏi đặt ra khi sử dụng các công cụ kỹ thuật số. Phần giới thiệu chất vấn: “Làm thế nào Internet, trí tuệ nhân tạo, thuật toán, các đối tượng được kết nối, v.v. chúng có định hình cách sống, cách giao tiếp, cách tham gia vào các mối quan hệ, cách thu thập thông tin, cách quyết định, cách hành động của chúng ta không? (…) Chúng có giúp củng cố mối liên kết giữa con người với nhau không? Chúng có góp phần vào việc nhân bản hóa và tiếp tục công trình sáng tạo không?”
Để nuôi dưỡng những suy tư này, Bernard Jarry-Lacombe, đặc trách Dịch vụ Gia đình và Xã hội Quốc gia của CEF, bắt đầu bằng cách gợi nhớ lại các giai đoạn chính của sự phát triển kỹ thuật số, từ sự xuất hiện của Web đến sự khởi đầu của metaverse (vũ trụ ảo). Tác giả cuốn sách “Vì một công nghệ số phục vụ công ích ”[1] nhấn mạnh “những tác động nghịch lý và gây bất ổn” của nó: “Mọi thứ đều được biến đổi: mối tương quan với thời gian, bị xáo trộn bởi khả năng tăng tốc, tức thời, đồng thời, đa hoạt động, mối tương quan với không gian và thế giới vật chất được biến đổi bởi GPS và thực tế ảo, mối tương quan với máy móc, mối tương quan với bản thân và nội tâm, với thế giới, với những người khác”.
Các vấn đề đạo đức và nhân chủng học
Tiếp đến, các tác giả phân tích những vấn đề đạo đức và nhân học của những thay đổi này dưới lăng kính của đức tin Kitô giáo, học thuyết xã hội của Giáo hội và các kinh nghiệm của Giáo hội.
Chẳng hạn, cha Thierry Magnin, hiệu trưởng của Đại học Công giáo Lille, quan tâm đến các vấn đề nhân chủng học về mối quan hệ mới giữa con người và máy móc. Nhà thần học và vật lý học này cảnh báo: “Khi con người ít nhiều tự nguyện giao quyền quyết định cho máy móc, thì một hình thức phi nhân hóa sẽ xuất hiện”.
Bất chấp những lời phê bình này, các tác giả không kêu gọi từ bỏ các công nghệ mới. Như Đức Giám mục Bruno Feillet, Giám mục Giáo phận Séez và Chủ tịch Hội đồng Gia đình và Xã hội của CEF, đã nhắc lại trong phần mở đầu: “Giáo hội đã không ngừng sử dụng các phương tiện truyền thông của thời đại. Từ những con đường Rôma được sử dụng bởi thánh Phaolô đến các băng thông Internet. (…) Không có lý do gì để nó dừng lại”.
Đặc biệt là vì công nghệ kỹ thuật số cũng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền tải các thông điệp Thánh Kinh, như Cha Vincent Cardot cho thấy. Vị linh mục kể lại trong tạp chí kinh nghiệm của mình với tư cách là một “người có ảnh hưởng” Công giáo trên mạng xã hội. Cha thừa nhận: “Thật khó để nói trường hợp này dẫn đến đâu”. “Trên TikTok, các bạn trẻ đang tìm kiếm Chúa Kitô“, Cha nhận xét và đồng thời lấy làm tiếc về một “hiệu ứng tràng kỉ” nào đó của màn hình, vốn “không nhất thiết khiến chúng ta chuyển động”.
Chuyển ngữ: Tý Linh
Theo nhật báo La Croix (17.08.2023)
Nguồn: xuanbichvietnam.net (18.08.2023)
[1] Pour un numérique au service du bien commun, Bernard Jarry-Lacombe, Jean-Marie Bergère, François Euvé et Hubert Tardieu, Éditions Odile Jacob, 2022, 240 p. 22,90 €.