2021
Tiến sĩ Weigel: Đức Phanxicô và Vấn đề Sự sống
Tiến sĩ Weigel: Đức Phanxicô và Vấn đề Sự sống
Việc Đức Giáo Hoàng Phanxicô có xu hướng sử dụng những cách diễn đạt đầy màu sắc và những tĩnh từ không êm ái chút nào để bình luận về những ý tưởng, thói quen và thực hành mà ngài không tán thành đã khiến người Công Giáo bối rối trong hơn tám năm nay. Đây có phải là cách vị giáo hoàng nói chuyện hay không? Căn cứ vào nghiên cứu của riêng tôi về lịch sử Giáo hoàng, tôi có thể dễ dàng tin rằng Đức Giáo Hoàng Piô XI đã có một vài câu nói như thế (thậm chí tàn bạo) để nói vào những dịp cần thiết. Tuy nhiên, các cuộc tấn công bằng lời nói của ngài luôn được thực hiện ở những nơi tư riêng, trong khi nhiều câu nói có tính thóa mạ đáng ghi nhớ nhất của Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã rất công khai.
Tuy nhiên, có một điều cần phải nói về thói quen của Đức Giáo Hoàng đương nhiệm này, đặc biệt là trong bối cảnh các phương tiện truyền thông nỗ lực không ngừng để biến Đức Giáo Hoàng thành một người ít quan tâm đến các vấn đề sự sống – gần đây nhất dưới góc độ các giám mục Hoa Kỳ nỗ lực giải quyết tính không nhất quán của Những người tự xưng là Công Giáo nhưng bác bỏ chân lý nền tảng của đức tin Công Giáo bằng cách tạo điều kiện dễ dàng cho việc tàn sát những đứa trẻ vô tội. Vì vậy, cần nhớ lại những từ ngữ khá cứng rắn trong đó Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã lên án việc phá thai, đáng ghi nhớ nhất là tại một hội nghị ở Vatican vào năm 2019. Tại đó, Đức Thánh Cha đã hỏi, “có hợp pháp không khi lấy mạng người để giải quyết một vấn đề? Có được phép thuê một sát thủ để giải quyết vấn đề không?” Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh rằng cái gọi là phá thai “trị liệu” cố ý hủy hoại những đứa trẻ chưa sinh mắc một số bệnh tật hoặc dị tật, là một vấn đề của “thuyết ưu sinh vô nhân đạo”. Ngài nói thêm rằng “sự sống con người là thánh thiêng và bất khả xâm phạm và việc sử dụng chẩn đoán trước khi sinh cho các mục đích lựa chọn [tức phá thai] không nên được khuyến khích một cách mạnh mẽ”.
Tất cả những điều đó có vẻ hơi kỳ lạ đối với phóng viên của tờ New York Times khi đưa tin về hội nghị, vì như ông đã viết, trước đây Đức Giáo Hoàng đã hạ thấp các vấn đề như phá thai “để thúc đẩy viễn kiến mục vụ và toàn diện của ngài về Giáo hội”. Tất nhiên, giả thiết ở đây là sự rõ ràng về phương diện giáo lý và luân lý một mặt, mặt khác là tính nhạy cảm và tính bao trùm về mục vụ là những mặt loại trừ lẫn nhau. Điều đó thật vô nghĩa kể từ khi Chúa Giêsu gặp người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình, trong Gioan 8: 1-11; ngày nay nó vẫn là một sự sai lầm thô thiển; và dung túng nó là hạ giá công việc bao trùm và nhạy cảm của hàng nghìn trung tâm thai nghén khủng hoảng lấy cảm hứng từ tôn giáo trên khắp đất nước, nơi cung cấp cho phụ nữ một điều gì đó tốt hơn là một “thủ thuật” gây chết người thường gây ra tổn thương lâu dài về mặt xúc cảm.
Hình ảnh của các phương tiện truyền thông, than ôi, giống như cây tre; một khi nó được cấy ghép, hầu như không thể nhổ tận gốc nó. Do đó, ngay từ đầu trong triều đại giáo hoàng của mình, câu nhận định “Tôi là ai mà dám phán xét?”, đề cập đến trường hợp đặc thù của một linh mục ăn năn, người đang cố gắng sống một cuộc sống ngay thẳng, đã bị tước bỏ mọi bối cảnh và biến thành cây tre của các phương tiện truyền thông, một giải thích được lặp đi lặp lại liên tục rằng vị giáo hoàng này không phải là người cứng rắn về đạo đức (ẩn ý: không giống như những người tiền nhiệm của ngài).
Tuy nhiên, tôi xin cho rằng bất cứ ai so sánh kẻ chủ trương duy phá thai với một tên sát nhân kiểu Mafia – và là người vào tháng 1 năm 2014 đã lên án “nền văn hóa vứt bỏ”, trong đó những đứa trẻ bị phá thai bị “vứt bỏ như là không cần thiết”, cho rằng “thật kinh khủng ngay cả khi nghĩ rằng có những trẻ em, nạn nhân của phá thai, sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày ”- không hề là người theo thuyết tương đối luân lý. Tuy nhiên, một cách đặc trưng, phóng viên BBC đưa tin về bài diễn văn đó của Đức Giáo Hoàng nhận thấy lời tố cáo này trái ngược với “lập trường của Đức Giáo Hoàng vốn ủng hộ lòng thương xót hơn là sự lên án”. (Xin nhắc với BBC: Chính Đức Gioan Phaolô II, tác giả của thông điệp nhiệt thành phò sự sống Evangelium Vitae (Tin mừng Sự sống), là người đã truyền bá việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót khắp Giáo hội hoàn cầu, người đã viết một thông điệp về Thiên Chúa Cha có tựa đề Dives in Misericordia (Giàu Lòng Thương Xót), và người đã thực hiện Tuần Bát Nhật của Lễ Phục Sinh là “Chúa Nhật Lòng Thương Xót của Chúa”).
Các bóp méo của các phương tiện truyền thông không chỉ đơn giản làm ta khó chịu; chúng có thể gây nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đến công chúng. Ngay trước khi các giám mục bỏ phiếu một cách áp đảo để giải quyết vấn đề về tính toàn vẹn thánh thể của Giáo hội (ngay lập tức bị hầu hết các báo cáo biến thành một cuộc tấn công nhằm vào Tổng thống Biden và các viên chức công khai ủng hộ việc phá thai khác), Tòa án Tối cao nhất trí bảo vệ quyền tự do tôn giáo của các Dịch vụ Xã hội Công Giáo (CSS) của Philadelphia từ chối đặt các trẻ em dưới sự chăm sóc của các cặp đồng tính. Trong phần phụ lục dài của mình đối với ý kiến của Tòa án, Chánh án Samuel Alito lưu ý rằng một viên chức công của Philadelphia đã chế nhạo “lập trường của Tổng giáo phận như là đi lệch hướng với giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô và quan điểm đạo đức thế kỷ 21”, gợi ý rằng sẽ “tuyệt vời” nếu Dịch vụ Xã hội Công Giáo “Theo chân… Đức Giáo Hoàng Phanxicô”.
Tôi thực sự nghi ngờ rằng ủy viên Bộ Dịch vụ Nhân sinh Philadelphia, người đã nghĩ một cách hết sức sai lầm như thế về Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại là một độc giả thường xuyên của nhật báo Vatican, L’Osservatore Romano. Ông ta có được điều vô nghĩa mà ông ta dùng để quấy rầy Dịch vụ Xã hội Công Giáo từ các nguồn truyền thông Mỹ. Tôi hy vọng ngành truyền thông sẽ cùng hành động khi các giám mục khai triển bản tuyên bố của các ngài về ý nghĩa của Bí tích Thánh Thể. Nhưng tôi không lạc quan lắm về điều đó. Tre vẫn chỉ là tre.
Vũ Văn An
2021
Các chủ trương mới trong tư tưởng chính trị Công Giáo Hoa Kỳ
Các chủ trương mới trong tư tưởng chính trị Công Giáo Hoa Kỳ
Tạp chí First Things, số tháng 8 năm 2021, đăng tải bài diễn văn của ký giả Ross Douthat, vốn giữ mục ý kiến của tờ New York Times, đọc tại Đại hội “Nước Mỹ, Chủ nghĩa Tự do, và Đạo Công Giáo” tổ chức tại Đại Học Dallas hồi tháng Tư, 2021. Tựa đề bài diễn văn của ông là “Các Ý niệm và Thực tại Công Giáo về Duy Dân túy, Duy Hoà nhập, Duy Biển đức và Duy Tân Cựu” (Catholic Ideas and Catholic Realities on Populists, Integralists, Benedictines, and Tradinistas).
Nguyên bản có thể đọc tại đây: Catholic Ideas and Catholic Realities by Ross Douthat | Articles | First Things
Trong năm mươi năm qua, kể từ Công đồng Vatican II trở đi, quả có nghĩa khi nói về một Đạo Công Giáo Hoa Kỳ đã hoàn toàn hòa hợp với nền dân chủ cấp tiến. Ở bên lề, vẫn còn một số tạp chí và người viết Công Giáo chống cấp tiến và cực đoan đáng lưu ý, nhưng chính dòng đã được xác định bởi phe đối lập giữa “Công Giáo cấp tiến” và “Công Giáo bảo thủ” lần lượt được liên kết đại khái với đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa, – dù đôi khi, các giám mục và giáo hoàng lập luận cho một tổng hợp khác: một chủ nghĩa Công Giáo chính trị vượt trên các phạm trù tả và hữu hiện có ở Mỹ.
Trong chính trị đảng phái, đạo Công Giáo cấp tiến hơn tìm thấy những hiện thân nổi tiếng nhất của mình trong những nhân vật như Mario Cuomo và Joseph Biden, những người mưu toan duy trì mối liên hệ dễ dàng kiểu thời kỳ Thỏa thuận Mới giữa người Công Giáo và đảng Dân chủ trong khi hạ thấp hoặc trên thực tế, tư nhân hóa các yếu tố của giáo huấn Công Giáo— nhất là phá thai— trong đó, Đảng Dân chủ và Giáo hội ngày càng phân rẽ hơn.
Đối với đạo Công Giáo bảo thủ hoặc tân bảo thủ hơn, những nhân vật như Paul Ryan, John Boehner, và Antonin Scalia là đại diện hợp lý. Người Công Giáo bảo thủ, ủng hộ đảng Cộng hòa, thường nối kết quan điểm cứng rắn về phá thai và kết hôn với quan điểm không ổn định hơn về phúc lợi nhà nước, một quan điểm đôi khi cố gắng sửa chữa chủ nghĩa tự do hoàn toàn [libertarianism] cánh hữu, đôi khi tìm kiếm một đường lối tôn giáo để biện minh cho nó, và đôi khi cổ vũ một chủ nghĩa hiệp đoàn [corporatism] chịu ảnh hưởng của Phòng Thương mãi nhiều hơn là học thuyết xã hội của Giáo hội.
Về mặt trí thức, sự phân cực tương tự là giữa “Đạo Công Giáo của tờ Commonweal” và “Đạo Công Giáo của tờ First Things” —giữa quan điểm Công Giáo cấp tiến hơn về thần học, nhấn mạnh lý thuyết “áo không viền” của giáo huấn xã hội Công Giáo như một lý do để ủng hộ đảng Dân chủ bất chấp lập trường của đảng này về phá thai, và quan điểm bảo thủ hơn về thần học, vốn tìm được tổ ấm của mình trong Đảng Công Hòa khi đảng này trở nên ủng hộ sự sống một cách nhất quán hơn và tìm được khoảnh khắc gây ảnh hưởng chính trị tối đa trong nhiệm kỳ tổng thống của George W. Bush tin lành.
Các phe trí thức này có những khác biệt đáng lưu ý nhưng cũng có một điểm chung đáng kể: Họ cho là đương nhiên sự hài hòa giữa cách giải thích về Công Giáo sau Công đồng Vatican II và cách giải thích của họ về trật tự tự do. Họ khác nhau một cách căn bản nhất về việc, sau cuộc cách mạng tình dục và sự trỗi dậy của kinh tế học tân tự do, chủ nghĩa tự do cánh tả hay cánh hữu đã đi chệch hướng nghiêm trọng hơn.
Sự phân cực căn bản trong nội bộ Công Giáo này đã không biến mất, và các chính trị gia Công Giáo nổi tiếng nhất ở Mỹ ngày nay – từ Biden đến Nancy Pelosi đến cựu Tổng chưởng lý Bill Barr – vẫn hiện thân nó. Nhưng nơi những người Công Giáo trẻ tuổi hơn, đặc biệt là trong giới trí thức, cả hai tổng hợp này đều đã rơi vào thế căng thẳng nghiêm trọng.
Việc tiếp tục tục hóa nước Mỹ tự do đã khiến chủ trương của các đảng viên Dân chủ Công Giáo trở nên khó khăn hơn, khi chủ nghĩa duy tiến bộ của giới ưu tú ngày càng tìm cách không những bảo vệ quyền phá thai hoặc hôn nhân đồng tính mà còn sách nhiễu các định chế tôn giáo bất đồng quan điểm với các quan điểm tiến bộ. Trong khi đó, các thất bại chính trị của những người theo Đảng Cộng hòa chính dòng và sự trôi dạt chung của xã hội Hoa Kỳ thời hậu Kitô giáo, thậm chí (đặc biệt?) dưới sự cai trị bảo thủ đã đặt ra những câu hỏi cho phe hữu về tính hữu hiệu của một liên minh Công Giáo với chủ nghĩa bảo thủ tự do hoàn toàn [libertarianism] — và các nghi ngờ về cùng đích tối hậu của chính chủ nghĩa tự do.
Triều giáo hoàng của Đức Phanxicô đã làm gia trọng thêm những căng thẳng này. Đến một mực đang còn bị tranh luận, khi chia tay với chủ nghĩa tân bảo thủ của Đức Gioan Phaolô II và chủ nghĩa duy truyền thống mềm dịu của Đức Bênêđíctô XVI, triều đại giáo hoàng hiện tại đã tạo ra một bầu không khí khủng hoảng giữa những người bảo thủ thần học, ngay cả khi nó pha trộn giữa chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa phản hiện đại về các vấn đề kinh tế và sinh thái đã trẻ trung hóa cánh tả Công Giáo.
Nhiệm kỳ tổng thống của Donald Trump cũng gây xáo trộn, bằng cách, trong các diễn đàn kinh tế dân túy và thu hút thành công một số cử tri thiểu số, hứa hẹn một chủ nghĩa bảo thủ của Mỹ phù hợp với giáo huấn xã hội Công Giáo hơn là chủ nghĩa chính thống hoàn toàn tự do, mà, trong việc pha trộn một cách độc đáo chủ nghĩa duy sinh [nativism], lý thuyết âm mưu và việc bản thân thờ ơ tôn giáo, còn cho rằng có thể có một chủ nghĩa bảo thủ Mỹ mà về mặt chức năng có tính hậu Kitô giáo.
Tất cả những căng thẳng trên đối với mô hình hậu thập niên 1960 vẫn chưa làm thay đổi hoàn toàn tác phong chính trị của người Công Giáo Hoa Kỳ. Nơi những người Công Giáo da trắng, sự phân chia tự do-bảo thủ vẫn xác định việc bỏ phiếu toàn quốc. Sự phân chia sắc tộc giữa người Công Giáo da trắng và gốc Tây Ban Nha vẫn còn, cho dù có thu hẹp (có lẽ đáng ngạc nhiên) dưới thời Trump.
Nhưng nơi các tác giả Công Giáo, đã có sự rạn nứt, thử nghiệm, tái sắp xếp hàng ngũ và chia rẽ đáng kể. Các phạm trù cũ hơn chắc chắn vẫn tồn tại. Vẫn còn những người Công Giáo bảo thủ tin tưởng vào dự án có thể liên hiệp (fusion) chủ nghĩa bảo thủ Mỹ, cách hiểu Công Giáo về việc sáng lập nước Mỹ do John Courtney Murray đề xướng, và các đức hạnh của đảng Cộng hòa trước Trump. Trong khi đó, nhiệm kỳ tổng thống của Biden đã thúc đẩy những người Công Giáo cấp tiến tin rằng đảng Dân chủ là tổ ấm tự nhiên của họ và chủ nghĩa tự do với hai chủ trương duy cải thiện [meliorist] và nhà nước phúc lợi là cách hiển nhiên để giáo huấn xã hội Công Giáo đầu tư.
Nhưng cũng có những phạm trù mới, những phong trào và xu hướng được phục hưng và tái sáng chế, có ý nghĩa đối với cuộc tranh luận trí thức hơn những năm trước và cuối cùng có thể cũng quan trọng đối với nền chính trị Công Giáo.
Công Giáo duy dân túy
Xin cho phép tôi thử đề nghị một cách phân loại các phạm trù mới này. Đầu tiên, có những người theo chủ nghĩa dân túy, những người coi nhiều thay đổi từ thời Trump trong chính sách bảo thủ như phù hợp với giáo huấn của Giáo hội, và một sự sửa chữa đáng hoan nghênh đối với những sai lầm của chủ nghĩa tự do hoàn toàn [libertarianism] mà họ liên kết với những nhân vật như Paul Ryan. Những người theo chủ nghĩa dân túy có xu hướng ủng hộ bước ngoặt duy liên hiệp [fusionist] trong kinh tế, tìm kiếm các chiến lược nhằm tái tạo mức lương gia đình qua chính sách kỹ nghệ hoặc trợ cấp gia đình hoặc một hỗn hợp nào đó của cả hai. Nhìn chung, họ ủng hộ các hạn chế nhập cư để bảo vệ người lao động trong nước và xây dựng lại tình liên đới xã hội; họ dễ dãi đối với các hành động phản độc quyền [antitrust] chống lại những công ty khổng lồ ở Silicon Valley; họ tìm một chiến lược chiến tranh văn hóa tích cực hơn, một cuộc phản công sau một cuộc rút lui lâu dài, về các vấn đề như chủ nghĩa chuyển giới và nội dung khiêu dâm trên liên mạng. Và mặc dù họ bị chia rẽ về các năng lực và đạo đức của Trump, họ chủ yếu coi sự thăng tiến của ông như có tính cứu rỗi và nhiệm kỳ tổng thống của ông ít nhất như điều ít xấu hơn và có lẽ là tốt.
Về mặt triết học, những người theo chủ nghĩa dân túy thường được mô tả như những người theo chủ nghĩa hậu tự do hoặc chống tự do, và đôi khi họ tự mô tả theo cách đó. Nhưng không rõ nhãn hiệu đó có phù hợp hay không. Chủ bút Công Giáo của tạp chí đại kết này [First Things], R. R. Reno, đã lên tiếng thay cho nhiều người theo chủ nghĩa dân túy khi ông lập luận rằng chủ nghĩa dân túy là một biện pháp sửa chữa có tính liên đới và tôn giáo trong trật tự tự do, chứ không phải là một loại biện pháp thay thế cho chủ nghĩa duy hiến [constitutionalism] của Mỹ. Người ta có thể cho rằng các chính trị gia đang cổ vũ các ý tưởng chính sách liên quan đến chủ nghĩa dân túy này – trong đó có Marco Rubio Công Giáo, Josh Thệ phản, và Mitt-Romney theo Mormon – sẽ hết lòng đồng ý.
Những người theo chủ nghĩa dân túy rõ ràng khác với những người theo chủ nghĩa tự do hoàn toàn Kitô giáo và những người theo chủ nghĩa tự do cổ điển mà họ thường tranh đấu với. Nhưng họ có thể không khác biệt như thế đối với một nhân vật như (cha) Richard John Neuhaus trong các cam kết đệ nhất đẳng của họ. Giống như ngài, họ tin rằng nền dân chủ tự do đòi một nền chính trị tôn giáo mạnh mẽ và một liên minh giữa những người theo đạo Tin lành và người Công Giáo. Họ đơn thuần không còn chấp nhận viễn kiến về nền kinh tế chính trị và chính sách đối ngoại mà (cha) Neuhaus đã gắn bó với vào cuối sự nghiệp của ngài.
Công Giáo duy hòa nhập
Ý tưởng về chủ nghĩa dân túy như một biện pháp sửa chữa bên trong chủ nghĩa tự do đã tách những người theo chủ nghĩa dân túy khỏi nhóm tiếp theo, tức những người Công Giáo theo chủ nghĩa duy hòa nhập [integralists], những người đối với họ, chủ nghĩa tự do không thể sửa chữa được vì nó đã mục ruỗng ngay từ đầu. Những người duy hòa nhập là những người thừa kế của Triumph, tức tạp chí gây tranh cãi của L. Brent Bozell, và xa hơn nữa là các vị giáo hoàng của thế kỷ mười chín và các vạ tuyệt thông đầy mùi chống tự do của họ. Giống như Vua Josiah (người đã cho mượn tên của mình trên trang mạng duy hoà nhập hàng đầu) đang khôi phục cuốn sách luật bị thất lạc, họ tin rằng họ đang kêu gọi người Công Giáo quay trở lại với nền chính trị Công Giáo đích thực và duy nhất, bị che khuất một thời gian bởi những ảo tưởng yêu quí và chủ nghĩa duy Mỹ [Americanism], nhưng bây giờ, giữa cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tự do, một lần nữa hiển hiện như một biện pháp thay thế.
Những người theo chủ nghĩa duy hòa nhập đứng cùng hàng với những người theo chủ nghĩa dân túy về nền kinh tế phò gia đình và chính sách kỹ nghệ (Gladden Pappin, một biên tập viên duy hoà nhập của tạp chí American Affairs, thường xuyên viết và cho công bố về những chủ đề này), nhưng họ bị chia rẽ nhiều hơn về các khía cạnh khác của nền chính trị tân cánh hữu: hạn chế nhập cư, hoài nghi về biến đổi khí hậu và ý niệm quốc gia như một điều đáng để trung thành. Những người theo chủ nghĩa hòa nhập cuối cùng tin vào đế quốc Công Giáo, chứ không phải chủ nghĩa dân tộc Công Giáo, và họ coi một số yếu tố tả khuynh trong huấn quyền của Đức Giáo Hoàng Phanxicô như có tính duy hòa nhập mặc nhiên, đặc biệt là thông điệp sinh thái Laudato Si’, là thông điệp mà các lời khuyến dụ và lệnh lạc không có gì nổi bật trong nền chính trị dân túy vào lúc này.
Bất chấp lời chỉ trích trên, những người theo chủ nghĩa hòa nhập có xu hướng có cái nhìn thiện cảm đối với các chính trị gia theo chủ nghĩa dân tộc [nationalist], từ Trump đến Viktor Orban. Họ thích chủ nghĩa dân tộc phi tự do hơn chủ nghĩa quốc tế tự do, và họ tin rằng các cuộc nổi dậy theo chủ nghĩa dân tộc dân túy mang lại cơ hội cho một cuộc nổi dậy Công Giáo bên trong giới tinh hoa của phương Tây.
Bởi vì cuộc nổi dậy trên vẫn chưa hiển hiện một cách chính xác, tác động thực tế của các ý niệm của họ vẫn chưa chắc chắn. Nhưng các nhà duy hòa nhập đang dấn thân vào ít nhất hai dự án thế giới thực: thúc đẩy các viên chức Giáo hội hướng tới một khẳng định mạnh mẽ hơn các quyền hợp pháp và quyền lực pháp lý của Giáo hội đối với các tín hữu, đồng thời thúc đẩy cả những người Công Giáo theo chủ nghĩa dân túy và tân bảo thủ hướng tới một nền chính trị Công Giáo trọn vẹn hơn và sử dụng quyền lực nhà nước một cách năng nổ hơn. Trên hết, họ tin rằng các điều kiện cho một Giáo hội hồi sinh và sự phục hưng Kitô giáo ở Mỹ chỉ có thể xảy ra nếu có một cuộc cách mạng từ bên trên.
Công Giáo duy biển đức
Trong điều này, họ hoàn toàn trái ngược với nhóm thứ ba, những người duy biển đức (benedictines), không phải các tu sĩ Biển Đức, mà là những người Công Giáo chấp nhận chẩn đoán của Rod Dreher, trong The Benedict Option [giải pháp Biển Đức](2017), về việc gần như không thể tránh khỏi việc tiếp tục tục hóa và tiếp tục rút lui của Kitô giáo — những người đồng ý với kết luận của Patrick Deneen, trong Why Liberalism Failed [Tại sao chủ nghĩa tự do thất bại] (2018), rằng các thử nghiệm địa phương là chìa khóa để hồi sinh nền văn hóa từng một thời là của Kitô giáo chúng ta — và là những người đặc biệt quan tâm, với các nhà văn như Brandon McGinley và Leah Libresco Sargeant, trong việc đổi mới nội bộ như một điều kiện tiên quyết cho bất cứ hình thức chính trị Kitô giáo mới nào.
Tất nhiên, Deneen đã biểu lộ sự thiện cảm mạnh mẽ đối với các lập luận của cả chủ nghĩa dân túy lẫn chủ nghĩa hòa nhập, và McGinley gần đây đã đồng tác giả một cuốn sách có xu hướng hòa nhập với Scott Hahn – chứng minh rằng các phạm trù này không ổn định và chồng chéo lên nhau, chưa được giải quyết hoặc ấn định. Nhưng mặc dù một số người duy biển đức có thể bỏ phiếu cho các chính trị gia duy dân túy hoặc tán thành chủ nghĩa hoà nhập ở một mức độ nào đó, và những người khác có thể có những thiện cảm thiên tả hơn, nói chung, họ hoài nghi về các giải pháp chính trị quốc gia và nghi ngờ triển vọng có bất cứ loại phục hồi Kitô giáo nào từ trên đi xuống, thích dồn năng lực của họ vào việc xây dựng định chế từ bên dưới. Khẩu hiệu của họ là lời khuyên nổi tiếng của Joseph Ratzinger:
[Giáo Hội] sẽ trở nên nhỏ bé và ít nhiều sẽ phải bắt đầu lại từ đầu. Giáo Hội sẽ không còn có thể ngự trong nhiều dinh thự mà Giáo Hội đã xây dựng trong thời kỳ thịnh vượng… Là một xã hội nhỏ, nó sẽ yêu cầu nhiều hơn nơi các thành viên cá thể của mình phải có sáng kiến… [nó] sẽ là một Giáo hội tâm linh nhiều hơn, không lợi dụng một ủy nhiệm chính trị, ít tán tỉnh với cả Cánh tả lẫn Cánh hữu.
Điều này có nghĩa là các người duy biển đức thường có khuynh hướng đại kết nhiều hơn những người duy hòa nhập, nhiều thiện cảm với các nhân vật Thệ phản bài chính trị như Stanley Hauerwas và Wendell Berry và các cộng đồng như Bruderhof. Nó có nghĩa họ thích Alexis de Tocqueville hơn Carl Schmitt, và các chiến lược xây dựng cộng đồng và truyền bá Tin Mừng hơn các chiến lược quyền lực. Và nó có nghĩa ảnh hưởng văn hóa của họ trở nên tăng hay giảm tùy thuộc vào triển vọng biểu kiến có một nền chính trị Công Giáo ở bình diện quốc gia: Việc gạt ra bên lề những người bảo thủ tôn giáo vào cuối nhiệm kỳ Obama khiến giải pháp biển đức trở nên hấp dẫn hơn, trong khi, vào thời Trump, việc mở rộng biểu kiến các khả thể chính trị đã đẩy các ý tưởng của họ vào thế đình chỉ. Họ có thể trở lại, nếu nhiệm kỳ tổng thống của Biden mở ra một thời kỳ tự do lâu dài.
Công Giáo duy tân cựu
Khả thể đó đưa chúng ta đến nhóm thứ tư, mà tôi sẽ gọi là những người duy tân cựu [tradinistas], chữ mượn của một tuyên ngôn năm 2016 mà những người ký tên, theo cách của những người cánh tả ở mọi thời đại, đã sớm bất đồng với nhau. Bất chấp các tranh luận của họ, thuật ngữ này phù hợp với một khuynh hướng dễ nhận diện, một niềm tin cho rằng chủ nghĩa tư bản cuối thời hơn là chủ nghĩa tự do cuối thời, về căn bản, không tương thích với đức tin Kitô giáo, và sự phục hưng gần đây của chủ nghĩa xã hội có thể được tư tưởng xã hội Công Giáo thích nghi và triển khai. (“LeftCath” [Công Giáo Tả Khuynh], tên gọi của nhóm trên Twitter, truyền đạt hai điều họ hy vọng sẽ kết hợp lại với nhau).
Xu hướng tân cựu đã tìm được tổ ấm trong các tạp chí và không gian liên quan đến phe Commonweal và Cuomo thời có sự phân chia tự do-bảo thủ trước đó, nhưng nó tự phân biệt với phần lớn đạo Công Giáo tự do sau những năm 1960 bằng cách tiếp nhận một lập trường cấp tiến hơn về kinh tế, y như những người theo chủ nghĩa xã hội thiên niên kỷ thế tục thường được phân biệt với những người theo chủ nghĩa tự do của thế hệ Baby Boomer. Những người duy tân cựu cũng tỏ ra tương đối ít quan tâm đến dự án tự do của thế hệ Baby Boomer trong việc thích ứng giáo huấn Công Giáo với cuộc cách mạng tình dục, dù họ không phản đối dự án này một cách rõ ràng và nhất quán, điều mà những người bảo thủ có thể thích. Các giải pháp của họ đôi khi trùng lắp với các giải pháp của những người duy dân túy, nhưng họ coi bất cứ loại chủ nghĩa dân tộc cánh hữu nào cũng đều bị tổn hại bởi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và dễ dàng bị tư bản mua chuộc.
Herbert McCabe và Alasdair MacIntyre, hai nhà tư tưởng của trường phái Tôma thiên Mácxít khá khác nhau, là những nguồn cảm hứng cho những người duy tân cựu. Elizabeth Bruenig của tờ Atlantic có thể là quán quân nổi bật nhất của họ. “Tiếng hót Công Giáo kỳ lạ” [Weird Catholic Twitter], thường được gọi như thế, là trang chủ trực tuyến của họ. Nếu tất cả những điều này làm cho những người duy tân cựu nghe có vẻ ở ngoài lề so với các khuynh hướng khác mà tôi đang mô tả — thì, một cách nào đó, quả họ là như vậy, nhưng viễn kiến kinh tế của họ thường có Đức Thánh Cha đương kim ở một góc nào đó của họ, và điều đó hẳn phải đáng kể đối với một điều gì đó.
Ngay cả khi nó thiếu ảnh hưởng chính trị trực tiếp của những người duy dân túy hoặc các tham vọng của những người duy hoà nhập, thì những người duy tân cựu vẫn có một lý thuyết chính trị rõ ràng: Các điều kiện để đổi mới Kitô giáo phụ thuộc vào việc phá vỡ xiềng xích của chủ nghĩa tư bản, và do đó, liên minh với các nhà xã hội thế tục có thể là tìm kiếm điều tốt đẹp về lâu về dài cho Giáo hội, bất chấp khoảng cách giữa một nhân vật như Bernie Sanders và giáo huấn Giáo hội về hầu như mọi vấn đề phi kinh tế. Và trong phạm vi họ tham gia một cách nhỏ nhoi nào đó vào sự phục hưng lớn hơn của tư tưởng xã hội chủ nghĩa, một tư tưởng, ngược lại, tham gia cách nào đó vào nghị trình kinh tế đầy tham vọng của tổng thống Biden, những “Người Công Giáo Tả khuynh” này có thể cho là mình ít nhất gây được một mức độ ảnh hưởng nhỏ nhoi từ xa nào đó đối với vị Tổng thống Công Giáo thứ hai của chúng ta.
Tất cả các phạm trù này, một lần nữa, không ổn định và thay đổi luôn. Người ta có thể dễ dàng chia nhỏ chúng hơn nữa và có thể di chuyển từ phe này sang phe nọ hoặc đơn giản đứng chân trong chân ngoài cả hai phe. Người ta có thể cùng một lúc là người duy hoà nhập và là người duy tân cựu nếu đối với họ, chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế chính trị của nhà nước duy hòa nhập, hoặc là người duy biển đức bị lôi cuốn theo duy dân túy vì nó hứa hẹn bảo vệ chính trị cho địa phương và cho thử nghiệm, hoặc là một người duy hoà nhập nhưng trở thành duy tân cựu chỉ vì chán ghét Donald Trump. (Tôi có thể nhận diện các nhà văn đã thực hiện các phiên bản của những động thái này chỉ trong vài năm qua).
Trong khi đó, cho phép một số chính trị gia Cộng hòa có thiện cảm trong quỹ đạo của những người duy dân túy, các khuynh hướng này, hiện nay, thuộc về giới trí thức và chỉ giới trí thức mà thôi. Giống như phần lớn giới chuyên gia Công Giáo, tất cả họ đều đặc biệt xa cách đối với dân số gốc Tây Ban Nha đang phát triển của Giáo hội Hoa Kỳ và tầng lớp lao động da trắng bất mãn. Đúng, những người duy dân túy mong muốn lên tiếng nói thay cho các cử tri thiểu số đã ủng hộ Trump, và sự thiện cảm duy tân cựu dành cho Bernie Sanders đã được nhiều đảng viên Đảng Dân chủ Latinh chia sẻ. Nhưng hầu hết những người tham gia các cuộc tranh luận này đều là những người phần nào được giáo dục quá mức cần thiết [overeducated], và chưa có những cán bộ tự ý thức mình như những người hậu tự do trong giai cấp công nhân, không có phong trào quần chúng nào tương đương với vai trò của phong trào phò sự sống trong việc xác định đạo Công Giáo bảo thủ sau thập niên 1970.
Tương tự như vậy, bên trong Giáo hội, trên Twitter, cũng có những linh mục duy hòa nhập hoặc duy tân cựu hoặc duy biển đức, nhưng những nhãn hiệu này khiến hầu hết các giám mục bối rối. Các nhà lãnh đạo của đạo Công Giáo Hoa Kỳ rõ ràng vẫn thuộc về các phe phái tự do và bảo thủ lâu đời hơn được thành lập vào những năm 1970 và 1980, và hầu hết các định chế Công Giáo cũng vậy.
Còn 1 kỳ
Vũ Văn An
2021
Linh mục bị đánh đập, bị bắt giữa cuộc biểu tình ở Cuba
Linh mục bị đánh đập, bị bắt giữa cuộc biểu tình ở Cuba
Linh mục Castor Álvarez đã bị đánh đập và bị bắt ở Camagüey trong khi ngài đang bảo vệ những người biểu tình trẻ tuổi trong một cuộc biểu tình chống bọn cầm quyền cộng sản Cuba vào hôm Chúa Nhật.
Theo thông tin được xác nhận bởi ACI Prensa, Cha Castor Álvarez đang bị giam giữ tại đồn cảnh sát Montecarlo ở Camagüey, với cáo buộc gây rối trật tự công cộng.
Được biết ngày 12 tháng 7, chính phủ muốn xử vị linh mục trong vòng 96 giờ với nhiều tội danh khác nhau. Theo một nguồn tin liên quan đến Giáo hội ở Cuba, Đức Tổng Giám Mục Wilfredo Pino Estevez của Camagüey đã cố gắng gặp ngài sáng 12 tháng 7 nhưng không thành công. Nhiều thanh niên Công Giáo cũng bị bắt tại Camagüey và Florida, cách Camagüey 30 dặm về phiá Tây Bắc.
Các linh mục, tu sĩ và giáo dân đã biểu tình ôn hòa từ 8 giờ sáng ngày 12 tháng 7 trước đồn cảnh sát để đòi tự do cho Cha Álvarez.
Cha Rolando Montes de Oca, một linh mục của Tổng giáo phận Camagüey, nói với ACI Prensa rằng “ trên thực tế, có một số yếu tố giúp hiểu rõ nguồn gốc của các cuộc biểu tình”.
“Tình hình kinh tế trong thời điểm này đang phức tạp và còn trầm trọng hơn nhiều vì các biện pháp kinh tế mà chính phủ đưa ra vào đầu năm, được gọi là sắp xếp lại kinh tế hoặc những từ ngữ đại loại như thế, cuối cùng đã khiến cuộc sống trở nên khó khăn hơn rất nhiều”.
“Lạm phát là rất lớn và các nhu yếu phẩm cơ bản như thực phẩm trở nên rất khó mua. Có một tình trạng rất tồi tệ về sự nghèo đói về vật chất”.
Linh mục Montes de Oca cũng cho biết bên cạnh khủng hoảng kinh tế là nỗi đau khổ lớn vì đại dịch COVID-19: “ Chúng ta đang ở giữa cuộc khủng hoảng COVID-19. Có rất nhiều thông tin về những người chết, những người không được chăm sóc y tế. Các bệnh viện bị sụp đổ. Chúng tôi bắt gặp hình ảnh những người bệnh nằm trong hành lang, thậm chí nằm trên cáng trên sàn nhà”.
Vị linh mục cũng nói rằng “thiếu rất nhiều thuốc men. Nhiều người không có thuốc giảm đau. Ví dụ, không có Aspirin. Chúng tôi không nói về thuốc cao cấp. Không ai có chúng. Chúng thực tế không tồn tại, thậm chí đôi khi không có trong bệnh viện”.
Mất điện hiện nay xảy ra “ gần như hàng ngày. Điều này cùng với cái nóng của Cuba và muỗi khiến thời tiết gần như không thể chịu nổi”.
Đặng Tự Do
2021
Linh mục là con của loài người, nhưng có thể sinh ra con cái Thiên Chúa
Linh mục là con của loài người, nhưng có thể sinh ra con cái Thiên Chúa
Đoạn văn tuyệt vời được đăng trên mạng xã hội bởi một linh mục người Brazil, nhắc chúng ta nhớ rằng linh mục “là người phàm, nhưng bảo đảm cho sự bất tử”.
Linh mục là con của loài người, nhưng có thể sinh ra con cái Thiên Chúa: nó nhắc đến nhiều thứ trái ngược giữa bản tính mỏng giòn và phẩm giá siêu nhiên của thừa tác viên được thánh hiến qua việc thụ phong linh mục.
Điều quan trọng là phải quan sát, nhận biết, ủng hộ và củng cố sự dấn thân của các linh mục, tu sĩ và giáo dân trong việc phổ biến các bản văn tu đức, học thuyết, đào tạo và tin tức công giáo trên các trang mạng xã hội, vì đâu đó vẫn đầy rẫy những ấn phẩm sai lạc và rất có hại.
Trên trang Facebook cá nhân của mình, Cha Wellington José de Castro đã có chia sẻ rất hay về linh mục Công giáo:
LINH MỤC
– Linh mục là con người, nhưng trỗi vượt hơn so với các thiên thần.
– Linh mục là con của loài người, nhưng có thể sinh ra con cái Thiên Chúa.
– Linh mục là đầy tớ, nhưng Thiên Chúa lại vâng phục ngài và mọi quyền thế phải quỳ gối trước ngài.
– Linh mục nghèo khó, nhưng có thể tự lấp đầy bằng sự giàu có vô hạn.
– Linh mục yếu đuối, nhưng được tăng thêm sức mạnh nhờ Bánh Hằng Sống.
– Linh mục là người phàm, nhưng bảo đảm cho sự bất tử.
– Linh mục là người anh của tất cả mọi người và vẫn không thuộc về mọi người.
– Linh mục sống độc thân, không lập gia đình, nhưng có thể hướng dẫn các gia đình đến với Chúa.
– Linh mục cùng cười với người vui, đau buồn với kẻ than khóc, khuyên nhủ những ai chán nản, ngã lòng.
– Linh mục mỉm cười khi sự sống vừa hạ sinh và ban phép lành khi sự chết đến.
– Linh mục phải dâng hiến tình yêu và không cần để ý đến nó, bởi vì trái tim của ngài thuộc về Chúa, và vì vậy thuộc về tất cả mọi người chứ không phải dành riêng cho một thụ tạo nào.
– Khi giải tội, linh mục đóng cửa then cài trong bóng tối của tòa giải tội, nhưng đem lại biết bao là ánh sáng qua những lời ngài nói: “Cha tha tội cho con…”, và niềm hy vọng lại nảy nở trong những tâm hồn tuyệt vọng.
Xin cầu nguyện cho các linh mục, và các bạn hãy cầu nguyện cho các cha sở của mình nhé.
Giuse Võ Tá Hoàng chuyển ngữ