2021
Có hay không một Chủ nghĩa đế quốc Công giáo?
Có hay không một Chủ nghĩa đế quốc Công giáo?
Bạn đã từng nghe về chủ nghĩa đế quốc Công giáo (Catholic imperialism) chưa? Đó là một huyền thoại phổ biến chống Công giáo đại loại như thế này: Các nhà truyền giáo Công giáo là những tay đế quốc đã nô lệ hóa và bần cùng hóa các dân tộc bản địa!
Nhưng như tất cả các huyền thoại chống Công giáo khác, đây là câu chuyện không đúng. Và đây mới là chuyện đúng và thật!
Vào Thời đại Khám phá (Age of Exploration), giữa thế kỷ XV và XVI, đã tạo nên một tình trạng chưa từng có cho Giáo Hội. Với việc khám phá những miền đất mới rộng lớn, người ta nhận ra rằng có biết bao nhiêu triệu người chưa từng biết đến sứ điệp của Đức Giêsu Kitô.
Chính Đức Giêsu đã nói khi ủy nhiệm sứ mệnh truyền giáo: “Hãy đi và làm cho các dân tộc trở thành môn đệ, giảng dạy cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều thầy đã truyền dạy cho các con” (Mt. 28,19-20).
Vì thế các nhà truyền giáo bắt đầu chấp nhận những khó khăn và nguy hiểm của những chuyến du hành khắp thế giới vào thời ấy. Họ đi khắp hoàn cầu, theo chân các nhà khám phá và mang sứ điệp Đức Kitô đến với mọi người ở khắp mọi nơi.
Nhưng có một vấn đề: các thế lực đế quốc khác nhau – chủ yếu là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, Pháp, Anh, và Hà Lan – họ đã khám ra những miền đất mới và bận rộn tranh giành với nhau để thiết lập nên những thuộc địa. Mỗi quốc gia tìm kiếm lợi ích của riêng mình và không muốn rơi lại phía sau những quốc gia khác.
Điều này có nghĩa là những thế lực này cũng tranh giành và trong nhiều trường hợp đã khai thác các dân tộc bản xứ của những miền đất này. Tệ hơn nữa, nhiều nhà khai thác còn nhân danh đức tin Kitô giáo của mình để biện minh cho sự chinh phục, bóc lột và nô lệ hóa những người dân bản xứ.
Các nhà truyền giáo đã làm gì? Những người Công giáo đã phàn nàn với Đức giáo hoàng về điều mà những kẻ xâm chiếm và những người khác đang làm, và năm 1537, Đức Phaolô III đã ban hành đoản sắc Pastorale Officium, trong đó ngài nhắc lại rằng hoàng đế Charles V, vị hoàng đế thánh thiện của Rôma, đã cấm các thần dân của mình nô dịch hóa hay cướp bóc dân bản xứ trong những miền đất truyền giáo. Rồi Đức thánh cha thêm vào đấy hình phạt cao nhất của Giáo Hội là dứt phép thông công (penalty of excommunication):
Vì thế, chúng tôi cảnh báo rằng những người dân bản xứ này, mặc dù ở ngoài Giáo Hội, họ vẫn không thiếu hay bị tước đoạt quyền tự do hay quyền sở hữu tài sản của mình, vì họ là những con người và do đó họ có khả năng đức tin và ơn cứu rỗi, nên họ không phải bị tiêu diệt bằng sự nô lệ hóa mà đúng ra phải được mời gọi đến sự sống qua sự rao giảng và gương mẫu. Thêm vào đó, chúng tôi muốn ngăn chặn những hành vi đáng kinh tởm của những kẻ vô đạo đức và bảo đảm rằng những người bản xứ không quá cứng lòng để đón nhận đức tin vào Đức Kitô … chúng tôi đòi buộc rằng … hãy hết sức cẩn trọng hầu tránh được sự nghiêm khắc … của hình phạt dứt phép thông công … bất cứ ai ở bất cứ cấp bậc nào biến những người bản xứ nói trên thành nô lệ dưới bất kỳ hình thức nào hoặc cướp bóc tài sản của họ dưới bất kỳ hình thức nào.
Đây là một trong những văn kiện của các đức giáo hoàng vào thời kỳ ấy đã đứng về phía dân bản xứ chống lại những người tìm cách áp bức họ. Các ngài nói rằng họ là những con người (nghĩa là có nhân quyền) và họ có thể quay mặt với Tin Mừng vì bị đối xử tệ. Điều này đặc biệt quan trọng bởi vì Giáo Hội luôn luôn cấm cải đạo cưỡng bách. Như giải thích của sách Giáo lý Giáo Hội Công giáo, số 160, Tin Mừng phải được đón nhận cách tự nguyện: “Để là một hành vi của con người, “đức tin mà con người đáp lại Thiên Chúa phải là tự nguyện. Do đó, không ai bị cưỡng bức phải chấp nhận đức tin trái với ý muốn. Thật vậy, tự bản chất đức tin là một hành vi tự ý“.
Như vậy Giáo Hội nhìn nhận dân bản xứ như là những con người, họ đáng được tôn trọng và có linh hồn cần được Đức Giêsu cứu rỗi. Giống như những người Âu châu, Đức Kitô đã chết cho họ, và họ phải được đối xử như mọi người khác. Như thế, Giáo Hội tìm cách giúp các dân tộc bản xứ và bảo vệ họ khỏi bị khai thác.
Mặc dù điều này cũng có hiệu quả, song rủi thay nó không có nghĩa là tất cả mọi sự khai thác đều dừng lại. Như đức giáo hoàng ngày nay không thể sai khiến các chính trị gia Công giáo đưa giáo huấn Giáo hội về các vấn đề như phá thai vào chính sách công, các giáo hoàng của thời đại ấy cũng đã có ảnh hưởng hạn chế trên các thế quyền.
Kết quả là một thời đại có cả ánh sáng lẫn bóng tối, có sự khai thác lẫn sự phát triển của Tin Mừng. Như trong mỗi thời đại, người trong thời đại ấy phải được nhìn cách đúng với thực tế. Không có gì hoàn toàn tốt, chẳng có gì xấu hoàn toàn. Giống như chúng ta, họ là những cá nhân phức tạp.
Các giáo hoàng gần đây đã nhìn nhận điều đó, gồm cả Đức Phanxicô, người đã khẳng định rằng: “Tôi nói điều này với sự tiếc nuối: chúng ta đã phạm phải nhiều trọng tội với các dân tộc bản xứ của châu Mỹ nhân danh Thiên Chúa … Giống như Đức Gioan Phaolô II, tôi xin Giáo Hội – tôi lập lại điều tôi đã từng nói – là hãy quỳ gối trước Thiên Chúa và xin tha thứ vì những tội lỗi của các con cái mình trong quá khứ và hiện tại”.
Rồi ngài tiếp tục, “Cùng với lời cầu xin tha thứ này, và để được công bằng, tôi cũng muốn chúng ta hãy tưởng nhớ đến hàng ngàn linh mục và giám mục đã mạnh mẽ chống lại lý lẽ của lưỡi gươm với quyền năng của thập giá”.
Jimmy Akin
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ
2021
Vì sao tôi ở lại trong Giáo hội?
Vì sao tôi ở lại trong Giáo hội?
Vài tuần trước, sau khi có bài diễn thuyết ở một hội nghị tôn giáo, câu đầu tiên khán giả đặt ra cho tôi là: Làm sao chúng ta có thể tiếp tục ở lại trong một Giáo hội có vai trò chủ chốt trong việc lập và duy trì các trường nội trú cho người bản địa ở Canada? Làm sao chúng ta ở lại trong một Giáo hội đã làm những chuyện này?
AFP: Osservatore Romano, file photo
Câu hỏi này chính đáng và quan trọng. Cả trong lịch sử cũng như trong hiện tại, Giáo hội đã phạm đủ tội làm cho câu hỏi này trở nên chính đáng. Danh sách các tội đã phạm nhân danh Giáo hội rất dài: Tòa dị giáo, ủng hộ chế độ nô lệ, vai trò của Giáo hội trong chủ nghĩa thực dân, mối liên kết với chủ nghĩa phát xít, vai trò trong việc áp chế nữ quyền, và vô số những thỏa hiệp trước đây và hiện tại với chủ nghĩa ưu việt da trắng, tiền bạc và chính trị. Những người phê phán Giáo hội có lúc quá đáng và thiếu cân bằng, nhưng nhìn chung, rõ ràng là Giáo hội có tội.
Tuy nhiên, tội này đâu phải chỉ có nơi Giáo hội. Những tội này có thể áp dụng với bất kỳ quốc gia nào mà chúng ta đang sống. Làm sao chúng ta có thể ở lại trong một đất nước có lịch sử kỳ thị chủng tộc, chế độ nô lệ, thực dân, diệt chủng những người bản địa, bất bình đẳng giàu nghèo cùng cực, một đất nước chai đá trước những người tị nạn tuyệt vọng đang đến gõ cửa, và một đất nước mà hàng triệu người căm ghét lẫn nhau? Khi nói rằng tôi hổ thẹn vì là người công giáo (hay kitô giáo) trong khi chúng ta đang sống ở một đất nước cũng mang cùng lịch sử và tội trạng như thế, như vậy chẳng phải là kiểu đạo đức có chọn lọc hay sao?
Nhưng mà, Bởi vì Giáo hội phải là men muối cho xã hội, chứ không phải là tấm gương phản ánh xã hội, nên câu hỏi đó vẫn chính đáng. Tại sao chúng ta ở lại trong giáo hội? Có những câu trả lời biện giáo đủ tốt cho chuyện này, nhưng xét cho cùng, với mỗi người chúng ta, câu trả lời phải là một câu trả lời của riêng mỗi người. Tại sao tôi ở lại trong giáo hội?
Trước hết, vì Giáo hội là tiếng mẹ đẻ của đời tôi. Giáo hội cho tôi đức tin, dạy tôi tin vào Chúa, cho tôi lời Chúa, dạy tôi cầu nguyện, cho tôi các bí tích, cho tôi thấy các nhân đức là thế nào, và đưa tôi liên kết với những vị thánh sống. Hơn nữa, bất chấp những khiếm khuyết của mình, với tôi, Giáo hội đủ chân thực, đủ vị tha, đủ tinh tuyền để có thẩm quyền luân lý cho tôi giao phó tâm hồn mình, một tin tưởng tôi không có với bất kỳ thực thể công nào. Tôi thoải mái với chuyện thờ phượng cùng các tôn giáo khác, và chia sẻ tấm lòng với những người không có đức tin, nhưng trong giáo hội mà tôi lớn lên, tôi thấy có mái ấm và tiếng mẹ đẻ của đời tôi.
Thứ hai, lịch sử của Giáo hội đâu chỉ có một màu. Tôi nhận ra tội lỗi của Giáo hội và công khai công nhận chúng, nhưng những cái đó còn lâu mới là toàn bộ hiện thực. Giáo hội cũng là Giáo hội của các vị tử đạo, các thánh, của lòng quãng đại vô hạn, và của hàng triệu người với tấm lòng cao thượng, rộng lượng, những gương mẫu đạo đức của tôi. Tôi đứng trong bóng tối tội lỗi của Giáo hội, nhưng tôi cũng đứng trong ánh sáng diễm phúc của Giáo hội, trong mọi sự tốt đẹp mà Giáo hội đã làm suốt dòng lịch sử.
Cuối cùng, và quan trọng nhất, tôi ở lại với Giáo hội vì Giáo hội là tất cả những gì chúng ta có! Đâu còn nơi nào khác để đi. Tôi thấy cảm giác vui buồn lẫn lộn này giống với cảm giác của thánh Phêrô sau khi nghe Chúa Giêsu nói “không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”, mọi người quay mặt bỏ đi rồi Chúa quay sang thánh Phêrô mà hỏi, “cả anh cũng bỏ Thầy mà đi sao?” và Phêrô, thay mặt các tông đồ, đã trả lời: “ Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Về căn bản, thánh Phêrô nói rằng, “Chúng con không hiểu Ngài, và những gì chúng con hiểu được thường lại là cái chúng con chẳng thích. Nhưng chúng con biết ở bên Ngài dù không hiểu, nhưng còn hơn đi bất kỳ nơi nào khác. Bất chấp những lúc tăm tối, Ngài là tất cả những gì chúng con có!”
Giáo hội là tất cả những gì chúng ta có. Chúng ta còn đi đâu được chứ? Ẩn sau câu nói, “Tôi có lòng đạo, nhưng không có tôn giáo” dù thốt ra cách chân thành đến mấy, cũng có hoặc một thất bại cùng cực, hoặc một miễn cưỡng sai trái không dám giải quyết chuyện thiết yếu của cộng đồng tôn giáo, không dám giải quyết cái mà bà Dorothy Day gọi là “chủ nghĩa khổ hạnh của đời sống Giáo hội”. Có thể nói rằng, câu “Tôi không thể hoặc sẽ không giải quyết một cộng đồng tôn giáo ô uế” chính là một lối thoát có lợi cho bản thân, một thứ đến tận cùng sẽ không hữu ích gì mấy, không chỉ cho người nói ra câu đó. Tại sao lại thế? Bởi vì để lòng cảm thương có hiệu lực, nó cần mang tính tập thể, bởi giấc mơ chúng ta mơ một mình vẫn là giấc mơ, nhưng giấc mơ chúng ta mơ cùng người khác có thể trở thành hiện thực. Tôi chẳng thể thấy có gì ngoài Giáo hội có thể cứu thế giới này.
Không có Giáo hội tinh tuyền nào để chúng ta gia nhập cả, cũng như không có quốc gia tinh tuyền nào để chúng ta chọn sống ở đó. Giáo hội này, với toàn bộ lịch sử có tốt có xấu và với hiện tại đang tổn thương của nó, chính là tất cả những gì chúng ta có. Chúng ta cần mang lấy những lỗi phạm của Giáo hội, vì chúng cũng là lỗi phạm của chúng ta. Lịch sử Giáo hội là lịch sử của chúng ta, tội của Giáo hội là tội của chúng ta, và gia đình của Giáo hội là gia đình của chúng ta, gia đình trường tồn duy nhất mà chúng ta có.
J.B. Thái Hòa dịch
2021
Giám mục Mexico đăng quảng cáo tìm kiếm linh mục trừ tà
Giám mục Mexico đăng quảng cáo tìm kiếm linh mục trừ tà
Trong một trường hợp thật hi hữu, Đức Cha José Armando Álvarez Cano của Tampico đã đăng quảng cáo tìm kiếm một linh mục trừ tà cho giáo phận. Việc đăng quảng cáo như thế cho thấy một mức độ cấp bách của tình hình tại giáo phận này.
Một quảng cáo được đăng ngày 7 tháng 7 trên tạp chí của giáo phận cho biết nhà trừ tà phải “quan tâm đến một số tình huống đã xảy ra trong vài tháng qua tại giáo phận Tampico”.
Ấn phẩm cũng cho biết một số linh mục của giáo phận gần đây đã tham gia vào một khóa đào tạo do Tổng giáo phận Mexico tổ chức. Tuy nhiên, số các linh mục trừ tà trong giáo phận vẫn không đủ.
Trừ tà là một phương thuốc để giải thoát các nạn nhân bị quỷ nhập.
Cha Jordan Aumann, một tu sĩ dòng Đa Minh ở Miền Trung Mexico qua đời năm 2007, đã viết rằng “để trừ tà trọng thể, cần phải xác minh một cách chắc chắn thực tế của việc bị quỷ nhập và sau đó xin một lệnh khẩn cấp của vị giám mục bản quyền cho phép trừ tà”.
Ngài nói thêm rằng người trừ tà nên chuẩn bị tinh thần bằng cách xưng tội, ăn chay và cầu nguyện, và thực hiện nghi thức trong nhà thờ hoặc nhà nguyện.
Khi ma quỷ đã được xua đuổi, “người trừ quỷ nên cầu xin Chúa ra lệnh cho ma quỷ không bao giờ được nhập vào cơ thể người nó vừa mới bỏ đi. Người trừ tà nên tạ ơn Chúa và khuyên bệnh nhân được giải thoát hãy chúc tụng Chúa và cẩn thận tránh xa tội lỗi kẻo lại rơi vào sự thống trị của ma quỷ”.
(vietcatholic 12.07.2021/ catholicnewsagency)
Bài viết có thay “Mễ Tây Cơ” thành “Mexico”, so với bản tin gốc
2021
Vụ kiện lố bịch nhất nước Mỹ: Cha giảng không hài lòng, kiện, đòi 25.000, bị Tòa Phúc Thẩm cảnh cáo
Vụ kiện lố bịch nhất nước Mỹ: Cha giảng không hài lòng, kiện, đòi 25.000, bị Tòa Phúc Thẩm cảnh cáo
Gia đình một thiếu niên 18 tuổi đã kiện một linh mục ra tòa đòi tiền thiệt hại vì ngài đã mạnh mẽ chỉ trích việc thiếu niên này tự tử ngay trong đám tang của anh ta. Vụ kiện này là một trong các vụ kiện gây sốc nhất và lố bịch nhất tại Hoa Kỳ kéo dài từ năm 2019 cho đến nay.
Hôm thứ Năm 9 tháng 7, trong phiên xử tại Tòa án phúc thẩm Michigan, 3 thẩm phán đã đồng thanh đưa ra phán quyết vị linh mục hoàn toàn vô tội, ngài được bảo vệ bởi các điều khoản liên quan đến tôn giáo của Tu chính án thứ nhất.
Trước đó một thẩm phán tại Quận Monroe, đã bác bỏ đơn kiện của bà mẹ anh thanh niên Maison Hullibarger. Tuy nhiên, gia đình chống án lên Tòa án phúc thẩm Michigan.
Chúng tôi xin được tóm tắt lại vụ việc như sau.
Trong một vụ kiện được coi là lố bịch nhất khiến nhiều tín hữu Công Giáo tại tổng giáo phận Detroit bất bình, một gia đình Công Giáo đã đâm đơn kiện cha sở của họ đòi bồi thường 25,000 Mỹ Kim vì vị linh mục này đã can đảm nói lên một chân lý đức tin trong bài giảng tại thánh lễ an táng đứa con của họ.
Gia đình này nói rằng cha LaCuesta đã gây ra cho họ những tổn thương và đau đớn không thể khắc phục được vì trong đám tang con trai của họ, cha LaCuesta đã nhiều lần nhắc đến chuyện con trai họ đã chết vì tự tử, và thúc giục cộng đoàn cầu nguyện một cách đặc biệt cho linh hồn của người quá cố.
Maison Hullibarger, mười tám tuổi, đã tự sát vào ngày 4 tháng 12 năm 2018. Bốn ngày sau đó, tức là vào ngày 8 tháng 12 năm 2018, cha LaCuesta đã cử hành Thánh lễ an táng Maison tại giáo xứ Đức Mẹ Núi Carmelô ở Temperance, Michigan.
Một năm sau, cha mẹ Maison, là ông Jeff và bà Linda Hullibarger, đã đệ đơn kiện cha LaCuesta, giáo xứ Đức Mẹ Núi Carmelô, và cả Tổng giáo phận Detroit để đòi 25,000 đô la thiệt hại.
Trong một tuyên bố được các luật sư của gia đình công bố hôm 14 tháng 11, họ nói rằng:
“Không có bậc làm cha làm mẹ nào, không có người anh, người chị, người em nào, không có thân bằng quyến thuộc nào trong gia đình, phải ngồi chịu trận như chúng tôi trong thánh lễ an táng này”.
Trong bài giảng của ngài, cha LaCuesta nói rằng tự tử là một hành động chống lại thánh ý Chúa, nhưng ngài cũng kêu gọi cộng đoàn trông cậy vào lòng thương xót Thiên Chúa, và đừng tuyệt vọng nhưng phải cầu nguyện đặc biệt sốt sắng cho người quá cố.
Trong đơn kiện, ông Jeff, cha của Maison, nói rằng ông đã tiến lên bục giảng trong khi cha LaCuesta đang giảng và yêu cầu ngài “Xin làm ơn đừng nói đến chuyện tự tử nữa.” Nhưng cha LaCuesta vẫn tiếp tục bài giảng của ngài theo chiều hướng đó.
Cho nên, cuối năm 2019, cha mẹ Maison, là ông Jeff và bà Linda Hullibarger, đã đệ đơn kiện cha LaCuesta, giáo xứ Đức Mẹ Núi Carmelô, và cả Tổng giáo phận Detroit để đòi 25,000 đô la thiệt hại.
Vụ kiện này đang gây ra một làn sóng bất bình không chỉ trong tổng giáo phận Detroit mà còn nhanh chóng lan rộng ra các giáo phận khác của Hoa Kỳ. Các chuyên gia về Phụng Vụ tại Hoa Kỳ nói Cha LaCuesta giảng hoàn toàn đúng, hoàn toàn phù hợp với sách giáo lý của Giáo Hội Công Giáo; và cho biết thêm rằng vị giảng thuyết trong thánh lễ là người duy nhất có quyền quyết định nội dung bài giảng. Việc gia đình chạy lên bục giảng yêu cầu chủ tế giảng theo ý mình là quá đáng.
Sau tang lễ, gia đình Hullibargers đã phàn nàn với Tổng giáo phận Detroit, đe dọa thưa kiện và đòi cha LaCuesta phải bị thuyên chuyển đi nơi khác.
Để tránh bị thưa kiện, Đức Tổng Giám Mục Allen Vigneron đã đồng ý gặp gỡ gia đình này; và một ngày sau đó, cụ thể là ngày 17 tháng 12 năm 2018, Tổng giáo phận Detroit đã đưa ra một tuyên bố về vấn đề này.
Tuyên bố của tổng giáo phận Detroit là một sự nhượng bộ rõ rệt trước những phản ứng gay gắt của gia đình Hullibargers. Tuyên bố này có đoạn viết như sau:
“Hy vọng của chúng tôi là luôn mang lại niềm an ủi cho những tình huống đau đớn tột cùng, thông qua các nghi lễ an táng tập trung vào tình yêu và sức mạnh chữa lành của Chúa Kitô. Thật không may, điều đó đã không xảy ra trong trường hợp này. Chúng tôi hiểu rằng có thể chúng tôi đã gây ra một tình huống thậm chí còn khó khăn hơn, và chúng tôi xin lỗi về điều này.”
“Chúng tôi biết rằng gia đình đã bị tổn thương hơn nữa bởi sự lựa chọn của Cha LaCuesta khi ngài muốn chia sẻ giáo huấn của Giáo hội về hành vi tự tử. Trong khi, lẽ ra ngài nên nhấn mạnh hơn đến sự gần gũi của Chúa với những người than khóc.”
Tuy nhiên, Tổng giáo phận không đồng ý với yêu sách của gia đình đòi cha LaCuesta phải bị thuyên chuyển đi nơi khác. Tuyên bố chỉ nói một cách nhân nhượng rằng cha LaCuesta sẽ không giảng trong các thánh lễ an táng những người tự tử nữa, hay nếu không có linh mục thì bài giảng của ngài sẽ được một vị nào đó duyệt qua. Đó là một nhượng bộ mà gia đình Hullibargers cho là quá ít, không thể chấp nhận.
Trong đơn kiện, gia đình Hullibarger cáo buộc rằng Đức Tổng Giám Mục Allen Vigneron tuy đồng ý gặp gỡ họ nhưng khi bà mẹ của người quá cố là bà Linda Hullibarger bắt đầu công kích cha LaCuesta thì Đức Tổng Giám Mục tỏ vẻ không hài lòng. Ngài đứng dậy và yêu cầu chấm dứt cuộc họp với gia đình.
Gia đình Hullibarger cũng tố cáo cha LaCuesta đã cố gắng ngăn cha mẹ của Maison không cho đọc điếu văn cho con trai của họ trong Thánh lễ, mặc dù đã được thỏa thuận ngay trước khi thánh lễ được cử hành.
Tổng giáo phận đã không bình luận về cáo buộc cho rằng cha LaCuesta đã đồng ý cho phép Hullibargers đọc điếu văn con trai của họ, và sau đó đổi ý.
Đức Ông Robert Dempsey, cha sở giáo xứ Lake Forest, Illinois và là giáo sư về luật phụng vụ tại Đại Chủng viện Mundelein, của tổng giáo phận Chicago, nói với thông tấn xã CNA rằng quy tắc phụng vụ chính thức của Giáo hội cấm hành vi đọc điếu văn trong Thánh lễ an táng, nhưng ngài cho biết các quy tắc phụng vụ của Giáo hội đưa ra khả năng một thành viên hoặc một người bạn của gia đình nói ít lời tưởng nhớ đến người quá cố sau phần hiệp lễ ngay trước lời chào cuối lễ. Khả năng đó thường được xác định bởi quy chế giáo phận.
“Tang lễ Công Giáo không phải là một lễ kỷ niệm cuộc sống của người quá cố, mà là một lễ kỷ niệm sự tham gia của các tín hữu được rửa tội trong cuộc đời và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô,” Đức Ông Demsey giải thích.
“Lời nói tưởng nhớ ấy, nên nói ngắn gọn và nên tập trung vào việc người quá cố làm chứng trong cuộc đời của người ấy với những gì chúng ta tuyên xưng trong mầu nhiệm vượt qua.”
Các quy tắc tang lễ cho Tổng giáo phận Detroit cho phép khả năng nói vài lời ‘tưởng nhớ’ trong Thánh lễ an táng, nhưng nhấn mạnh rằng đó không được là một điếu văn.
Thành ra, có, hay không có, chuyện cha LaCuesta đã hứa cho gia đình đọc một điếu văn, và sau đó ngài đổi ý, không phải là điều quan trọng, vì nó không phù hợp với luật Phụng Vụ.
Cha Pius Pietrzyk, dòng Đa Minh, khoa trưởng khoa mục vụ tại Chủng viện St. Patrick ở Menlo Park, California, nói với CNA rằng theo quan điểm của ngài, vụ kiện dân sự sẽ không thành công vì “không có tòa án nào, dù là tòa án ở Michigan, hay tòa án liên bang, và chắc chắn càng không phải là Tòa án tối cao, sẽ ủng hộ một chuyện kiện cáo vô lý như thế, và chắc chắn họ sẽ không bao giờ yêu cầu Giáo hội loại bỏ một linh mục như thế.”
“Cặp vợ chồng có thể có những bất đồng với bài giảng và cách thức thánh lễ an táng được tiến hành, nhưng ý kiến cho rằng đây là vấn đề pháp lý, và các tòa án nên tham gia vào việc này, trái với tất cả các tiền lệ của Hiến pháp Mỹ. Nó sẽ không đi đến đâu, và cũng không nên đi đến đâu”.
“Ngay cả khi ta có thể đồng cảm với hoàn cảnh của cặp vợ chồng này, vì ta nên thông cảm với hoàn cảnh của bất kỳ cha mẹ nào mất con, vấn đề về quyền dân sự, và pháp lý lại là một vấn đề khác. Vì thế, tôi nghĩ ta có thể và phải chỉ trích vụ kiện dân sự này, ngay cả khi chúng ta nên thông cảm trước nỗi buồn của cặp vợ chồng ấy.”
(vietcatholic 11.07.2021/ cruxnow.com)