2021
Cha Stan Swamy qua đời sau 9 tháng bị giam tù vì cáo buộc khủng bố
Cha Stan Swamy qua đời sau 9 tháng bị giam tù vì cáo buộc khủng bố
Cha Stan Swamy 84 tuổi, nhà hoạt động vì quyền của người bản địa và những người bị thiệt thòi ở bang Jharkhand, miền đông Ấn Độ, bị cơ quan chống khủng bố Ấn Độ bắt vào ngày 8/10 năm ngoái với cáo buộc liên kết với phiến quân Maoist và kích động nổi loạn, đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5/7/ tại bệnh viện ở Mumbai, nơi cha đang được điều trị Covid-19.
Cha Stan Swamy được điều trị Covid-19 tại bệnh viện
Đức Hồng y Oswald Gracias của Bombay viết trong một tuyên bố: “Chúng tôi vô cùng đau buồn trước sự ra đi của cha Stan Swamy. Chúng tôi tạ ơn Chúa vì cuộc sống và sự dấn thân của cha Stan đối với những người dân bản địa nghèo và cuộc đấu tranh của họ”. Đức Hồng y cũng than phiền “việc bắt giữ cha Stan thật đau lòng. Theo luật tội phạm Ấn Độ, một người là vô tội cho đến khi bị chứng minh là có tội. Chúng tôi mong đợi vụ việc được đưa ra và sự thật được công bố”.
Bị bắt
Ngày 8/10/2020, Cơ quan Điều tra Quốc gia – đơn vị liên bang phụ trách các hoạt động chống khủng bố – đã bắt giữ cha Stan tại Bagaicha, một trung tâm hoạt động xã hội của Dòng Tên vì quyền người bản địa, ở ngoại ô Ranchi, thủ phủ của bang Jharkhand. Ngày 23/10, một tòa án đặc biệt của Cơ quan Điều tra Quốc gia đã bác bỏ yêu cầu tại ngoại của cha, kéo dài thời gian tạm giam thêm hai tuần cho đến ngày 5/11.
Bị từ chối cho tại ngoại dù sức khỏe yếu
Sau nhiều lần từ chối cho cha được tại ngoại, ngày 22/3/2020, Tòa án đặc biệt của cơ quan chống khủng bố Ấn Độ một lần nữa lại từ chối yêu cầu trả tự do cho cha, bất chấp tình trạng sức khỏe không ổn định của cha, bị Parkinson và đi lại khó khăn.
Vì bệnh Parkinson, cha Stan gặp khó khăn trong đời sống hàng ngày, kể cả việc uống nước từ ly; cha phải nhờ đến các bạn tù trợ giúp trong những nhu cầu cơ bản khác. Ngoài ra, cha còn bị khiếm thính và các chứng bệnh liên quan đến tuổi tác khác.
Thông cáo của Hội đồng Dòng Tên Á châu cho biết cha bị ngừng tim lúc 4h30 sáng thứ Bảy 3/7/2021, và sau đó sức khỏe xấu đi.
Giáo hội nhìn nhận sự dấn thân của cha Stan
Trong tuyên bố, Đức Hồng Y Gracias lưu ý rằng “cha Stan đã làm việc không mệt mỏi cho những người kém may mắn và bị áp bức, giúp họ cảm nhận được phẩm giá và được đánh giá cao”. Đức Hồng y cho biết chính ngài đã tận mắt chứng kiến “sự cống hiến của các linh mục cho những con người bộ tộc bị bóc lột”. “Công việc này có những thách thức riêng, nhưng cha Stan đã làm việc chỉ vì người nghèo”. Ngài hy vọng rằng “sự thật sẽ sớm được công bố và tên của cha sẽ được minh oan khỏi mọi âm mưu tội phạm”. (CSR_4851_2021)
Hồng Thủy
2021
Thêm cuộc tấn công thánh chiến ở Niger, nhiều người bị giết và nhà thờ bị đốt cháy
Thêm cuộc tấn công thánh chiến ở Niger, nhiều người bị giết và nhà thờ bị đốt cháy
Cuộc tấn công của các phần tử thánh chiến nhắm vào hai ngôi làng ở khu vực phía nam Tillabéri, là Fantio và Dolbel, cách Burkina Faso không xa. Tin tức được xác nhận bởi Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ. Những người sống sót sau cuộc tấn công đã chạy trốn đến giáo phận Burkinabé của Dori, đến thủ đô Niamey hoặc đến lãnh thổ của giáo xứ Téra.
Ngôi làng bị tấn công (ANSA)
Thông cáo của Tổ chức Trợ giúp các Giáo hội Đau khổ cho biết: các nạn nhân bao gồm cả phụ nữ và trẻ sơ sinh. Theo các nhân chứng, những kẻ khủng bố đã tấn công các trung tâm dân cư hai lần, giết chết nhiều người. Tại Fantio, Mình Thánh Chúa bị ném xuống đất. Tượng Đức Mẹ cũng bị phá đổ. Sách và nhạc cụ phụng vụ đã bị đốt cháy. Nhà thờ sau đó đã bị phóng hỏa. Đây là giáo xứ thứ ba ở khu vực này của Niger, bị hoang tàn, do các cuộc tấn công và khủng bố của các nhóm cực đoan.
Vụ tấn công diễn ra chỉ một tháng sau vụ thảm sát ngày 4/6 vừa qua tại làng Solhan, ở Burkina Faso, giáp biên giới với Niger. Đây là vụ tấn công nặng nề nhất do các tay súng thánh chiến gây ra ở nước này trong những năm gần đây, với hơn 160 nạn nhân, bao gồm nhiều trẻ em, và nhiều nhà bị đốt cháy.
Như tại toàn bộ vùng Sahel, Burkina Faso đã phải chứng kiến sự gia tăng đáng kể hoạt động của các chiến binh thánh chiến có liên hệ với Nhà nước Hồi giáo kể từ năm 2015. Theo Báo cáo của Tổ chức Trợ giúp Các Giáo hội Đau khổ về tự do tôn giáo trên thế giới, khu vực này là một trong những điểm nóng nguy hiểm nhất của chủ nghĩa thánh chiến ở châu Phi. Chỉ riêng ở Burkina Faso, số người phải di dời nội địa do mất an ninh đã lên tới gần một triệu người.
Các giám mục Burkina Faso và Niger đã đề cập đến tình cảnh này vào cuối hội nghị hồi tháng 6 ở Ouagadougou. Trong tuyên bố mới nhất, Hội đồng giám mục Burkina Faso và Niger nhắc lại rằng “bối cảnh hiện tại, đáng lo ngại hơn bao giờ hết, chỉ ra rằng người dân Sahel không còn chắc chắn về tương lai của khu vực”, do “sự lạm dụng khủng bố”. Do đó, các giám mục đã yêu cầu Nhà nước “quản lý tình trạng này một cách mạnh mẽ và chặt chẽ hơn”, bởi vì “tương lai và sự tồn vong của Giáo hội địa phương phụ thuộc vào điều này”, trong khi cũng đặt câu hỏi về tính hữu dụng “sự hiện diện của quá nhiều lực lượng ngoại quốc trên lãnh thổ”, với “kết quả ngày càng thất vọng” của những lời hứa.
Tổ chức Trợ giúp Các Giáo hội Đau khổ từ lâu đã hỗ trợ Giáo hội Công giáo địa phương tại đây. Năm ngoái, Tổ chức đã phân bổ 130 ngàn euro để hỗ trợ cho tám dự án mới ở Burkina Faso. (CSR_4847_2021)
Văn Yên, SJ
2021
Tìm thấy tượng Tổ Phụ Giuse trong Cựu Ước: Câu chuyện bị che đậy!
Tìm thấy tượng Tổ Phụ Giuse trong Cựu Ước: Câu chuyện bị che đậy!
Có bằng chứng khảo cổ học về tổ phụ Giuse trong Kinh thánh không?
Một phần của tảng đá vôi được tìm thấy. |
Nếu bạn hiểu sai về cuộc Xuất hành trong Kinh thánh, tức là nếu bạn đặt Cuộc xuất hành vào một bối cảnh lịch sử mà nó không thuộc về, thì – theo định nghĩa – bạn sẽ không tìm thấy bất kỳ bằng chứng khảo cổ nào về Giuse, hoặc bất kỳ nhân vật nào khác trong Kinh thánh cho vấn đề đó. Và đây đúng là điều mà đa số các nhà khảo cổ học đã làm khi họ xác định niên đại của Cuộc Xuất hành. Đầu tiên, họ nói rằng Cuộc Xuất hành đó đã không xảy ra. Sau đó, một cách phi lý, họ xác định rằng những gì họ nói không xảy ra thì lại xảy ra vào thế kỷ 13 trước Công nguyên, đó là niên đại chính xác – tức là năm 1270 trước Công nguyên.
Nhưng nếu bạn chọn ngày cho cuộc Xuất hành do chính Kinh thánh đề xuất, tức là 480 năm trước khi xây dựng Đền thờ Solomon (1 Các Vua 6: 1), thì bạn sẽ có một ngày vào khoảng năm 1.500 trước Công nguyên. Dựa trên khảo cổ học và phân tích văn bản, các giáo sư John Bimson và David Livingston quá cố đã đề xuất một niên đại tương tự .
Vì vậy, chúng ta hãy cùng tìm hiểu niên đại Kinh thánh và xem liệu nó có dẫn chúng ta đến bất kỳ cuộc khảo cổ học nào liên quan đến tổ phụ người Israel tên là Giuse, nổi tiếng với chiếc áo choàng dài tay “nhiều màu” không:
Theo Torah (Năm Quyển Sách của Môsê), người Israel ở Ai Cập 430 năm (Xuất hành 12:40). Theo Talmud, văn bản theo truyền thống Rabbi cổ, nó chỉ có 215 năm (Pirkei Rabbi Elieser, c.48). Dựa trên vòng đời của các thế hệ người Israel đến và rời khỏi Ai Cập, 215 năm càng có ý nghĩa. Nhưng một cách khác để xem xét điều đó là có hai nhóm rời Ai Cập trong cuộc Xuất hành theo Kinh thánh – một nhóm sau khi ở Ai Cập 430 năm, và nhóm còn lại sau khi ở đó 215 năm.
Lịch sử và khảo cổ học tranh luận “ủng hộ” hay “chống lại” ý tưởng rằng có hai nhóm người rời Ai Cập trong cuộc Xuất hành theo Kinh thánh? Không nghi ngờ gì nữa, họ tranh luận theo hướng ủng hộ. Vào khoảng năm 1.500 trước Công nguyên, một nhóm người Canaan mà các học giả gọi là “Hyksos” và người Ai Cập cổ đại gọi là “Amo” đã rời Ai Cập trong một cuộc di cư hàng loạt. Các học giả gọi đây là “Trục xuất Hyksos”. Đồng thời, Kinh Thánh cho chúng ta biết (trong nguyên bản tiếng Do Thái) rằng “Amo Israel” tức là dân Israel, đã theo Môsê đến Đất Hứa.
Trong đoạn trích Torah của tuần này, “Ki Tisa”, chúng ta có câu chuyện về “Am” đã tạo ra con bê vàng. Những người này dường như được gọi là “Hyksos”. Phe của họ là một thách thức trực tiếp đối với sự lãnh đạo của Môsê và đối với thân tộc Israel của ông (Xuất hành 30: 11- 34: 35). Cuộc phản cách mạng của người Hyksos chỉ bị dập tắt sau khi khoảng 3.000 người nổi dậy bị giết bởi Môsê và lực lượng dân quân gia đình Lêvi của ông (Xuất hành 32: 28). Dù trường hợp nào, câu chuyện trong Kinh thánh ngụ ý rõ ràng rằng có hai nhóm rời khỏi Ai Cập, tức là phe ủng hộ và phe chống Môsê. Đây là một điểm quan trọng vì bằng chứng cho cuộc Xuất hành trong Kinh thánh có thể đang ẩn dấu sau cuộc khảo cổ học về Hyksos.
Khi Torah ghi lại rằng những người Israel ban đầu đã đến đồng bằng Ai Cập vì nạn đói, có vẻ như đã có một số dân người gốc Canaan, tức là người Hyksos, ở đó. Trong Sáng thế ký 41:44 , Giuse, con trai của Giacóp, trở thành giống như Pharaoh, tức là người đứng thứ hai sau Pharaoh của Ai Cập. Nếu ước tính của người Israel về sự hiện diện của họ ở Ai Cập là chính xác, thì việc Giuse lên nắm quyền diễn ra vào khoảng năm 1.700 trước Công nguyên. Nếu Giuse thực sự là một nhân vật nắm quyền giống như Pharaoh, vốn cai trị cả dân Israel và Hyksos, thì người ta nghĩ rằng phải có một số loại di tích khảo cổ chứng thực cho triều đại của ông. Và đã có.
Avaris; Nó có được đặt tên theo Giuse trong thánh kinh không?
Giáo sư Manfred Bietak đã đào bới tại Tell el-Dab’a ở Ai Cập trong hơn 40 năm. Ông đã xác định nó là “Avaris”, thủ đô Hyksos cổ đại. Avaris ở giữa khu vực mà Kinh thánh gọi là “Goshen” tức là khu vực mà dân Israel sinh sống trước cuộc Xuất hành. Từ “Avaris” không có nghĩa gì trong tiếng Ai Cập cả. Tuy nhiên, trong Torah, Giuse nhiều lần được gọi là “tên Hípri”; tức là “Ivri” trong tiếng Do Thái. Ông cũng được gọi nhiều lần và một cách kỳ lạ là “Ha Ish”; “Người đàn ông đó”. Nói cách khác, từ “Avaris” rất có thể liên quan đến Giuse, “Ish Ivri”, hoặc “Người đàn ông Hípri” (Sáng thế ký 39:14). Tất cả những điều này bị mất đi trong bản dịch khi Giuse được gọi đơn giản là “một tên Hípri”. Nói cách khác, cái gọi là thủ đô Hyksos dường như được đặt theo tên của Giuse, “Ish Ivri” tức là Avar-Ish.
Bên trái là hình ảnh dựng lại của Vị cai trị Ai Cập vốn không phải gốc Ai Cập. |
Trong khoảng thời gian từ 1986 đến 1988, Giáo sư Bietak đã tìm thấy phần còn lại của một bức tượng lớn dường như thuộc về một vị vua Avaris không phải gốc gác Ai Cập. Mặc dù chỉ còn lại những mảnh vỡ, các nhà khảo cổ học ước tính kích thước ban đầu của tượng người đang ngồi cao 2 mét và bệ đỡ 1,5 mét, tức là khoảng một lần rưỡi kích thước đời thực. Qua vai phải của bức tượng, bạn vẫn có thể nhìn thấy “cây trượng” của ông, tức là biểu tượng cho sự cai trị của ông. Ở mặt sau – đáng chú ý là với Giuse trong Kinh thánh – bạn vẫn có thể thấy bằng chứng cho thấy vị cai trị này mặc một bộ quần áo sọc, được tạo thành từ ít nhất ba màu: đen, đỏ và trắng. Ông được tìm thấy trong một ngôi mộ. Ngôi mộ trống rỗng. Đây có thể là kết quả của việc cướp bóc, nhưng người ta không thể không nhớ lại rằng câu chuyện trong Kinh thánh cho chúng ta biết rõ ràng rằng khi dân Israel rời khỏi Ai Cập thực hiện cuộc Xuất hành, họ đã mang theo xương của Giuse (Xuất hành 13:19). Nói cách khác, để phù hợp với tường thuật trong Kinh thánh, bất kỳ ngôi mộ nào của Giuse ở Ai Cập sẽ phải trống rỗng.
Họ gọi bức tượng là “Asiatic” tức là ông không phải là người Ai Cập, đúng hơn ông là một người đến từ vùng Canaan / Israel. Họ cũng có thể gọi ông là “Ish Ivri”. Không có nhiều điều về khuôn mặt của ông được để lại vì sau thời gian cai trị của ông, giống như với Giuse trong Kinh thánh, dân tộc của ông dường như đã trải qua một sự suy thoái. Nói cách khác, một người nào đó trong thời cổ đại đã lấy một cái búa đập vào mặt bức tượng. Nhưng kiểu tóc của ông vẫn còn nguyên vẹn. Họ gọi nó là kiểu tóc “nấm” và nó đặc biệt liên quan đến những người không thuộc nguồn gốc Ai Cập, nhưng đến từ khu vực Canaan / Israel cổ đại. Điều thú vị là nó khá “hợp thời – đúng mốt”, và Talmud đã cố gắng nói với chúng ta rằng Giuse là một tín đồ thời trang (Genesis Rabbah, 87: 3 ). Trên thực tế, Rabbinic Midrash Tanhuma Vayyesheb 8 đặc biệt nói về việc Giuse uốn tóc.
Bức tượng được tìm thấy trong một tầng địa chất tương ứng với năm 1.700 trước Công nguyên. Nói cách khác, nếu chúng ta lấy năm 1.500 trước Công nguyên làm niên đại của cuộc Xuất hành, và nếu người Israel lưu lại Ai Cập khoảng 200 năm, thì bức tượng của người cai trị này hoàn toàn phù hợp với câu chuyện về tổ phụ Giuse, người trị vì khoảng 215 năm trước cuộc Xuất hành.
Tất nhiên đó là phỏng đoán, nhưng dựa trên bằng chứng, tôi nghĩ chúng ta có thể nói rằng bức tượng của Giuse rất có thể đã được tìm thấy ở Ai Cập. Tại sao không ai để ý? Bởi vì các nhà sử học – một cách có ý thức hoặc vô thức – che giấu lịch sử của Israel / Do Thái đằng sau các thuật ngữ như “Hyksos”, “Asiatics” và “Amo”. Điều thú vị là các nhà chức trách Ai Cập dường như tin rằng bức tượng thực sự có liên quan đến Kinh thánh của người Do Thái giáo. Vài năm trước, khi tôi ở Ai Cập để quay bộ phim “The Exodus: Decoded – Cuộc Xuất Hành: Giải mã”, tôi đã yêu cầu được quay cảnh phát hiện của Giáo sư Bietak. Các nhà chức trách Ai Cập vốn không thích thứ khảo cổ học nào mà lại xác nhận Kinh thánh của người Do Thái, vì vậy họ nói với tôi rằng bức tượng đã bị “đặt nhầm chỗ”. Nhưng vì hiện vật có trọng lượng khá lớn nên đây không phải là thứ mà bạn có thể dễ dàng “đặt nhầm chỗ”.
Có vẻ như người Ai Cập cũng tin rằng những gì họ đang giấu trong lòng Bảo tàng Cairo là tượng đài duy nhất của tổ phụ Giuse từng được tìm thấy.
Thông tin về các tác giả: Simcha Jacobovici là nhà làm phim và nhà báo người Canada gốc Israel. Ông là người ba lần đoạt giải Emmy vì là “Nhà báo điều tra xuất sắc” và là tác giả bán chạy nhất của Thời báo New York. Ông cũng là trợ giảng tại Khoa Tôn giáo tại Đại học Huntington, Ontario.
Phạm Văn Trung chuyển ngữ, từ blogs.timesofisrael.com.
2021
Sự Phục Sinh của Đức Giêsu, Đấng Chịu Chết và Chịu Đóng Đinh
Sự Phục Sinh của Đức Giêsu, Đấng Chịu Chết và Chịu Đóng Đinh
Ảnh: Đức Kitô Phục Sinh, của Hendrik de Klerck (1560/1570–1630)
SỰ PHỤC SINH CỦA ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CHỊU CHẾT VÀ CHỊU ĐÓNG ĐINH
WGPQN (04.04.2021) – Sau cú sốc đóng đinh, các môn đệ của Đức Giêsu lại phải kinh nghiệm thêm một điều còn hoang mang hơn: sự phục sinh. Sự biến đổi của hữu thể là một thực tại siêu vượt, khó tả bằng lời và đôi khi bị những người tin hiểu nhầm, dù đây là nền tảng của đức tin Kitô giáo. Để làm sáng tỏ vấn đề này, Christiane Cloutier Dupuis vạch lại những dấu vết của niềm tin này trong Cựu Ước, lưu ý đến ý nghĩa của nó đối với người Do Thái thời Đức Giêsu và kết luận với một suy tư về ý nghĩa của nó đối với chúng ta hiện nay. (Người dịch)
Chỉ cần đọc năm chương đầu tiên của sách Tông đồ công vụ đủ để nhận thấy tầm quan trọng của sự phục sinh Đức Giêsu đối với những cộng đoàn Kitô giáo tiên khởi. Chính ở đây ta tìm thấy Tin mừng tiên khởi (kérygme), nghĩa là sự tuyên xưng đức tin ở đầu nguồn Kitô giáo: “Đức Giêsu Nadarét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em […] anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi […] Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại” (Cv 2, 22-24). Khẳng định này, đặc biệt nói về cuộc đóng đinh và sống lại của Đức Giêsu, cũng được tìm thấy trong Cv 2, 31-33; 3, 13-15; 4, 10-11; 5, 30-31. Như thế, đủ để thấy tầm quan trọng của nó.
Nguồn gốc và tiến triển.
Để hiểu rõ hơn về sự phục sinh, phải ngược dòng lên đến tận nguồn của niềm tin này trong Do Thái giáo, bởi vì Đức Giêsu, các môn đệ và tông đồ của Ngài, các thành viên của cộng đoàn Giêrusalem đầu tiên, họ đều là người Do Thái tự huyết thống, với tôn giáo và văn hóa của họ. Vì thế chúng ta phải đặt sự phục sinh trong bối cảnh này. Nếu các tông đồ cũng như các môn đệ đã tin thì chính là vì sự phục sinh những kẻ chết là một phần trong niềm tin tôn giáo của họ. Niềm tin vào sự phục sinh đã xuất hiện vào thế kỷ II trước Công nguyên, với sự bách hại của Antiochus IV Épiphane, người muốn Hy Lạp hóa dân tộc Do Thái, bắt buộc họ phải thay đổi tôn giáo và ngôn ngữ của mình. Lúc ấy, người Do Thái nổi loạn lên để giữ trung thành với Thiên Chúa và rồi sau đó là cuộc chiến đẫm máu. Biến cố này đã mở ra một suy tư thần học quan trọng: nếu Thiên Chúa là công bình và khi người ta chết vì lòng trung thành với Ngài, thì điều gì xảy ra với những người trẻ tuổi đã bị giết vì lòng tin của họ? Câu trả lời thần học cho câu hỏi này được diễn tả trong sách II Macabê 7, 9 : “Vua [Antiochus Épiphane] là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” và trong sách Đanien 12, 2: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời”.
Vào thời Đức Giêsu
Vào thế kỷ I của kỷ nguyên chúng ta, người ta đọc lại và giải thích những bản văn Cựu Ước dưới ánh sáng của văn chương cận Kinh Thánh (parabiblique), những bản văn Do Thái giáo và Kitô giáo được soạn thảo bên ngoài Kinh Thánh, nhưng không được xem như là được linh hứng. Chẳng hạn, người Pharisiêu tin rằng sự phục sinh sẽ xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế (Messie) đến và đó sẽ là sự sống được biến đổi với Thiên Chúa như diễn tả của sách Đanien, sách Các dụ ngôn (phần thứ hai của sách Hênốc được soạn thảo vào khoảng năm 100 trước Công nguyên) và Các thánh vịnh Salômon (63-50 trước Công nguyên): “Những ai kính sợ Thiên Chúa sẽ được sống lại để sống đời đời và sự sống của họ trong ánh sáng của Đức Chúa sẽ không bao giờ ngừng” (33, 16). Trong Mc 12, 18-27, khi những người Sađucêô hỏi Đức Giêsu về vấn đề phục sinh, câu trả lời đã thể hiện quan niệm của Ngài: “Khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (12, 25). Đây là ảnh hưởng trực tiếp của sách Hênốc: “Tất cả những người công chính sẽ trở nên như thiên thần trên trời” (51, 4). Nhưng ví dụ quyết định để thấy sự khai triển này là sự đọc lại của ngôn sứ Hôsê 6, 2 (thế kỷ VIII trước Công nguyên): “Sau hai ngày, Người sẽ hoàn lại cho chúng ta sự sống; ngày thứ ba, sẽ cho chúng ta trỗi dậy, và chúng ta sẽ được sống trước nhan Người”. Vào thời Đức Giêsu, câu này được đọc lại trong sách Targum (bản dịch Sách Thánh từ tiếng Hípri sang tiếng Aram, ngôn ngữ của Đức Giêsu): “Ngài sẽ làm cho chúng ta sống lại vào ngày an ủi sẽ xảy đến; ngày mà Ngài sẽ cho những kẻ chết sống lại, Ngài sẽ cho chúng ta trỗi dậy và chúng ta sẽ sống trước sự hiện diện của Ngài”. Câu này chuyển từ một thời gian có tính niên đại (chronologique) sang thời gian có tính biểu tượng (symbolique); ngày thứ ba đồng nghĩa với ngày sống lại. Ta thấy cùng một giải thích như trên trong sách Midrash Rabbah về sách Sáng Thế Ký 22, 4[1]: “Ngày thứ ba, đó là ngày sống lại của những kẻ chết”.
Ta lại thấy ý nghĩa này trong các trình thuật của Tân Ước. Tân Ước không gợi lên điều gì về sự hồi sinh một xác chết nhưng là sự đi vào một sự sống mới mà ta có thể hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa trong một hiện hữu được biến bình, như diễn tả của văn chương Do Thái vào thời ấy. Chứng nhân tuyệt vời xác nhận cách hiểu này chính là tông đồ Phaolô, người đã viết các thư của mình trước cả các tin mừng. Đây là điều mà ngài giải thích cho các tín hữu Côrintô khi họ đặt vấn nạn về vấn đề này: “Nhưng có người sẽ nói: kẻ chết trỗi dậy thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở về? Đồ ngốc! […] Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí” (1 Cr 15, 35-44). Đó là tình trạng được ở với Thiên Chúa, một hữu thể hoàn toàn thiêng liêng. Cũng nên lưu ý rằng từ soma trong tiếng Hy Lạp, thường được dịch là “thân xác”, tuy nhiên nó cũng có nghĩa là “ngôi vị” (personne) trong ngôn ngữ phổ thông của những người thuộc thế kỷ I của kỷ nguyên chúng ta. Như thế, đối với Thánh Phaolô, chính ngôi vị phục sinh. […]
Hiểu các trình thuật phục sinh như thế nào?
So sánh các trình thuật phục sinh ta thấy nhiều khác biệt và lệch nhau đến độ có thể mất đức tin! Chính vì thế nên thật quan trọng để nắm bắt điều chính yếu trong những trình thuật này mà thoạt nhìn xem ra có vẻ mâu thuẫn. Daniel Marguerat[2] giải thích rằng kinh nghiệm sống của một người không phải là bản sao của người khác, thế nên có sự rời rạc rõ ràng. Có tính chủ quan và tính cá biệt trong đó vì nó luôn là một kinh nghiệm cực kỳ cá nhân.
Câu hỏi lớn được đặt ra vào thời đại ấy là: làm sao thuật lại một sự kiện tương tự nhau? Làm sao diễn tả một kinh nghiệm thiêng liêng liên quan đến điều khó nói và khó tả? Các nhân chứng của sự phục sinh đều là người Sêmít. Vì thế, họ diễn tả theo nền văn hóa của họ có khuynh hướng nại đến các hình ảnh trước hết. Họ có cảm hứng dồi dào từ ngôn ngữ của Cựu Ước mà theo đó thì nhìn thấy Thiên Chúa không có nghĩa là thấy được mặt Ngài nhưng nghe Lời Ngài. Đó là một thành ngữ Hípri, một lối nói Sêmít. Vì thế, khi các môn đệ và tông đồ muốn thuật lại rằng Đức Giêsu vẫn luôn luôn sống, họ đã kín mức từ trong nền văn hóa tôn giáo của mình. Các tác giả đã chọn những động từ phù hợp trong tiếng Hy Lạp: “thấy” với nghĩa là “nghe” hoặc “hiểu” và “làm cho thấy” có nghĩa là “tỏ mình”. Điều này giải thích tại sao trong các bản văn nói về sự hiện ra của Đức Giêsu phục sinh, người ta không mô tả nó mà chỉ nói rằng đã nhận ra Ngài nhờ lời và các cử chỉ của Ngài. Và khi người ta dịch rằng: “Ngài đã hiện ra”, thì phải đọc theo ý nghĩa Sêmít của động từ Hy Lạp: “Ngài đã tỏ mình”. Những thế hệ Kitô hữu đầu tiên đã hiểu rõ ý nghĩa của phục sinh. Có lẽ vì thế mà nó thật đáng tin dưới mắt họ và kém đi dưới mắt chúng ta.
Ngày nay, làm sao hiểu về sự phục sinh?
Các thành viên của thế hệ Kitô hữu đầu tiên đã kinh nghiệm về Đức Giêsu chịu chết vì đóng đinh, nhưng vẫn luôn luôn sống. Họ hoàn toàn bị xáo trộn về điều đó. Vì thế buộc họ phải đọc lại căn tính và hành động của Ngài: Ngài thật sự là ai và sứ mệnh Ngài là gì, một sứ mệnh rất quan trọng dưới mắt Thiên Chúa? Trong những chương đầu của sách Tông đồ công vụ, chính kinh nghiệm về sự phục sinh của Ngài đã mở tâm thức của họ về hai vấn đề này. Diễn từ của Thánh Phêrô trong Cv 2, 22-24 rất rõ ràng về vấn đề này: “Thưa đồng bào Ítraen, xin nghe những lời sau đây. Đức Giêsu Nadarét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó. Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người mãi”. Họ đã nhận ra Ngài đích thị là Đấng Cứu Thế và sứ mệnh của Ngài đến từ Thiên Chúa. Họ đã hiểu tầm quan trọng của sứ mệnh Ngài vì sự phục sinh là lời đáp trả của Thiên Chúa đối với sự trung thành của Đức Giêsu. Chính vào thời khắc này mà họ ý thức được mọi trọng trách của tình trạng làm môn đệ của mình. Nếu thực tế họ đã gặp gỡ Ngài, đã tin vào Ngài, đã đi theo Ngài và đã chấp nhận được Ngài chọn lựa, thì chính vì thế mà họ phải tiếp tục sứ mệnh của Ngài khi loan báo sứ điệp Ngài và làm lại những cử chỉ của Ngài.
Chúng ta không thể hỏi các môn đệ đầu tiên về kinh nghiệm này và tại sao họ tin chắc như thế. Nhưng sự thay đổi thái độ của họ giữa cuộc khổ nạn và sau phục sinh là dấu hiệu rõ ràng nhất cho sự phục sinh. Trong trình thuật khổ nạn, Phêrô đã chối Ngài và tất cả họ đều trốn hết vì sợ. Trong Công vụ, họ đã trở nên cam đảm và kiên quyết; không gì có thể làm họ thinh lặng hay ngăn cản họ nói về Ngài. Chúng ta cũng phải nắm vững về sự phục sinh. Sự vững vàng của đức tin chúng ta dựa vào đó. Chúng ta cũng phải suy nghĩ lại về hiện trạng làm môn đệ của chúng ta như là các chứng nhân cho sự phục sinh đã làm. Đâu là sứ mệnh của chúng ta ở đây và bây giờ? Chúng ta có thể nói về Đức Kitô phục sinh một cách có hiểu biết và có ý nghĩa không? Chúng ta sống sứ điệp mà Ngài đã loan báo đến đâu và như thế nào? Đó là chất liệu để suy tư trong mùa Phục Sinh này!
Tác giả: Christiane Cloutier Dupuis
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Từ: Parabole, Mars 2021, Vol. XXXVII, No 1, tr. 7-9
[1] Stk 22, 4: “Sang ngày thứ ba, ông Ápraham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa”.
[2] Trong Résurrection, une histoire de vie, Poliez-le-Grand, Editions du Moulin, 2001, tr. 57-69.