2023
Thượng hội đồng: quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng là gì?
Đối với các Hồng y bảo thủ đã bày tỏ mối quan ngại của họ khi khai mạc Thượng hội đồng về tương lai của Giáo hội, Đức Phanxicô nhắc nhở rằng Giáo hoàng là người nắm giữ “quyền bính tối cao” và quyền bính này tương thích với việc thực thi tính hiệp hành. Đó là một tầm nhìn gần đây về quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng.
+ Thành ngữ “quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng” bắt nguồn từ đâu?
Người ta cũng nói đến “quyền tối thượng của Rôma” hay “quyền tối thượng của Phêrô”. Nó ám chỉ sự ưu việt của người kế vị Thánh Phêrô Tông đồ. Thật vậy, trong các Tin Mừng và Sách Công vụ Tông đồ, Simon, được Chúa Giêsu gọi là Phêrô, chiếm một vị trí đặc biệt trong số 12 Tông đồ. Khi liệt kê tên của họ, Thánh sử Matthêu (10,2) cho biết: “Đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là Phêrô”. Chúa Giêsu chỉ tuyên bố với ông: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. » (Mt 16,18). Được Chúa Kitô tha thứ sau khi bị ông phản bội, ông đã nhận được từ Người sứ mạng “củng cố” anh em mình.
Chính tại Rôma mà ngài đã chịu tử đạo, giống như một trụ cột khác của Giáo hội là thánh Phaolô thành Tarsô. Do đó, thủ đô Rôma trở thành Tông Tòa duy nhất ở phương Tây, cùng với Giêrusalem, Antokia, Alexandria và Constantinople. Từ những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, Giám mục Rôma đã đảm nhận một thừa tác vụ cụ thể là phục vụ sự hiệp nhất đức tin và hiệp thông giữa tất cả mọi Kitô hữu. Trong những thời điểm khủng hoảng (đặc biệt là trong nhiều cuộc tranh cãi thần học vào thế kỷ thứ 3 và trong thế kỷ thứ 5), người ta hướng về người trung gian và người bảo vệ truyền thống này.
+ Đâu là những tiến triển nổi bật nhất ?
Vào thế kỷ 11, với cuộc cải cách do Đức Giáo hoàng Grêgôriô VII (1073-1085) thực hiện, Rôma không chỉ trở thành trung tâm của sự hợp nhất các Giáo hội mà còn là nguồn gốc của nó. Chính từ nó mà đức tin trở nên đồng nhất, cũng như phụng vụ và giáo luật, tu sĩ Dòng Tên người Đức Klaus Schatz, chuyên gia về lịch sử Giáo hội, giải thích (1).
Do đó, chúng ta đang dần chuyển từ lôgic quyền lực tăng dần sang lôgic giảm dần, Thibault Joubert, giảng viên khoa thần học tại Đại học Strasbourg, cho biết thêm. “Đức Grêgôriô VII nói rằng Giáo hoàng là “người có quyền bính đứng đầu mọi quyền bính”, nói cách khác, ngài thừa nhận sự tồn tại của các quyền lực khác và ngài tạo ra sự hiệp nhất. Ngài như là thẩm phán tối cao: ngài có thể nghe và phán xét mọi nguyên nhân liên quan đến mình. Hai thế kỷ sau, người kế nhiệm ngài, Đức Innôcentê III, lại nói ngược lại: “Tôi là người có quyền bính mà từ đó tất cả các quyền bính khác phát sinh”. Chính ngài là người đặt ra luật và luật này được điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh địa phương. Nhân vật quân chủ này sẽ ngày càng chiếm nhiều chỗ hơn. »
Từ ngai tòa của thánh Phêrô, các Đức Giáo hoàng Grêgôriô XVI (1831-1846) và Piô IX (1846-1878) đã lên án những ý tưởng “lật đổ”: tự do lương tâm, tự do tín ngưỡng và tự do quan điểm; chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa xã hội, các phong trào hiệp hội Thánh Kinh …
+ “Ơn bất khả ngộ của Đức Giáo hoàng” đến từ đâu?
Chính thể chuyên chế của Rôma sẽ lên đến đỉnh điểm với Công đồng Vatican I (1869-1870), được triệu tập vào thời điểm cơ sở chính trị và địa lý của chế độ giáo hoàng biến mất cùng với các lãnh thổ của Nhà nước Giáo hoàng. Hugues Portelli, trưởng khoa khoa học xã hội và kinh tế tại Học viện Công giáo Paris (1), lưu ý: “Trong trường hợp không thể duy trì chế độ quân chủ tuyệt đối thế tục, chế độ này sẽ được chuyển sang bình diện quyền lực tinh thần”. Công đồng Vatican I khẳng định không chỉ “quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng trên các Giám mục khác, mà còn sự bất khả ngộ của ngài cả trong các vấn đề thiêng liêng và thế tục”.
Các Giám mục bị ràng buộc bởi “nghĩa vụ phục tùng phẩm trật và vâng phục thực sự”, Công đồng nói rõ thêm, không chỉ trong lĩnh vực đức tin và luân lý, mà còn trong các vấn đề kỷ luật và quản trị của Giáo hội. Hugues Portelli nhấn mạnh, chủ nghĩa tập trung của Rôma đã đạt đến một chiều kích “cho đến lúc đó chưa được biết đến trong Giáo hội”. Để tuyên bố các tín điều và sửa chữa luân lý, Đức Giáo hoàng không còn có nghĩa vụ triệu tập một công đồng nữa, giờ đây duy mình ngài có quyền bính cần thiết.
+ Ngày nay, quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng là gì?
Vào đầu thế kỷ XX, nhờ suy tư đại kết, tầm nhìn về mối quan hệ giữa Đức Giáo hoàng và các Thượng phụ khác đã được đổi mới. Giám mục Rôma, theo truyền thống giữ chức giáo hoàng, được công nhận là primus inter pares, người đứng đầu trong số những người ngang hàng. Các Giáo hội Chính thống công nhận Tòa Thượng Phụ Rôma có quyền ưu tiên về danh dự và phẩm giá nhưng không có quyền tài phán đối với các Tòa Thượng phụ khác, như được nêu trong “tài liệu Ravenna” được người Công giáo và Chính thống giáo ký năm 2007. Klaus Schatz phân tích: “Giáo hội Công giáo không thể từ bỏ các định nghĩa của Vatican I, nhưng Giáo hội có thể cho thấy rằng những quyền này tương thích với chủ nghĩa đa nguyên của các Giáo hội và không đòi hỏi sự thống nhất hoàn toàn”.
Ông nói tiếp, các Giáo hội Tin lành không phải tất cả đều là đối thủ của một “trung tâm hay biểu tượng của sự hiệp nhất giữa các Giáo hội” nhưng “họ phản đối chức vị giáo hoàng như một thể chế cần thiết mà Tin Mừng mong muốn”. Đối với họ, vai trò mà Chúa Giêsu gán cho thánh Phêrô chỉ áp dụng cho chính thánh Phêrô, về mặt cá nhân chứ không vượt ra ngoài.
Trong Giáo hội Công giáo, kể từ Công đồng Vatican II (1962-1965), Đức Giáo hoàng đã lắng nghe các giám mục nhiều hơn, trong các chuyến viếng thăm truyền thống của các ngài tới Rôma (ad limina) và qua việc các ngài tham gia vào các Thượng hội đồng về các chủ đề cụ thể: tương lai của Giáo hội, Amazon, giới trẻ, gia đình… Hugues Portelli tóm tắt : “Tầm nhìn của Vatican I nơi chỉ có Giáo hoàng chịu trách nhiệm về Giáo hội hoàn vũ đã được thay thế bằng khái niệm tập đoàn về quyền bính trong và của Giáo hội”.
+ Đức Thánh Cha Phanxicô định vị mình như thế nào so với di sản này?
Trong cách điều hành của mình, giống như những vị tiền nhiệm, Đức Phanxicô ưu tiên tính tập đoàn với các Giám mục, nhưng với mối quan tâm ngày càng tăng là cân bằng quyền lực của Giáo triều, sự cai quản của Giáo hội, vốn ngày càng kháng lại mong muốn cải tổ các thể chế của ngài. Giáo triều thường là mục tiêu phê bình của Đức Phanxicô; năm 2014, ngài tố cáo “15 căn bệnh” của Giáo triều: không chịu tự phê bình, “sự chai đá” tinh thần, quan liêu, ganh đua, hư danh, nói xấu….
Cuộc chiến chống lại chủ nghĩa giáo sĩ trị của ngài ẩn chứa trong cách ngài mở ra các thượng hội đồng cho những người tham gia không phải là giám mục: các tu sĩ và giáo dân, kể cả phụ nữ. Klaus Schatz nhớ lại : “Ngay trong các công đồng thời trung cổ, đặc biệt là từ Latêranô IV (1215), các Đức Giáo hoàng đã triệu tập những người quan trọng trong việc thực hiện các cuộc cải cách và nếu không có họ thì các quyết định sẽ trở thành vô hiệu lực: các linh mục, phó tế cũng như đại diện của các trường đại học và các hoàng tử thế tục”.
Kể từ Đức Gioan Phaolô II, quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng đã được thực thi một cách trực tiếp, bên ngoài Giáo hội, trong dư luận. Sự hiện diện của ngài, với tư cách là một nhà lãnh đạo tinh thần, đã nhân lên nhờ những chuyến tông du, những bài phát biểu, sự hiện diện của ngài trên mạng xã hội (tài khoản X của ngài, trước đây là Twitter, có hơn 50 triệu người đăng ký).
Trong tài liệu chuẩn bị, Thượng Hội đồng hiện hành về tương lai của Giáo hội mời gọi chúng ta suy nghĩ về việc đổi mới việc thực thi quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng, dựa trên “sự hiệp lực” mới giữa “Dân Thiên Chúa, Giám mục đoàn và Giám mục Rôma – đồng thời tôn trọng những chức năng đặc thù của họ” (số 62).
—————————————————————————————
“Thánh Phêrô, một người yếu đuối, được chọn làm đá tảng”
“Trong lịch sử triều đại giáo hoàng, không thiếu những lỗi lầm và thiếu sót của con người, thậm chí là nghiêm trọng: chính thánh Phêrô cũng thừa nhận mình là một “tội nhân” (Lc 5, 8). Thánh Phêrô, một con người yếu đuối, được chọn làm đá tảng, chính để chứng minh rằng chiến thắng chỉ thuộc về Chúa Kitô chứ không phải là hệ quả của sức mạnh con người. Chúa muốn mang kho tàng của Người trong những chiếc bình dễ vỡ (2 Cr 4,7), xuyên suốt thời gian: như thế, sự yếu đuối của con người đã trở thành dấu chỉ của sự thật về những lời hứa của Thiên Chúa. »
Trích từ La Primauté du successeur de Pierre dans le mystère de l’Église (Quyền tối thượng của đấng kế vị thánh Phêrô trong mầu nhiệm của Giáo hội, số 15), do Đức Hồng y Joseph Ratzinger ( Đức Bênêđíctô XVI tương lai) ký. Bộ Giáo lý Đức tin, ngày 30/10/1998.
———————————————————————–
(1) “Le pouvoir du pape et ses limites” ( “Quyền bính của Đức Giáo hoàng và các giới hạn của nó ”) , tạp chí Pouvoirs, số 162, năm 2017.
————————————-
Tý Linh
(theo Gilles Donada, nhật báo La Croix)
Nguồn: https://xuanbichvietnam.ne
2023
Đại hội Thượng hội đồng: “Giáo hội đẹp nhất khi những cánh cửa được mở ra”
Trong cuộc họp báo ngắn hôm thứ Ba 10/10 với báo giới, Tiến sĩ Paolo Ruffini, Chủ tịch Ủy ban Thông tin, đã cập nhật về các cuộc thảo luận trong các nhóm nhỏ, cũng như danh sách các thành viên của Ủy ban Báo cáo Tổng hợp vừa được bầu chọn.
Tiến sĩ Ruffini cho biết các tham dự viên đã có được bầu không khí chia sẻ tuyệt vời. Trong các nhóm nhỏ, các thành viên có nhiều cơ hội hơn để phát biểu với nhiều vòng chia sẻ. Các tham dự viên đã làm quen với việc chia sẻ trong nhóm nhỏ ngay từ những buổi tĩnh tâm trước khi khai mạc Đại hội Thượng Hội Đồng. Các nhóm nhỏ đã thảo luận sâu hơn về các mục riêng của phần B1 liên quan đến sự hiệp thông, trong đó có các đề tài: giáo dục, môi trường, đa văn hóa, đồng hành với những người bị gạt ra ngoài lề xã hội và những người di cư. Báo cáo viên của các nhóm nhỏ sẽ trình bày những suy tư của họ tại các phiên họp khoáng đại sắp tới.
Đáng chú ý, Đức Hồng y Joseph William Tobin, Tổng Giám mục Newark (Hoa Kỳ), đã chia sẻ cảm nghĩ của mình khi suy tư và cầu nguyện với đề tài “Một sự hiệp thông có sức lan tỏa”: Vẻ đẹp thực sự của Giáo hội Công giáo “trở nên rõ ràng khi cánh cửa của Giáo hội rộng mở và chào đón mọi người. Chúng tôi hy vọng rằng Thượng Hội đồng sẽ giúp chúng ta cởi mở hơn nữa”. Vị hồng y nói điều này với tư cách một thành viên tham dự Thượng Hội Đồng và một mục tử tại giáo phận của ngài. Đức Hồng Y Tobin cũng bày tỏ sự tin tưởng rằng tiến trình thảo luận giữa các thành viên không bị áp đặt từ trên xuống, và không hề bị bó buộc.
Bên cạnh đó, Đức Hồng Y Tobin cũng nói đến sự hấp dẫn của cuộc đối thoại đa văn hóa. Ngài kể rằng trong nhóm nhỏ của ngài còn có một phụ nữ trẻ đến từ Nga, một bà mẹ đến từ Ukraina, một mục sư Ngũ Tuần đến từ Ghana, một nhà thần học đến từ Malaysia và điều phối viên đến từ Singapore. Chính bản thân vị hồng y cũng đã lớn lên ở Detroit trong một môi trường đa văn hóa, và là một linh mục trong 45 năm đã sống “trong những nền văn hóa không phải của riêng mình”. Ngài mô tả đây là “Thượng Hội Đồng đa dạng nhất mà tôi từng tham gia”.
Cũng theo Đức Hồng Y Tobin, “lựa chọn của Giáo hội là tình huynh đệ: có chỗ cho mọi người”. Ngài chia sẻ một kinh nghiệm mục vụ cụ thể, việc đón tiếp tại Nhà thờ Chính tòa Newark đối với “một cuộc hành hương của những người cảm thấy bị gạt ra ngoài lề xã hội vì xu hướng tính dục của họ”. Vị hồng y nhớ lại bài thuyết trình của một linh mục, người đã nói với nhóm: “Đây là một nhà thờ đẹp, nhưng đẹp nhất khi cửa mở”. Theo ngài, đó là một kinh nghiệm về một Giáo hội mở ra. Và ngài kết luận rằng “trong một thế giới được đặc trưng bởi chủ nghĩa dân tộc loại trừ, bài ngoại, trong đó có những nhà lãnh đạo cam kết xây dựng biên giới, thì lựa chọn của Giáo hội là tình huynh đệ, tính hiệp hành, một lựa chọn giúp chúng ta hiểu rằng tất cả chúng ta đều là anh chị em”.
Sơ Gloria Liliana Franco Echeverri, người Colombia, thuộc Dòng Đức Mẹ Maria, chủ tịch Liên hiệp Tu sĩ Mỹ Latinh (CLAR), nhấn mạnh rằng các tham dự viên mong muốn sống như Chúa Giêsu, Đấng đã làm người, đề cao phẩm giá con người, đón nhận mọi người, và mở cửa cho người khác. Sơ Echeverri cho biết trong các nhóm nhỏ, các tham dự viên đã nhận ra chính xác phẩm giá chung này của mọi người, một phẩm giá bắt nguồn từ sự tôn trọng, hiệp thông và công nhận lẫn nhau. Sơ cũng đề cập đến lời mời gọi lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, người di dân, nạn nhân của nạn buôn người được vọng lên trong Đại hội, không chỉ trong những buổi thảo luận, nhưng cả trong bàn ăn.
2023
Mười trích dẫn đáng chú ý trong tông huấn Laudate Deum
Trí tuệ nhân tạo, chủ nghĩa hoài nghi về khí hậu, các nhóm môi trường cực đoan… được đề cập đến trong tông huấn Laudate Deum được công bố ngày thứ tư, Đức Phanxicô trực tiếp nói về các chủ đề quan trọng đương thời. Báo La Croix đã chọn ra mười câu trích dẫn đáng chú ý của tông huấn.
Trong tông huấn Hãy ngợi khen Chúa, Laudate Deum được công bố ngày thứ tư 4 tháng 10, ngày lễ kính Thánh Phanxicô, Đức Phanxicô tiếp tục suy tư về sinh thái được ngài bắt đầu từ thông điệp Laudato si’ của ngài. Ngắn hơn và có tác động hơn, ít phát triển quan điểm thần học, tông huấn mới này đưa ra các đề tài để suy nghĩ về các xu hướng trong xã hội và một số sự kiện hiện tại: sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, gia tăng các phát biểu hoài nghi về khí hậu, vai trò của các hội nghị về khí hậu, v.v. Báo La Croix chọn mười câu trích dẫn nổi bật nhất từ văn bản này.
1- Trách nhiệm của những người giàu nhất
“Trong cố gắng đơn giản hóa thực tế, một số người đổ lỗi cho người nghèo vì họ sinh nhiều con, thậm chí còn tìm cách giải quyết vấn đề bằng cách cắt xẻo phụ nữ ở các nước kém phát triển. Như mọi lần, dường như đó là lỗi của người nghèo. Nhưng thực tế là một tỷ lệ nhỏ những người giàu nhất hành tinh đã gây ô nhiễm nhiều hơn 50% dân số nghèo nhất thế giới và lượng khí thải bình quân đầu người của các nước giàu nhất cao hơn nhiều so với các nước nghèo nhất.” (số 9)
2- Các cường quốc xem thường
“Thật không may, cuộc khủng hoảng khí hậu không thực sự là chủ đề được các cường quốc kinh tế lớn quan tâm, họ chỉ quan tâm đến lợi nhuận lớn nhất với chi phí thấp nhất và trong thời gian ngắn nhất có thể.” (số 13)
3- Chủ nghĩa hoài nghi về khí hậu trong Giáo hội
“Tôi buộc lòng phải nói chính xác những chi tiết này, điều này có vẻ hiển nhiên, vì một số ý kiến xem thường và vô lý mà tôi gặp ngay cả trong Giáo hội công giáo. Nhưng chúng ta không còn có thể nghi ngờ, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng bất thường này là một thực tế không thể phủ nhận: những thay đổi to lớn liên quan đến sự can thiệp không kiểm soát của con người vào thiên nhiên trong hai thế kỷ qua.” (số 14)
4- Trí tuệ nhân tạo
“Trí tuệ nhân tạo và những cải tiến công nghệ mới nhất bắt đầu từ ý tưởng về một con người không có bất kỳ một giới hạn nào, nhờ công nghệ, năng lực và khả năng của họ có thể được mở rộng đến vô tận. Do đó, mô hình kỹ trị tự dung dưỡng nó cách quái dị. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho công nghệ, chẳng hạn như lithium, silicon và nhiều kim loại khác, chắc chắn không phải là vô hạn, nhưng vấn đề lớn nhất là hệ tư tưởng đằng sau nỗi ám ảnh: phát triển vượt xa sức mạnh có thể tưởng tượng của con người, trước thực tế phi-nhân là có một nguồn tài nguyên đơn giản chỉ phục vụ cho họ.” (số 22/21)
5- Đặt câu hỏi về sức mạnh con người
“Tất cả chúng ta cần phải suy nghĩ lại về sức mạnh con người, ý nghĩa và giới hạn của nó. Quả thực, chỉ trong vài thập kỷ, sức mạnh của chúng ta đã phát triển đến chóng mặt. Chúng ta đã có được những tiến bộ công nghệ ấn tượng và đáng kinh ngạc, nhưng đồng thời, chúng ta không thấy, chúng ta đã trở nên cực kỳ nguy hiểm, có khả năng gây nguy hiểm cho mạng sống của nhiều sinh vật cũng như sự sống còn của chính chúng ta.” (số 28)
6- Dự án có tác động môi trường cao
“Sự suy đồi đạo đức của quyền lực lại được ngụy trang bằng hoạt động tiếp thị và tin tức giả, vốn là những cơ chế hữu ích trong tay những người có nhiều khả năng tác động đến dư luận. Nhờ các cơ chế này, khi khởi động một dự án có tác động môi trường mạnh mẽ và gây ô nhiễm đáng kể, người dân trong khu vực bị lừa dối, họ bị thuyết phục bởi những tiến bộ có thể có được ở địa phương hoặc về các cơ hội kinh tế trong lãnh vực việc làm và phát triển con người trên con cái họ. Nhưng trên thực tế, họ lại không thực sự quan tâm đến tương lai của những người này, vì họ đã không cho người dân biết, một dự án như vậy sẽ là một vùng đất bị tàn phá, điều kiện sống và sinh hoạt bất lợi hơn rất nhiều, một vùng hoang vắng, ít người ở, không có sự sống và không có niềm vui chung sống và hy vọng, chưa kể đến thiệt hại chung mà cuối cùng sẽ gây thiệt hại cho nhiều người khác.” (số 29)
7- Hy vọng vào hội nghị COP28
“Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất sẽ tổ chức Hội nghị COP28 tiếp theo. (…) Nói rằng không còn gì để hy vọng sẽ là một hành động tự sát, khiến toàn thể nhân loại, đặc biệt là những người nghèo nhất, phải hứng chịu những tác động xấu nhất của biến đổi khí hậu.” (số 53)
8- Chủ nghĩa giải pháp công nghệ
“Cho rằng bất kỳ vấn đề nào trong tương lai đều có thể giải quyết bằng các biện pháp can thiệp kỹ thuật mới, đó là chủ nghĩa thực dụng giết người, giống như hiệu ứng bong bóng tuyết.” (số 57)
9- Sinh thái tận căn
Tại các hội nghị về khí hậu, hành động của các nhóm bị cho là ‘cực đoan hóa’ thường thu hút sự chú ý. Nhưng chúng lấp đầy khoảng trống trong xã hội, mà theo lẽ chúng phải tạo “áp lực” lành mạnh; vì mọi gia đình đều phải nghĩ rằng tương lai của con cái mình đang bị đe dọa.” (số 58).
10- Tầm quan trọng của những “cử chỉ nhỏ”
“Nỗ lực của các gia đình nhằm giảm ô nhiễm, giảm rác thải, tiêu dùng điều độ đã tạo ra một văn hóa mới. Thực tế đơn giản về việc thay đổi thói quen cá nhân, gia đình và cộng đồng đã làm dấy lên mối lo ngại về các thành phần chính trị đã không đảm nhận phần trách nhiệm của họ, họ phẫn nộ trước sự vô tư của những người có quyền lực. Vì thế, chúng tôi nhận thấy, dù điều này không có tác động đáng chú ý về lượng, thì nó vẫn giúp chúng ta đưa ra các quá trình chuyển đổi lớn vận hành từ sâu thẳm xã hội.” (số 7)
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch(phanxico.vn)
2023
Những phụ nữ làm nên Giáo hội ở Amazon
Nữ thừa tác viên hướng dẫn phụng vụ
Thực tế, ở khu vực này do có ít linh mục, một vị mục tử phục vụ hơn 5.500 tín hữu trải rộng trong những khu vực rộng lớn, nên chính các giáo dân nam nữ ở Amazon là những người đưa các cộng đoàn phát triển và có nhiều nữ thừa tác viên chủ sự các nghi lễ, hướng dẫn các buổi cầu nguyện, nghi thức tang lễ và các buổi canh thức.
Vai trò nền tảng của phụ nữ trong phụng vụ
“Vừa vô hình vừa cần thiết” là hai cụm từ được Đại hội Giáo hội châu Mỹ Latinh – một trải nghiệm chưa từng có được tổ chức tại Thành phố Mexico vào tháng 11/2021 – tóm tắt tình trạng của phụ nữ trong Giáo hội Lục địa. Những con số xác nhận vai trò nền tảng của thành phần phụ nữ: có trên 600 ngàn giáo lý viên, và gần một triệu tham gia vào lĩnh vực giáo dục. Tuy nhiên, cuộc sống hàng ngày cho thấy có nhiều nữ giáo dân và nữ tu vẫn bị đưa ra vùng ngoại biên của Giáo hội. Chính vì lý do này, một lần cho tất cả Đại hội đã mạnh mẽ yêu cầu “đưa phụ nữ vào trong phụng vụ, trong những quyết định và trong thần học”.
Mặc dù có sự phong phú của các suy tư thần học về nữ quyền và thần học phụ nữ, nhưng có lẽ phụng vụ là lãnh vực mà sự hiện diện của phụ nữ quan trọng nhất. Hơn nữa, chính trong phụng vụ, quá trình nhập thể của Công đồng được bộc lộ một cách linh hoạt trong khu vực rộng lớn giữa Rio Bravo và Tierra del Fuego mà các Giám mục của khu vực đã áp dụng kể từ Hội nghị chung của các Giám mục Mỹ Latinh ở Medellín năm 1968.
Hai trụ cột của sự đổi mới
Hai trụ cột của sự đổi mới là hội nhập văn hóa các nghi thức, thực hành và sự năng động của phụ nữ. Trong cả hai trường hợp, đây không chỉ là một dự án được hệ thống thành luật lệ, nhưng còn là một đáp ứng đối với thực tế Mỹ Latinh. Trên Lục địa, người bản địa chiếm 8% tổng số dân, người Mỹ gốc Phi chiếm 20% và thực tế tất cả đều là kết quả của mestizaje, sự pha trộn giữa các nhóm thiểu số, các dân tộc và các nền văn hóa sau thời Khám phá-Chinh phục. Với trung bình một linh mục chăm sóc trong những khu vực rộng lớn cho hơn 5.500 tín hữu, gần gấp ba lần so với châu Âu, thì chính giáo dân và đặc biệt nữ giáo dân là những người lãnh trách nhiệm về các buổi cử hành phụng vụ trong các cộng đoàn Kitô. Vì khan hiếm linh mục, Thánh lễ thường được thay thế bằng cử hành Lời Chúa.
Paolo Maria Braghini, một nhà truyền giáo dòng Capucino người Ý trong gần hai mươi năm ở Amazon thuộc Brazil nói: “Ở các làng Belém do Alto Solimões, có rất nhiều thừa tác viên. Và họ chủ trì phụng vụ, từ dấu thánh giá bắt đầu cho đến lời giải tán sau cùng”. Nhà truyền giáo cho biết ở đây trong việc truyền bá và chăm sóc đức tin Công giáo, giáo dân có một vai trò quan trọng và mang tính quyết định. Họ là những người nắm giữ vai chính không phải chỉ vì số lượng lớn, nhưng do sự năng động, mạnh mẽ, sáng tạo, kiên cường. Việc họ được công nhận là điều đúng. Bây giờ cuối cùng họ đã có được điều này.
Thượng Hội đồng về Amazon
Bước ngoặc là Thượng Hội đồng Giám mục về Amazon được tổ chức vào tháng 10 năm 2019 và đỉnh cao là Tông huấn Querida Amazonia hậu Thượng hội đồng. Tài liệu cuối cùng được thông qua bởi việc khích lệ kêu gọi sửa đổi Tông thư “Ministeria quaedam-Một số Thừa tác vụ” để phụ nữ được phép tham gia thừa tác vụ đọc sách và giúp lễ. Một lời mời mà Đức Thánh Cha đã chấp nhận vào tháng 01/2021. Hai phụ nữ Amazon – Aurea Imerda Santi người Ecuador và Susana Martina Santi, người Quechua – là những thừa tác viên đọc sách và giúp lễ chính thức đầu tiên của Giáo hội Công giáo.
Magnolia Parente Arambula, một phụ nữ bản địa và là nhà truyền giáo tại Nazaré, ở Colombian Amazon nói: “Đó là một món quà tuyệt vời. Ở Ticuna, luôn có những phụ nữ gìn giữ đức tin Công giáo. Tuy nhiên, giờ đây, chúng tôi cảm thấy Giáo hội công nhận và coi trọng chúng tôi”. Magnolia cho biết thêm cô đang truyền giáo tại một ngôi làng có 1.017 cư dân, nơi thu hút một “thiên hà” gồm các cộng đoàn vệ tinh có vài chục người, những người mà cô đã truyền giáo trong mười năm.
Phụng vụ Ticuna có những nét nữ tính rõ rệt. Trên hết, tại các đám tang và trong buổi cầu nguyện trước đó, phụ nữ chủ trì dẫn đầu những lời cầu nguyện và các bài hát. Đối với Thánh lễ, các tín hữu được uỷ thác việc dâng lễ vật, trong đó họ mang công việc của mình như một lễ vật cho Chúa, được thể hiện bằng những sản phẩm thủ công nhỏ hoặc sản phẩm nông nghiệp. Cuối cùng, trong thời điểm quan trọng của năm phụng vụ, như Lễ Giáng sinh và Tuần Thánh, nhiều nghi thức được phụ nữ cử hành.
Không dễ để nói về “phụng vụ Amazon”. Khu rừng là ngôi nhà của 400 nền văn hóa và ngôn ngữ khác nhau trong quan niệm sống và đức tin. Và, do đó, có những cách khác nhau để “đi vào cái nhìn mà Thiên Chúa dành cho chúng ta”, như Romano Guardini đã định nghĩa về phụng vụ. Vì lý do này, Hội nghị Giáo hội Amazonia (Ceama), thành quả của hành trình hậu Thượng Hội đồng, kể từ năm 2020 đã khởi động một tiến trình nghiên cứu chuyên sâu nhằm tìm ra mẫu số chung quan trọng cho tất cả các dân tộc bản địa trong khu vực. Cơ sở, thực tế chứ không chỉ đơn thuần là lý thuyết, để soạn thảo một nghi thức Amazon có thể được thêm vào 23 nghi thức khác tạo nên tính Công giáo.
Nghi thức phụng vụ cho Amazon
Eugenio Coter, một người Ý đã chuyển đến Pando, Bolivia, hiện là đại diện tông tòa cũng như đại diện các Giám mục Amazon trong nhiệm kỳ chủ tịch của Đại hội của Hội đồng Giáo hội Amazon (Ceama) giải thích: “Nghi thức không chỉ có nghĩa là những cử hành. Nghi lễ gồm các thói quen, phong tục, tầm nhìn vũ trụ học và nhân chủng học. Đây là lý do tại sao chúng ta không thể vội vàng. Bước đầu tiên là thành lập một ủy ban gồm các giám mục, các nhà nhân chủng học, các nhà mục vụ và bắt đầu công việc trong lĩnh vực này. Việc phân tích bắt đầu từ Manaus, ở Brazil, trung tâm của Amazon. Sau đó, sẽ được thực hiện ở các giáo phận trước khi có thể đưa ra điều gì đó để đề xuất thử nghiệm”.
Mô hình là nghi thức Zairean. Điều tương tự cũng đã truyền cảm hứng cho các Giám mục Mexico, tại phiên họp chung vừa qua, đã quyết định trình lên Tòa Thánh đề xuất đưa một số nghi thức đặc trưng của văn hóa Maya vào Thánh lễ.
Nghi thức được thực hiện bởi giáo phận San Cristóbal de las Casas, ở Chiapas, nơi có hơn 70% dân số là người bản địa. Đặc biệt, có ba cách thích nghi được gợi ý: một lời cầu nguyện đầu tiên do người đứng đầu hướng dẫn, một giáo dân bản địa có đức tin trưởng thành, có thẩm quyền và được cộng đoàn công nhận, một điệu múa điển hình sau rước lễ, và một người điều khiển nhịp điệu cử hành.
Đức Hồng Y Felipe Arizmendi, một trong những người thúc đẩy Misa maya kết luận: “Nghi thức này nhấn mạnh đến vai trò chính của phụ nữ. Bao gồm một cách chính thức công nhận nhỏ về hoạt động truyền giáo mang lại nguồn sống cho cộng đoàn chúng ta”.
Gần sáu mươi năm sau Công đồng, hội nhập văn hóa và nâng cao vai trò phụ nữ là hai con đường mà Hội đồng tiếp tục đi khắp Lục địa.
Đức Thánh Cha ca ngợi sự dấn thân của phụ nữ Amazon
Liên quan đến vài trò của phụ nữ trong các Giáo hội ở Amazon, chính Đức Thánh Cha đã nhiều lần lên tiếng ca ngợi sự dấn thân của các phụ nữ ở khu vực này. Dịp ngài thể hiện điều này gần đây nhất là vào tháng Ba. Đức Thánh Cha đã khuyến khích sự dấn thân của phụ nữ và nói rằng không ai có thể ngăn cản sự thay đổi.
Trước đó, ngày 04/3/2023, cô Gualinga, cô Yesica Patiachi và sơ Laura Vicuña, đã gửi thư cho Đức Thánh Cha để xin được yết kiến và trình bày những lo ngại của họ về các cuộc tấn công nhắm vào các vùng đất của họ ở Ecuador, Colombia và Peru, về cuộc đấu tranh trong nhiều năm để bảo vệ miền Amazon và người dân ở đó, đồng thời cám ơn Đức Thánh Cha vì sự quan tâm ngài luôn dành cho miền đất này của thế giới, vốn là nền tảng cho toàn bộ hệ sinh thái.
Đức Thánh Cha đã nhận thư và ngày 1/6/2023, ngài đã gặp gỡ ba phụ nữ đại diện của Hội đồng Giáo hội Amazon và Mạng lưới Giáo hội Liên Amazon.
Ba điểm quan trọng đã được đề cập trong cuộc đối thoại với Đức Thánh Cha, gồm: “Công việc của những người phụ nữ trong Giáo hội của vùng, sự công nhận của Giáo hội về công việc này, thực tế của người dân bản địa và của giáo dục”.
Ba nhà lãnh đạo bản địa đã trình bày mối quan tâm của họ với Đức Thánh Cha để ngài biết về họ. Nỗi sợ hãi lớn nhất liên quan đến các chính sách được thực hiện ở nhiều nơi và theo họ, thể hiện sự tấn công vào nhân quyền trên phạm vi quốc tế, nhưng trên hết là quyền của cư dân Amazon. Nhiều chính sách trong số này có mục đích thương mại.
Về phần Đức Thánh Cha, ngài đã ca ngợi sự dấn thân của phụ nữ Amazon, sự nhạy cảm và công việc truyền giáo của họ.
Cuộc trò chuyện với Đức Thánh Cha cũng đề cập đến thực tế xã hội-giáo dục và xã hội-mục vụ của Amazon, nhấn mạnh vào sứ mạng và các thừa tác vụ của phụ nữ trong Giáo hội. Về điểm cuối cùng này, sơ Imrã Laura thuật lại, tất cả đều đồng ý rằng sứ mạng mà tất cả phụ nữ đã và đang thực hiện trong Giáo hội từ lâu nay không thể dừng lại: “Người phụ nữ chính là gương mặt mẫu tử này của Giáo hội… Và phụ nữ trong Giáo hội chính là những người mang lại những thay đổi nhằm thúc đẩy việc truyền giáo của Giáo hội”.
Sơ nói: “Rõ ràng là phụ nữ chúng tôi hiện diện trong vô số cộng đồng, khuyến khích và thúc đẩy mọi người không đánh mất niềm tin và ý nghĩa của cuộc sống. Nhưng sự phục vụ mà chúng tôi cống hiến cho Giáo hội không được công nhận, tạo ra những căng thẳng có thể được khắc phục bằng việc công nhận các thừa tác vụ mới dành cho phụ nữ theo tính cấp bách của thực tế xã hội-mục vụ của Giáo hội ở Amazon”.