2021
Sơ Alicia Vacas Moro, người được trao giải “Người Phụ nữ can đảm” năm 2021
Sơ Alicia Vacas Moro, người được trao giải “Người Phụ nữ can đảm” năm 2021
Ngày 8/3/2021, trong một hội nghị trực tuyến, cùng với 13 phụ nữ khác, sơ Alicia Vacas Moro, 41 tuổi, người Tây Ban Nha, dòng Comboni, đã được Ngoại trưởng Hòa Kỳ Anthony Blinken trao giải quốc tế “Người Phụ nữ can đảm” năm 2021, vì cuộc đời cống hiến cho hòa bình và công lý của sơ Alicia, đặc biệt là vì những người dễ bị tổn thương nhất.
Đại sứ quán Hoa Kỳ cạnh Tòa thánh ở Roma cũng đã tổ chức sự kiện trực tuyến nhân dịp trao giải “Phụ nữ can đảm” vào cùng Ngày Quốc tế Phụ nữ.
Trước buổi lễ, ông Patrick Connell, xử lý thường vụ của đại sứ quán Hoa Kỳ, nói rằng cá nhân ông được truyền cảm hứng từ “cuộc đời cống hiến cho hòa bình và công lý của sơ Alicia, đặc biệt là vì những người dễ bị tổn thương nhất.” Ông cho biết, hơn 20 năm, sơ Alicia đã phục vụ tại những cộng đồng bị chiến tranh tàn phá ở Trung Đông, ủng hộ những người không thể lên tiếng nói ở những nơi bị chiến tranh và bất an bao vây. Ông nói: “Sơ Alicia đã làm việc với tư cách là một y tá chuyên nghiệp và một nhà vận động nhân quyền đấu tranh để trao quyền cho phụ nữ, giáo dục trẻ em và cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế trong các cộng đồng chủ yếu là người Hồi giáo.”
Người nữ tu vì người nghèo
Là một nữ tu dòng truyền giáo thánh Comboni, sơ Alicia đã phục vụ người nghèo ở Ai Cập 8 năm; sơ điều hành một phòng khám y tế phục vụ 150 bệnh nhân có thu nhập thấp mỗi ngày. Sau đó sơ được gửi đến Betania, ở Bờ Tây; tại đây sơ đã thành lập các trường mẫu giáo và các chương trình đào tạo cho phụ nữ trong các trại Bedouin nghèo khó. Hiện tại sơ là điều phối viên khu vực của các nữ tu dòng Comboni ở Trung Đông, với 40 nữ tu trợ giúp các nạn nhân của bạn buôn người, người tị nạn và người xin tị nạn trong khu vực.
Năm 2020, sơ Alicia đã đến Ý để giúp đỡ các nữ tu cùng dòng sau khi đại dịch Covid-19 bùng phát tại tu viện của họ ở miền bắc nước Ý. Tại một hội nghị chuyên đề được các đại sứ quán Hoa Kỳ và Anh cạnh Tòa thánh tổ chức trực tuyến vào tháng 6 năm 2020, sơ đã chia sẻ kinh nghiệm của mình trong thời kỳ đại dịch: “Thật không may, một trong những cộng đoàn của chúng tôi ở Bergamo đã bị nhiễm virus corona ngay từ khi đại dịch bùng phát, và chúng tôi bắt đầu nhận được tin tức rất xấu từ cộng đoàn. Một số nữ tu trẻ, một số y tá chúng tôi tình nguyện và giúp đỡ họ.”
Chia sẻ cuộc sống và đau khổ với người dân là một đặc ân
Khi sơ Alicia đến Bergamo, ở miền Lombardia, tâm điểm của đợt bùng phát virus corona ở Ý, sơ thấy rằng nhà mẹ của dòng Comboni “thực sự hỗn loạn” bởi vì “mọi người đều bị bịnh.” Sơ ước tính có 45 nữ tu trong số 55 người sống ở Bergamo bị bệnh. 10 nữ tu trong cộng đoàn đã qua đời trong thời gian dịch bệnh bùng phát. Sơ Alicia nói: “Sống bên trong nỗi đau của người dân ở Bergamo thật là một trải nghiệm rất mạnh mẽ”, một trải nghiệm về cuộc Thương khó của Chúa Kitô. Theo sơ, “là một nữ tu dòng Comboni, chia sẻ cuộc sống, đau khổ với người dân là một đặc ân, một quà tặng Thiên Chúa trao ban cho hội dòng.”
Giải thưởng quốc tế “Người Phụ nữ dũng cảm”
Giải thưởng quốc tế “Người Phụ nữ dũng cảm” được tổ chức từ 15 năm nay. Nó nhìn nhận “những phụ nữ trên toàn cầu đã thể hiện lòng dũng cảm và khả năng lãnh đạo phi thường trong việc ủng hộ hòa bình, công lý, nhân quyền, bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ, thường phải chịu rủi ro và hy sinh cá nhân lớn”.
Những nữ tu đã được trao giải
Sơ Alicia không phải là nữ tu đầu tiên được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trao giải “Người Phụ nữ can đảm”. Năm 2019, sơ Orla Treacy, một nữ tu người Ai-len, dòng Đức Mẹ Loreto đã được nhận được giải thưởng vì công việc giáo dục các thiếu nữ ở Nam Sudan. Năm 2018, một nữ tu người Ý, sơ Maria Elena Berini, đã được vinh danh trong danh sách “Người Phụ nữ can đảm” vì công việc phục vụ những người phải di tản trong nước từ các khu vực xung đột ở Cộng hòa Trung Phi. Trước đó, năm 2017, sơ Carolin Tahhan Fachakh, dòng Salêdiêng người Syria, người đã chăm sóc cho các phụ nữ và trẻ em ở Damascus trong cuộc nội chiến Syria, đã nhận được giải thưởng.
Các nữ tu tại là những tia sáng hy vọng cuối cùng cho người khốn khổ
Đại diện của Đại sứ quán Hoa Kỳ cạnh Tòa Thánh nói rằng sơ Alicia là một trong nhiều “nữ tu truyền cảm hứng cho người khác, những người làm việc không mệt mỏi để nâng cao phẩm giá và tự do của con người.” Ông lưu ý rằng các nữ tu thường phục vụ ở các khu vực mà chính phủ đã thất bại và nơi mà các tổ chức nhân đạo cố gắng để hoạt động và gặp rủi ro rất cao. Theo ông, “các nữ tu là một trong những đối tác quan trọng và hiệu quả nhất mà chúng tôi có ở tiền tuyến trong các cộng đồng mong manh trên khắp thế giới. Họ thường là những tia sáng hy vọng cuối cùng cho hàng triệu người, những người mà nếu không có các nữ tu thì tiếng nói của họ không được lắng nghe.” (CNA 09/03/2021)
Hồng Thủy
(vaticannews.va 04.04.2021)
2021
Đức Thượng Phụ và dòng Phanxicô tại Thánh Địa
Đức Thượng Phụ và dòng Phanxicô tại Thánh Địa
Trong những ngày Tuần Thánh và Phục Sinh này, tâm hồn của các tín hữu Kitô ở các nơi không thể không hướng về Thánh Địa, nơi Chúa Giêsu đã sinh ra, chịu chết và sống lại để cứu chuộc nhân loại. Nhân dịp này chúng tôi xin gửi đến quí vị vài nét về hai cột trụ chính của Giáo Hội địa phương, đó là Đức Thượng Phụ và cộng đoàn Dòng Phanxicô hiện diện từ hơn 800 năm nay tại đây.
Đức Thượng Phu Pierbattista Pizzaballa trong ngày lễ Lá
Đức Thượng Phụ
Vị Chủ Chăn hiện nay của cộng đoàn Giáo Hội Công Giáo tại Thánh Địa là Đức Thượng Phụ Pierbattista Pizzaballa, người Ý, năm nay 56 tuổi, từ 31 năm nay sinh sống và hoạt động tại Thánh Địa. Ngài sinh tại giáo phận Bergamo, bắc Ý, gia nhập dòng Phanxicô và thụ phong linh mục năm 1990 khi được 25 tuổi, sau đó được bề trên gửi đến Thánh Địa, học thêm 3 năm về Kinh Thánh tại học viện của dòng ở Giêrusalem, rồi làm giáo sư dạy tiếng Do thái Kinh Thánh tại phân khoa của dòng cũng tại Giêrusalem.
Cha Pizzaballa chính thức phục vụ trong dòng Phanxicô tại Thánh Địa từ tháng 7 năm 1999; 2 năm sau, cha được bổ nhiệm làm Bề trên tu viện thánh Simeon và Anna tại Giêrusalem. Cha dấn thân trong việc mục vụ các tín hữu Công Giáo nói tiếng Do thái và được bổ nhiệm làm Đại diện Đức Thượng Phụ trong 3 năm, từ 2005 đến 2008. Tháng 5 năm 2004, Hội đồng Tổng cố vấn của dòng Phanxicô chọn cha Pizzaballa làm Bề trên Dòng Phanxicô tại Thánh Địa đồng thời làm Bề trên tu viện Núi Sion. Ngày 24/6/2016, sau khi mãn 2 nhiệm kỳ bề trên dòng, tổng cộng 12 năm, cha được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Giám quản Tông Tòa tòa Thượng Phụ Công Giáo Latinh, thay thế Đức Thượng Phụ Fouad Twal, người Jordan, từ chức vì lý do tuổi tác.
Giám quản Tông Tòa
Trong nhiệm vụ mới, Đức Tổng Giám Mục Pizzaballa thay mặt Đức Thánh Cha cai quản Giáo phận Thượng Phụ Giêrusalem của Công Giáo Latinh, có 320 ngàn tín hữu – đa số nói tiếng Arập – thuộc 71 giáo xứ, chia làm 6 giáo hạt ở Israel, Palestine, Jordan và đảo Síp. Thêm vào đó có các cộng đoàn tín hữu thuộc các ngôn ngữ như Do thái và các tiếng khác, trong đó có đông đảo tín hữu Philippines nhập cư. Trong giáo phận của Đức Tổng Giám Mục Pizzaballa có 95 linh mục triều, 385 linh mục dòng, hơn 1 ngàn nữ tu, 572 tu huynh, và khoảng 40 cơ sở giáo dục Công Giáo.
Thăng Thượng Phụ
Sau 4 năm làm giám quản, ngày 24/10/2020, Đức Tổng Giám Mục Pizzaballa được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Thượng Phụ Công Giáo Latinh Giêrusalem. Khác với Công giáo nghi lễ Đông phương, trong Công giáo Latinh, Thượng Phụ là một tước hiệu danh dự, và thực tế ngài trở thành Tổng Giám Mục chính tòa của giáo phận công giáo Latinh ở Thánh Địa. 4 ngày sau đó, nhân dịp ghé Roma, ngài đã được Đức Thánh Cha trao giây Pallium trong một nghi thức đơn sơ tại nguyện đường nhà trọ thánh Marta ở Vatican. Giây Pallium biểu tượng chức vụ chủ chăn tại Giáo Hội địa phương và sự hiệp thông với tòa Thánh Phêrô. Đức Thượng Phụ đã chính thức nhậm chức ngày 4/12 sau đó trong một buổi lễ trọng thể nhưng số người tham dự bị giới hạn, khoảng 50 người, vì đại dịch Covid-19.
Hai vị tiền nhiệm của Đức Tổng Giám Mục Pizzaballa đều là người Arập bản xứ, vì thế sự kiện Đức tân Thượng Phụ là người Ý, không nói tiếng Arập, gây xì xèo nơi một số giáo sĩ và giáo dân địa phương người Arập.
Vấn đề của Giáo Phận Thánh Địa
Thật ra, khi Đức Thượng Phụ Fouad Twal từ chức, ngài để lại một giáo phận ở trong tình trạng khó khăn về hành chánh và tài chánh, do việc xây cất và khởi sự Đại học Hoa kỳ ở Madaba, được khánh thánh ngày 30/5/2013 trước sự hiện diện của quốc vương Giordani. Trong vụ này có nhiều sai lầm khiến tòa Thượng Phụ mắc nợ gần 100 triệu Mỹ kim.
Trong 4 năm làm Giám quản, Đức Tổng Giám Mục Pizzaballa đã trang trải được 60% món nợ và cải tiến công việc quản trị kinh tế tài chánh, đồng thời đã thiết lập và công bố “Qui chế điều hành” đời sống nội bộ của Giáo Hội địa phương. Văn kiện được Đức Tổng Giám Mục Pizzaballa ký ngày 4/6/2020, nhắm mục đích hòa hợp các qui luật điều hành hoạt động của các tổ chức khác nhau thuộc Tòa Thượng Phụ, chiếu theo giáo luật và các qui định gần đây của Tòa Thánh. Với kết quả đó, việc bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Pizzaballa làm Thượng Phụ đã được hàng giáo sĩ và các thành phần khác trong giáo phận chấp nhận dễ dàng.
Hai cột trụ của Giáo Phận
Trong cuộc phỏng vấn hôm 31/3/2021 dành cho báo La Stampa ở Ý, Đức Thượng Phụ Pizzaballa nói: “Dòng Phanxicô tại Thánh Địa và Tòa Thượng Phụ Công Giáo Latinh là hai cơ chế Công Giáo quan trọng tại Thánh Địa, đã làm nên lịch sử cổ kính và gần đây của Cộng đoàn Kitô và Công Giáo tại đây.
“Dòng Phanxicô tại Thánh Địa, từ hơn 800 năm nay, đã được các vị Giáo Hoàng trao trách vụ quan trọng là gìn giữ các Nơi Cứu Chuộc, nghĩa là các Nơi Thánh, nhân danh toàn thể Giáo Hội. Nhưng trong thời gian dài, sau thời kỳ Đạo binh Thánh giá, tại Thánh Địa không thể đặt các Giám Mục cho đời sống bình thường của Giáo Hội, vì những giới hạn do nhà cầm quyền thời đó áp đặt. Vì thế, trong nhiều thế kỷ, các tu sĩ Dòng Phanxicô đảm trách bao nhiêu có thể công việc mục vụ được phép. Tình thế thay đổi từ năm 1847, khi Giáo Hội được phép tái lập Tòa Thượng Phụ Công Giáo Latinh, nghĩa là tái lập tại Thánh Địa một Giám Mục và các cơ chế Giáo Hội của một giáo phận bình thường. Từ đó, sự phân biệt giữa hai thực thể được duy trì, nghĩa là Dòng Phanxicô chăm sóc các nơi Thánh và Tòa Thượng Phụ đảm trách đời sống mục vụ. Nhưng có một số hoạt động mục vụ đã có trước năm 1847, như một số giáo xứ vẫn còn ở dưới sự chăm sóc của các tu sĩ Phanxicô và được Đức Thượng Phụ hướng dẫn về mục vụ. Đức Thượng Phụ là mục tử của Giáo Hội tại Thánh Địa, trong đó Dòng Phanxicô tại đây là một phần quan trọng, một phần cấu thành”.
Nhìn lại lịch sử: Tỉnh dòng Thánh Địa
Các tu sĩ Phanxicô đầu tiên đổ bộ lên Thánh Địa vào năm 1217, năm diễn ra Tổng tu nghị đầu tiên của dòng tại Santa Maria degli Angeli (Đức Mẹ các Thiên Thần), gần Assisi, dưới quyền chủ tọa của Thánh Phanxicô. Thánh nhân đã quyết định gửi các tu sĩ đi các nước trên thế giới và từ đó Dòng được chia thành các tỉnh. Trong số 11 tỉnh dòng đầu tiên có Tỉnh Dòng Phanxicô Thánh Địa. Tỉnh dòng này rất rộng lớn và được coi là tỉnh quan trọng nhất của Dòng, bao gồm cả Constantinople bên Thổ nhĩ kỳ, Hy Lạp và các đảo, Tiểu Á, Antiokia, Siria, Palestine, đảo Síp, Ai Cập và toàn Đông Phương. Năm 1219, chính thánh Phanxicô viếng thăm tỉnh dòng Thánh Địa.
Thu hẹp Tỉnh Dòng
Dưới thời thánh Bonaventura làm Bề trên Tổng quyền (1257-1974), Dòng Phanxicô quyết định thu hẹp Tỉnh Dòng Thánh Địa chỉ bao gồm đảo Síp, Siria, Li-băng, Palestine, và chia thành các Custodia (Phó tỉnh dòng), trong đó có “Custodia Thánh Địa” bao gồm 6 tu viện, trong đó có Giêrusalem. Sau khi người Hồi giáo chiếm Thánh Địa năm 1291, các tu sĩ Phanxicô bị trục xuất và phải di tản về đảo Síp. Và đến thế kỷ 14 mới dần dần trở lại Thánh Địa.
Tỉnh dòng hiện nay
Hiện nay Dòng Phanxicô tại Thánh Địa, vẫn được gọi bằng tên hiệu lịch sử chính thức là “Custodia di Terra Santa” (Phó Tỉnh Dòng Thánh địa), nhưng thực ra có cơ cấu giống như một tỉnh dòng, với nhiều đặc tính riêng, và có 56 tu viện tại 12 quốc gia là Israel, Palestine, Jordan, Li-băng, Siria, Ai Cập, Síp, Hy Lạp, Argentina, Ý, Tây Ban Nha và Hoa Kỳ, cùng với 66 “Commissariati” (nhà Ủy viên) và 31 phó ủy viên Thánh địa tại 51 quốc gia. Các tổ chức này có nhiệm vụ phổ biến các sinh hoạt của Dòng Phanxicô, quyên góp tài trợ cho các hoạt động của dòng tại Thánh Địa. Tỉnh dòng này có đặc tính quốc tế, hiện nay gồm khoảng 320 tu sĩ đến từ các tỉnh dòng khác.
Bề trên dòng Phanxicô tại Thánh Địa hiện nay là Cha Francesco Patton, 58 tuổi, gốc tỉnh dòng Thánh Antôn ở Ý, tốt nghiệp cao học về truyền thông và từng làm Bề trên tỉnh dòng thánh Vigilio ở bắc Ý. Cha được Hội đồng Tổng cố vấn dòng chọn làm Bề trên của Dòng Phanxicô tại Thánh địa hồi năm 2016, và được Tòa Thánh phê chuẩn sau đó.
Giuse Trần Đức Anh O.P
(vaticannews.va 04.04.2021)
2021
ĐTC chào những người nghèo được tiêm vắc-xin tại Vatican
ĐTC chào những người nghèo được tiêm vắc-xin tại Vatican
Sáng thứ Sáu Tuần Thánh Đức Thánh Cha đã đến thăm những người vô gia cư và người nghèo đang được tiêm vắc-xin ngừa Covid-19 tại Vatican. Ngài chào thăm các tình nguyện viên, các bác sĩ và y tá đang giúp tiêm vắc-xin.
Phòng Báo chí Tòa Thánh cho biết vào khoảng 10 giờ sáng, Đức Thánh Cha đã đến đại thính đường Phao-lô VI, nơi những người vô gia cư và những người cần hỗ trợ đặc biệt đang đợi để tiêm vắc-xin chống virus corona. Ngài nói chuyện với họ và với các bác sĩ và y tá tình nguyện dành thời gian để giúp tiêm vắc-xin, đồng thời theo dõi tiến trình chuẩn bị các liều vắc-xin.
Đến ngày 2/4/2021, khoảng 800 trong số gần 1.200 người nghèo, đã được Vatican tiêm vắc-xin.
Sở Từ thiện của Đức Thánh Cha tặng các liều vắc-xin được Tòa Thánh mua cho 1.200 người trong số những người nghèo nhất và bị gạt ra bên lề xã hội. Trong số này có 100 người cư trú tại trung tâm vô gia cư do các Thừa sai Bác ái Mẹ Tê-rê-sa Can-cút-ta điều hành, và những người cư trú tại các trung tâm khác.
Các tình nguyện viên của cộng đoàn thánh Egidio, Caritas Roma và các hiệp hội bác ái Công giáo khác đồng hành với những người được tiêm vắc-xin.
Cung cấp vắc-xin cho người nghèo và người vô gia cư ở Roma là nỗ lực mới nhất của Vatican nhằm đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô nhằm đảm bảo việc phân phối vắc-xin ngừa Covid-19 một cách công bằng trong đại dịch.
Hồng Thủy
(vaticannews.va 03.04.2021)
2021
Tông du Iraq: Diễn văn (2) trước các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên
Tông du Iraq: Diễn văn (2) trước các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên
Sau khi gặp gỡ chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn tại Dinh Tổng thống, ĐTC di chuyển bằng xe đến Nhà thờ chính toà Công giáo Siri ‘Đức Mẹ Ơn Cứu Chuộc’ cách đó 8km để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, chủng sinh và giáo lý viên.
Diễn văn của ĐTC Phanxicô
trong buổi tiếp kiến với các Giám Mục, Linh Mục,
Tu Sĩ, Chủng Sinh và Giáo Lý Viên
Baghdad, 5/3/2021
Quý Hồng Y, Thượng Phụ Giáo Chủ, Giám Mục quý mến,
Các Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ và anh chị em thân mến!
Tôi nồng nhiệt ôm chào tất cả trong tình huynh đệ. Tôi tạ ơn Chúa đã quan phòng để chúng ta có thể gặp nhau hôm nay. Tôi xin cảm ơn Thượng Phụ Giáo Chủ Ignace Youssif Younan và Hồng Y Louis Sako qua diễn văn chào mừng. Chúng ta quy tụ nhau nơi đây tại thánh đường Đức Mẹ Ơn Cứu Chuộc, ngôi thánh đường được chúc phúc bởi máu mà các anh chị em chúng ta đã phải trả cái giá tột cùng cho lòng trung tín của họ vào Thiên Chúa và Giáo Hội. Ước gì việc tưởng nhớ đến sự hy sinh của họ thúc đẩy chúng ta làm mới lại niềm tin của chúng ta vào sức mạnh của Thập giá và thông điệp cứu độ của sự tha thứ, hoà giải và tái sinh. Thực vậy, người Ki-tô hữu ở mọi nơi và mọi thời đều được mời gọi làm chứng cho tình yêu của Đức Ki-tô. Đây là Tin Mừng để loan báo và để hiện thực hoá trên đất nước thân yêu này.
Như các Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ, Giáo lý viên và giáo dân có trách nhiệm, tất cả cùng chia sẻ vui, buồn, hy vọng và sầu khổ của người tin vào Đức Ki-tô. Nhu cầu của dân Chúa và những thách đố mục vụ mà anh chị em đang đương đầu mỗi ngày, nay lại trầm trọng thêm bởi dịch bệnh. Tuy vậy, nhiệt thành tông đồ của chúng ta không bao giờ bị ngăn trở hay suy giảm, lòng nhiệt thành mà anh chị em kín múc được từ cội rễ của sự hiện diện không ngừng nghỉ của Giáo Hội trên vùng đất này từ thuở ban đầu (trích ĐTC Biển Đức XVI, Tông huấn hậu Thượng hội đồng, Ecclesia in Medio Oriente (Giáo Hội vùng Trung Đông), 5). Tất cả chúng ta đều biết rằng thật dễ bị nhiễm virus nhát đảm mà đôi khi lan truyền trong chúng ta. Do vậy, Thiên Chúa đã trao tặng chúng ta vắc-xin hiệu quả chống lại loại virus này, đó là niềm hy vọng. Niềm hy vọng khởi đi từ lời cầu nguyện liên lỉ và từ sự trung tín hàng ngày trong sứ mạng tông đồ của chúng ta. Với vắc-xin này, chúng ta có thể tiến tới với nguồn năng lượng luôn mới để chia sẻ niềm vui Tin Mừng như các nhà thừa sai và là dấu chỉ sống động của sự hiện hữu Nước Trời, Vương quốc của sự thánh thiện, công lý và hoà bình.
Thế giới xung quanh chúng ta đang cần lắng nghe thông điệp này biết chừng nào! Chúng ta không bao giờ quên rằng Đức Ki-tô được loan báo ngang qua chứng từ là đời sống được biến đổi nhờ niềm vui Tin Mừng. Như chúng ta thấy trong lịch sử Giáo Hội nơi vùng đất này, niềm tin sống động vào Đức Giê-su đã được “lây lan” và có thể biến đổi thế giới. Gương chứng nhân của các thánh chỉ ra rằng theo Chúa “không chỉ là điều đúng đắn và chính đáng, mà còn tuyệt đẹp, có khả năng đong đầy đời sống với niềm hứng khởi và niềm vui sâu xa, ngay cả trong những thử thách” (trích Tông huấn Evangelii gaudium (Niềm vui Tin Mừng), 167).
Những thử thách là một phần trong kinh nghiệm thường ngày của tín hữu Iraq. Trong thập kỷ này, anh chị em và đồng hương của anh chị em đã phải đương đầu với hậu quả chiến tranh và bách hại, sự bấp bênh của cơ sở hạ tầng và cuộc chiến an sinh kéo dài khiến nhiều người phải di cư đến các nơi khác trên thế giới, trong số đó bao gồm cả các Ki-tô hữu. Tôi tri ân anh em, quý Giám mục và Linh mục, đã luôn ở gần đàn chiên, nâng đỡ họ và nỗ lực đáp ứng các nhu cầu của dân chúng và giúp đỡ họ đóng góp phần mình vào công ích. Sứ mạng giáo dục và từ thiện nơi Giáo hội của anh em thể hiện một nguồn lực quý báu cho cả đời sống cộng đoàn lẫn toàn thể xã hội. Tôi khuyến khích anh em kiên định trong nỗ lực này hầu đảm bảo rằng cộng đoàn tín hữu Iraq, dù rằng nhỏ như hạt cải (x. Mt 13, 31-32), tiếp tục làm phong phú cho đất nước trên đường phát triển.
Tình yêu của Đức Ki-tô đòi buộc chúng ta gạt sang một bên tất cả những biểu hiện của chủ nghĩa ích kỷ và sư ganh đua, nhưng thúc đẩy chúng ta đến sự hiệp nhất phổ quát và mời gọi chúng ta xây dựng cộng đoàn huynh đệ nơi tiếp nhận và chăm sóc lẫn nhau (x. Thông điệp Fratelli tutti (Tất cả là anh em), 95-96). Tôi nghĩ đến hình ảnh quen thuộc của tấm thảm. Các Giáo hội khác nhau hiện diện ở Iraq, mỗi giáo hội với kho tàng của mình về lịch sử, phụng vụ và linh đạo, như những sợi chỉ màu, một khi được đan xen với nhau, tạo nên một tấm thảm tuyệt đẹp, không chỉ là biểu hiện của tình huynh đệ, mà còn hướng đến nguồn cội của mình. Bởi chính Thiên Chúa là người nghệ sĩ đã nghĩ ra tấm thảm này, Ngài thêu dệt với lòng kiên nhẫn, hàn gắn với sự tận tâm, và mong muốn rằng chúng ta liên kết mật thiết với nhau như con cái của Ngài. Ước gì chúng ta luôn tâm niệm lời của thánh Inhaxiô thành Antiochia: “Không có gì nơi anh chị em có thể chi rẽ anh chị em, […] mà chỉ có duy nhất một lời cầu nguyện, một thần khí, một niềm hy vọng trong tình yêu và trong niềm hoan lạc” (Ad Magnesios (Thư gửi tín hữu Magnesia), 6-7). Chứng từ này quan trọng dường nào cho sự hiệp nhất huynh đệ trong thế giới thường bị phân mảnh và xâu xé bởi chia rẽ! Mọi nỗ lực xây dựng nhịp cầu giữa cộng đoàn và tổ chức tôn giáo, giữa giáo xứ và giáo phận đều là dấu chỉ ngôn sứ của Giáo hội Iraq và là câu trả lời được chúc phúc nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giê-su hầu cho tất cả nên một (x. Ga 17, 21; Ecclesia in Medio Oriente, 37).
Mục tử và giáo dân, linh mục, tu sĩ và giáo lý viên chia sẻ với nhau, dù với cách thức khác nhau, trách nhiệm chu toàn sứ mạng của Giáo hội. Đôi khi xảy ra những bất đồng và thậm chí căng thẳng, đó là những nút thắt làm cản trở tiến trình thêu dệt tình huynh đệ. Là những nút thắt bên trong chúng ta, bởi tất cả chúng ta đều là tội nhân. Tuy vậy, những nút thắt đó có thể được tháo cởi nhờ Ân sủng, nhờ một tình yêu lớn hơn cả; có thể được nới lỏng nhờ sự tha thứ và đối thoại huynh đệ, biết chịu đựng lẫn nhau với lòng kiên nhẫn (x. Gal 6, 2) và nâng đỡ nhau trong buổi cơ hàn.
Lúc này đây, tôi muốn ngỏ một lời đặc biệt với chư huynh Giám mục của tôi. Tôi thích suy tư về sứ mạng giám mục của chúng ta với ngôn từ bình dân: đó là chúng ta cần ở với Chúa trong cầu nguyện, hiện diện với các tín hữu được trao cho chúng ta săn sóc và hiện diện với các Linh mục. Anh em hãy quan tâm đặc biệt đến các Linh mục. Ước gì họ không nhìn anh em như những vị quản lý, mà như người cha, người luôn lo liệu để các con được an mạnh, sẵn sàng nâng đỡ và khích lệ họ với con tim rộng mở. Anh em hãy đồng hành với họ bằng lời cầu nguyện của anh em, với thời gian và sự kiên nhẫn của anh em, trân trọng nỗ lực của họ và hướng dẫn họ thăng tiến. Bằng cách này, đối với các Linh mục, anh em trở thành dấu chỉ hữu hình của Chúa Giê-su, vị Mục Tử Nhân Lành biết chiên của mình và hy sinh tính mạng mình vì đàn chiên (x. Ga 10, 14-15).
Quý linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo lý viên và chủng sinh thân mến, anh chị em đang chuẩn bị bản thân cho sứ vụ tương lai. Tất cả anh chị em đã nghe tiếng gọi của Chúa nơi con tim mình và như cậu Samuen, anh chị em đã thưa: “Dạ, con đây” (1 Sam 3, 4). Lời đáp trả này, mà anh chị em được mời gọi làm mới mỗi ngày, hướng dẫn mỗi người đến việc chia sẻ Tin Mừng với lòng nhiệt thành và can đảm, sống và bước đi dưới anh sáng Lời Chúa, đó là quà tặng và chúng ta có nhiệm vụ phải loan báo. Chúng ta hiểu rằng sứ mạng của chúng ta mang cả chiều kích quản trị, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta dành hết thời gian để hội họp và ngồi ở bàn giấy. Điều quan trọng là ra khỏi nhà và đến giữa đàn chiên, hiện diện và đồng hành với họ, nơi thành thị cũng như thôn quê. Tôi nghĩ đến những người có nguy cơ bị bỏ lại đàng sau, những bạn trẻ, người già, đau yếu và nghèo khổ. Khi chúng ta phục vụ tha nhân với lòng quảng đại, như anh chị em đang làm, với tinh thần thương cảm, khiêm tốn, tốt bụng, bác ái, đó là chúng ta đang thực sự phục vụ Đức Giê-su, như chính Người đã nói (x. Mt 25, 40). Khi phục vụ Đức Giê-su nơi tha nhân, chúng ta khám phá ra niềm vui đích thực. Anh chị em đừng rời xa khỏi dân thánh Chúa, chính nơi đó anh chị em được sinh ra. Anh chị em đừng quên những người mẹ và bà của mình, những người đã cho anh chị em “bú mớm” trong đức tin, như thánh Phao-lô diễn tả (x. 2 Tm 1, 5). Anh em là mục tử, là người phục vụ dân Chúa chứ không phải quan chức chính phủ, giáo sĩ quốc doanh. Anh em hãy luôn ở giữa dân Chúa, đừng bao giờ tách mình ra như thể một tầng lớp ưu tiên. Anh em đừng từ chối “dòng dõi” quý tộc này, đó là dân thánh của Thiên Chúa.
Giờ đây, tôi muốn tưởng nhớ đến anh chị em của chúng ta đã thiệt mạng nơi thánh đường này trong vụ khủng bố cách đây 10 năm, những anh chị em mà án phong chân phước cho họ đang được tiến hành. Cái chết của họ nhắc nhớ chúng ta rằng sự dấn thân vào chiến tranh, thái độ thù ghét, bạo lục và đổ máu không bao giờ tương hợp với giáo huấn tôn giáo (x. Fratelli tutti, 285). Tôi tưởng nhớ đến tất cả các nạn nhân của bạo lực và bách hại thuộc bất cứ cộng đoàn tín ngưỡng nào. Ngày mai, tại Ur, tôi sẽ gặp gỡ các vị Thủ lãnh các truyền thống tôn giáo hiện diện trên đất nước này để khẳng định một lần nữa niềm xác tín của chúng ta rằng tôn giáo phải phục vụ hoà bình và hoà hợp giữa các con cái của Chúa. Hôm nay, tôi tri ân anh chị em bởi những nỗ lực kiến tạo hoà bình, trong cộng đoàn của mình và với các tín hữu thuộc các tôn giáo khác. Anh chị em đang gieo rắc hạt giống hoà giải và chung sống huynh đệ hầu hướng đến một hy vọng mới cho tất cả mọi người.
Tôi quan tâm cách đặc biệt đến người trẻ. Ở khắp nơi, họ là những chứng nhân của kỳ vọng và hy vọng, nhất là cho đất nước này. Thực vậy, nơi đây không chỉ có kho tàng khảo cổ vô giá, mà còn là một tương lai trù phú vô biên, đó là người trẻ! Họ là kho tàng và cần được chăm sóc, củng cố những giấc mơ, đồng hành với họ trên bước đường đời và gia tăng nơi họ niềm hy vọng. Trong thực tế, dù họ còn trẻ, nhưng đã bị thử thách lòng kiên nhẫn bởi xung đột trong những năm qua. Chúng ta hãy nhớ rằng, họ, cùng với người già, là đỉnh chóp kim cương của đất nước, là hoa thơm trái ngọt mà chúng ta có nhiệm vụ canh tác cẩn thận và chăm tưới với niềm hy vọng.
Anh chị em thân mến, ngang qua Bí tích rửa tội và Thêm sức, ngang qua Bí tích truyền chức hay tuyên khấn, anh chị em được thánh hiến cho Thiên Chúa và được sai đi làm môn đệ trên đất nước này, nơi có liên hệ mật thiết với lịch sử ơn cứu độ. Anh chị em là một phần của lịch sử ấy, là chứng nhân trung thành cho lời hứa của Thiên Chúa, lời hứa không bao giờ vơi đi, và đang nỗ lực xây dựng tương lai mới. Chứng từ của anh chị em, trưởng thành trong nghịch cảnh và được củng cố nhờ màu của các vị tử đạo, trở thành ánh sáng soi chiếu đất nước Iraq và vùng lân cận, hầu loan báo sự vĩ đại của Thiên Chúa và khơi lên niềm vui cho dân tộc trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta (x. Lc 1, 46-47).
Một lần nữa, tôi tri ân Chúa đã cho chúng ta cơ hội gặp nhau. Xin Mẹ ơn Cứu Chuộc và Thánh Tông đồ Tô-ma chuyển cầu và bảo vệ anh chị em luôn mãi. Tôi chúc lành cho từng người và cộng đoàn của anh chị em. Và xin anh chị em cầu nguyện cho tôi. Xin cảm ơn anh chị em!
(vaticannews.va 05.03.2021)