2020
Phép lạ mở đường cho việc phong chân phước cho cha Mario Ciceri
Phép lạ mở đường cho việc phong chân phước cho cha Mario Ciceri
Trong cuộc tiếp kiến dành cho Đức Hồng y tân cử Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, hôm 23/11, cùng với sắc lệnh nhìn nhận sự tử đạo của 126 vị tử đạo Tây Ban Nha, Đức Thánh Cha đã cho phép công bố sắc lệnh nhìn nhận một phép lạ nhờ lời chuyển cầu của cha Mario Ciceri.
Chân phước linh mục Mario Ciceri (Chiesa di Milano)
Cha Mario Ciceri sinh ngày 8/9/1900 tại Veduggio, tỉnh Milano. Ngài được bổ nhiệm vào giáo xứ thánh An-tôn tử đạo ở Brentana di Sulbiate và tận hiến phục vụ tại giáo xứ này suốt cuộc đời, đặc biệt cho người trẻ.
Chăm sóc người nghèo và người bị bách hại
Một điểm nổi bật khác của cha Mario là chăm sóc những người bệnh, đặc biệt là những người nghèo nhất. Những câu chuyện về hàng ngàn công việc của cha vì tình yêu dành cho người nghèo đã trở thành huyền thoại trong làng. Ngay cả trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cha đã thực hiện nhiều công việc bác ái giúp đỡ những người nghèo khó, những người trẻ đã ra chiến trường, những người Do Thái và những người bị lính Đức Quốc xã truy nã, đến mức cha liều mình để bảo vệ những người trốn khỏi các trại tập trung.
Cha qua đời năm 1945 trong một tai nạn. Sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của cha được công bố năm 2016.
Phép lạ
Phép lạ mở đường cho việc phong chân phước cho cha Mario liên quan đến việc chữa lành cho bé gái Raffaella Di Grigoli. Ngày 16/9/1975 bé Raffaella phải nhập viện và được chẩn đoán mắc chứng “dolichosigma”, dị tật ruột kéo dài. Hai cuộc phẫu thuật được thực hiện liên tiếp cách nhanh chóng nhưng không giải quyết được vấn đề, đến nỗi em đã được chịu phép Thêm Sức “trong giờ nguy tử”. Khi cuộc phẫu thuật thứ ba cũng không mang lại kết quả, dì của bé Raffaella nghĩ đến việc khẩn cầu cha Mario. Bà báo với chị của cha Mario về việc này và chị của cha đã trao cho gia đình khăn choàng cổ của cha. Mẹ của bé Raffaella đã đặt khăn choàng đó trên người bé và cầu nguyện, cùng với tất cả những người hiệp ý với gia đình. Tình trạng sức khỏe của bé biến chuyển tốt và được xuất viện vào tháng 2/1976. Năm 2005 Raffaella đã sinh được một bé gái hoàn toàn mạnh khỏe.
126 vị tử đạo Tây Ban Nha
Đức Thánh Cha cũng cho phép công bố các sắc lệnh nhìn nhận sự tử đạo của 126 vị tử đạo trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, gồm các linh mục, tu sĩ và giáo dân, bị giết vì sự thù ghét đức tin giữa các năm 1936 và 1939.
Và cuối cùng là các sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của 4 vị Tôi tớ Chúa người Ý, một vị người Pháp và một vị người Tây Ban Nha. (CSR_8657_2020)
Hồng Thủy
2020
Ba khoảnh khắc đơn độc – ba kinh nghiệm cá nhân về Covid – trong cuộc đời ĐTC
Ba khoảnh khắc đơn độc – ba kinh nghiệm cá nhân về Covid – trong cuộc đời ĐTC
Hôm 23/11 báo “La Repubblica” của Ý đã xuất bản một đoạn trích trong cuốn sách “Chúng ta hãy ước mơ: Con đường đến một tương lai tốt đẹp hơn” của Đức Thánh Cha Phanxicô, trong đó ngài mô tả ba trong số những khoảng thời gian đơn độc của chính mình mà ngài gọi là những kinh nghiệm cá nhân về “Covid ”.
Bìa sách “Chúng ta hãy ước mơ”
Trong cuốn sách được viết với tác giả và nhà báo người Anh, Austen Ivereigh, sẽ được phát hành vào đầu tháng 12, Đức Thánh Cha đào sâu ba khoảng thời gian đơn độc của ngài; đó là bệnh tật, thời gian ở Đức và thời gian ở Cordoba.
Bệnh tật thời trẻ
Kinh nghiệm đầu tiên giống với kinh nghiệm về Covid xảy đến với Đức Thánh Cha khi ngài 21 tuổi. Ngài bị nhiễm trùng phổi trong năm thứ hai chủng viện ở Buenos Aires. Ngài nói rằng kinh nghiệm này đã thay đổi cách ngài nhìn cuộc sống và giúp ngài hiểu về cảm giác của những người bị Covid khi họ cố gắng thở bằng máy thở. Đức Thánh Cha chia sẻ: “Tôi nhớ tôi đã ôm lấy mẹ tôi và nói: ‘Chỉ cần nói cho con biết nếu con sắp chết.’”
Từ trải nghiệm cận kề cái chết đó, Đức Thánh Cha đã học được tầm quan trọng của việc tránh những nguồn an ủi dễ dãi. Nhiều người đưa ra những lời hứa suông về việc phục hồi nhanh chóng, mặc dù họ nói với ý tốt. Nhưng một nữ tu chỉ ngồi im lặng bên cạnh ngài và cuối cùng nói “thầy đang bắt chước Chúa Giê-su”. Những lời nói và sự hiện diện của sơ đã dạy ngài nói càng ít càng tốt khi đến thăm người bệnh.
Đơn độc vì không cảm thấy thuộc về
Thời gian Covid thứ hai đối với Đức Thánh Cha là khi ngài ở Đức vào năm 1986. Ngài cảm thấy bị mất thăng bằng trong sự cô đơn vì không thuộc về nơi đó. Từ nghĩa trang Frankfurt ngài đã quan sát các máy bay hạ cánh và hướng về quê hương của mình. Khi Argentina vô địch World Cup năm đó, ngài cảm thấy đơn độc vì không thể chia sẻ chiến thắng với ai.
Tự “nhốt” mình
Và kinh nghiệm Covid thứ ba của Đức Thánh Cha chính là cảm nghiệm đơn độc giữa các năm 1990 và 1992 khi ngài ở Córdoba, Argentina.
Trong thời gian một năm, mười tháng và mười ba ngày tại trụ sở Dòng Tên ở đó, ngài cử hành thánh lễ, giải tội và làm linh hướng. Ngài hầu như không ra khỏi nhà, một kiểu tự “cách ly”, và điều này tốt cho ngài. Ngài đã viết và cầu nguyện rất nhiều, và phát triển các ý tưởng.
Ba điều đã đánh động Đức Thánh Cha từ thời điểm đó. Điều đầu tiên là khả năng cầu nguyện của ngài; thứ hai là những cám dỗ mà ngài đã trải qua; và thứ ba là ngài cảm thấy Chúa truyền cảm hứng cho ngài đọc tất cả 37 cuốn sách của bộ Lịch sử các Giáo hoàng của Ludwig Pastor. Điều này rất hữu ích cho ngài khi là Giáo hoàng, bởi vì, khi hiểu rõ lịch sử của các Giáo hoàng thì không có nhiều điều xảy ra ở Vatican và Giáo triều Roma có thể khiến người ta ngạc nhiên.
Đau khổ và thanh tẩy
Thời gian ở Cordoba đối với Đức Thánh Cha thật sự là một cuộc thanh tẩy. Nó giúp ngài khoan dung hơn, có khả năng tha thứ, thấu hiểu, cảm thông hơn cho những người không có khả năng, và đặc biệt là sự kiên nhẫn.
Ba kinh nghiệm Covid cá nhân này đã dạy Đức Thánh Cha rằng sự đau khổ lớn lao có sức mạnh thay đổi bạn trở nên tốt đẹp hơn, nếu bạn để nó làm.
Hồng Thủy
2020
Khóa đào tạo truyền thông cho sứ vụ tại Vatican
Khóa đào tạo truyền thông cho sứ vụ tại Vatican
Khóa đào tạo về phương tiện truyền thông lần thứ hai mang tên “Truyền thông là sứ vụ” đã được bắt đầu. Khóa học được tổ chức bởi Khoa Truyền thông xã hội của Đại học Giáo hoàng Thánh Giá, Liên hiệp Giáo hoàng Truyền giáo (PUM) và Hãng tin Fides.
Truyền thông là sứ vụ
Khóa học 2020-2021, kéo dài một năm, nhằm cung cấp một khoá huấn luyện cụ thể cho các nhân viên mục vụ của các Giáo hội thuộc thẩm quyền của Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc, theo một tâm thức coi truyền thông là một cơ hội và một con đường để loan truyền Tin Mừng.
Khóa học có sự tham gia của các sinh viên đang cư trú tại các trường nội trú quốc tế do Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc quản lý, và một số giáo dân đến từ các Giáo hội của các vùng lãnh thổ có liên kết với Thánh Bộ.
Khóa đào tạo do Khoa Truyền thông Xã hội của Đại học Giáo hoàng Thánh Giá cung cấp. Cụ thể, các học viên sẽ được tiếp nhận các công cụ phương pháp luận, lý thuyết và thực hành về truyền thông đa phương tiện, cách kể chuyện, tin tức, sự kiện và kinh nghiệm đặc trưng cho sứ mạng của Giáo hội trong thế giới hiện đại.
Sau khi kết thúc thành công khóa học đầu tiên 2019-2020, mặc dù có những khó khăn do đại dịch, ban tổ chức vẫn quyết định thực hiện lần thứ hai, nhằm tiếp tục hỗ trợ trực tiếp cho những ai đang làm việc tại các Giáo hội thuộc các lãnh thổ truyền giáo ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ Latinh. Như tuyên bố của tiến sĩ Massimo Ilardo, giám đốc khóa học: “Công cuộc loan báo Tin Mừng không thể không xét đến môi trường các công nghệ truyền thông mới, điều đã tạo ra và hình thành một phần không thể thiếu của văn hóa trong thế giới hiện đại, ngay cả trong lĩnh vực quan hệ con người”. Tiến sĩ Ilardo lưu ý: “Như Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định trong Thông điệp Ngày Truyền thông Thế giới 48 năm 2014, truyền thông góp phần hình thành ơn gọi truyền giáo của toàn thể Giáo hội”.
Cha Fabrizio Meroni, thành viên Hội Giáo hoàng Truyền giáo Hải ngoại (Pime), Tổng thư ký của Liên hiệp Giáo hoàng Truyền giáo (PUM) và Giám đốc Hãng tin Fides, xác nhận cam kết của Liên hiệp Giáo hoàng Truyền giáo trong lĩnh vực này là “để nghiên cứu, suy tư và làm sáng tỏ mối quan hệ giữa đức tin và thế giới bằng thông điệp cứu độ, với mục đích làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng hiện diện trong thế giới truyền thông kỹ thuật số”.
Chương trình khóa học được chia thành hai học kỳ, từ tháng 11/2020 đến tháng 5/2021, bao gồm việc học hỏi và thực hành tại chỗ về video, radio, web, nhiếp ảnh và viết bài.
Ngọc Yến
2020
Sơ Klara Duha – Nữ tu thiên thần bản mệnh của các trẻ em bị bỏ rơi ở Sumatra
Sơ Klara Duha – Nữ tu thiên thần bản mệnh của các trẻ em bị bỏ rơi ở Sumatra
Trong hơn 10 năm trời, sơ Klara Duha dòng Phanxicô là thiên thần bản mệnh của hơn 1.000 trẻ em không được gia đình chăm sóc ở Nias, miền bắc đảo Sumatra. Từ năm 2006, sơ đã chăm sóc cho các trẻ em bị khuyết tật, và suy dinh dưỡng và mẹ của các em bị tâm thân hay đã ly dị. Nhiều em bị gia đình ruồng bỏ, thậm chí một số em còn bị bỏ ở các bãi rác.
Các trẻ em ở miền bắc Sumatra, Indonesia (ANSA)
Sơ Duha năm nay 65 tuổi, chia sẻ: “Tôi thương các em. Tôi không thể để những đứa trẻ vô tội phải đau khổ hay bị bỏ rơi. Tôi phải cứu các em”.
Từ khi còn trẻ, sơ Duha đã mơ phục vụ nhân loại nhưng không biết phải làm thế nào. Sau khi học xong trung học ở làng, Duha chọn trở thành nữ tu để hoàn thành các ước nguyện của mình. Nhưng cha mẹ của Duha chống lại ước muốn của cô bởi vì cô phải làm việc để giúp đỡ gia đình. Cuối cùng, vào năm 1977, Duha đã tròn ước nguyện khi gia nhập dòng Phanxicô và cha mẹ Duha đã ủng hộ cô.
Hành trình giúp đỡ các trẻ em
Vài năm sau khi trở thành nữ tu Duha bắt đầu cuộc hành trình giúp đỡ các trẻ em. Sơ tìm thấy một em bé gái một tháng tuổi đang bị bịnh não úng thủy và gia đình của em cảm thấy xấu hổ nếu đưa em đến bệnh viện. Cha mẹ em nghĩ rằng bệnh tình của em là một lời nguyền rửa và họ muốn ném em xuống biển.
Sơ Duha đã giúp đưa em bé đến bệnh viện thánh Elizabeth do dòng Phanxicô điều hành ở Semarang, miền trung Java, để em được phẫu thuật. Sau khi em bé được chữa lành, sơ trao trả em bé lại cho gia đình nhưng họ từ chối nhận lại con vì em bé trông xấu xí. Thế là sơ Duha quyết định chính mình sẽ chăm sóc bé gái.
Một số linh mục nhìn thấy em bé được chăm sóc chu đáo nên yêu cầu sơ Duha chăm sóc cho các trẻ em khác bị khuyết tật và não úng thủy ở trong các giáo xứ của họ. Cuối cùng, ngày càng nhiều em bé được ủy thác cho sự che chở bảo vệ của sơ Duha.
Thiên thần bản mệnh, người mẹ của nhiều trẻ em bị bỏ rơi
Sơ Duha nhận các em bởi vì cha mẹ của các em quá nghèo. Sơ chia sẻ: “Nhiều em bé ở Nía bị não úng thủy, sứt môi và một số bị bại liệt. Nhiều phụ huynh cho đó là một sự nguyền rủa vì vậy họ không chăm sóc các con của họ. Sơ đã đi đến các ngôi làng để đưa các em về chăm sóc. Vì sơ thương yêu chăm sóc các trẻ em bị bỏ rơi nên sơ được nhìn nhận như là một thiên thần bản mệnh. Sơ là người mẹ của nhiều trẻ em ở viện mồ côi thánh Elizabeth do sơ thành lập vào năm 2008.
Sơ Duha mới dự định xây dựng một dưỡng đường để giúp các bệnh nhân ở Nía nhưng vì nhiều bệnh nhân là trẻ em nên sơ đã thay đổi quyết định. Thay vào đó, sơ lập viện mồ côi để đón tiếp và chăm sóc chữa trị cho các em. Hiện nay viện là nhà của 85 trẻ em tuổi từ hai tháng đến 18 tuổi. Khoảng 60 em đi học từ tiểu học đến trung học. Sơ nói: “Tôi không nghĩ điều gì khác khi đón nhận các em, mặc dù tôi không có đủ tiền. Đó là một vấn đề nhân đạo mà tất cả chúng ta phải quan tâm.”
Yêu Chúa yêu người
Sơ cho biết, chăm sóc cho các trẻ em bị bỏ rơi và bệnh tật mang lại cho sơ niềm vui và niềm vui đó trào dâng từ một đời sống cầu nguyện đi đôi với sự quảng đại của các ân nhân. Sơ nói: “Tôi nghèo như các trẻ em nhưng Thiên Chúa đã lay động các ân nhân để giúp đỡ các em.”
“Yêu Chúa, yêu người lân cận” là khẩu hiệu sơ Duha chọn cho công việc phục vụ của mình. Tình yêu Chúa được thể hiện qua cầu nguyện, và yêu tha nhân được thể hiện qua việc giúp đỡ họ. Sơ chọn Faomasi, trong tiếng Nias có nghĩa là tình yêu, làm tên của viện mồ côi.
Nhiều người nói rằng sơ điên khùng khi không có tiền bạc nhưng lại có thể giúp cho các trẻ em. Sơ nói: “Thiên Chúa mang các em đến với tôi và tôi phải giúp đỡ các em.” Đối với sơ, khả năng giúp các em được Chúa ban và sơ đón nhận nó bởi vì đó là sứ vụ của Chúa, qua Giáo hội, đón nhận những người bé nhỏ.
Sơ chỉ có đức tin và sự sẵn sàng, phần còn lại là của Chúa
Sơ Duha nói rằng sơ chỉ có đức tin và lòng sẵn sàng giúp đỡ người khác, và Chúa làm phần còn lại qua các ân nhân, bao gồm một bác sĩ người Đức, người đóng góp mỗi tháng cho viện mồ côi, và nhiều cá nhân và nhóm khác.
Báo Kompas, tờ báo lớn nhất của Indonesia đã xây dựng một tòa nhà đa năng và một dưỡng đường; điều này giúp sơ phục vụ cho các trẻ em nghèo trong những hoạt động khác nhau. Sơ cảm ơn các tín hữu Công giáo, các các tổ chức đã giúp sơ, giúp cho công việc của sơ dễ dàng hơn. Một điều khiến sơ cảm thấy buồn đó là người thân của các trẻ em ở viện mồ côi không viếng thăm các em. (Ucanews 02/11/2020)
Hồng Thủy