2023
Tóm tắt Tông huấn mới của Đức Thánh Cha về Thánh Têrêsa Hài Đồng “Chính sự tin tưởng”
Tóm tắt Tông huấn mới của Đức Thánh Cha về Thánh Têrêsa Hài Đồng “Chính sự tin tưởng”
Ngày 15/10/2023, Đức Thánh Cha đã công bố một Tông huấn mới với tựa đề “Chính sự tin tưởng”, nói về Thánh Têrêsa thành Lisieux. Trong Tông huấn, Đức Thánh Cha nói rằng Thánh Têrêsa Lisieux chỉ cho chúng ta điều cốt yếu trong Giáo hội, đó là tình yêu và sự tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. “Con đường bé nhỏ” của thánh nhân mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa và sống cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô trong sự cởi mở với tha nhân.
Tông huấn, được công bố nhân kỷ niệm 150 năm ngày sinh của thánh nhân tại Alençon, nước Pháp, gồm 5 phần với 53 số, dài gần 16 trang A4, theo bản tiếng Anh.
Đức Thánh Cha mở đầu Tông huấn với những lời Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã viết vào tháng 9/1896, và cũng là những lời gợi ý cho tựa đề của Tông huấn mới: “Chính sự tin tưởng và không có gì khác ngoài sự tin tưởng sẽ dẫn chúng ta đến Tình yêu”. Theo Đức Thánh Cha, những lời này “tổng hợp sức mạnh của sự khôn ngoan trong linh đạo của thánh thân và sẽ đủ để chứng minh rằng việc ngài được tuyên bố là Tiến sĩ Hội Thánh là đúng đắn và hợp lý” (2).
Một thông điệp thuộc về kho tàng thiêng liêng của Giáo Hội
Đức Thánh Cha đã giải thích việc ngài chọn công bố Tông huấn vào ngày 15/10, chứ không phải vào một ngày liên quan đến cuộc đời của vị thánh được cả thế giới biết đến và yêu mến, ngay cả những người không có đức tin. Lý do là vì ngài mong muốn “sứ điệp vượt xa những ngày kỷ niệm và được coi là một phần kho tàng thiêng liêng của Giáo hội” (4). Ngược lại, công bố tài liệu vào ngày lễ Thánh Têrêsa Avila là để cho thấy vị Thánh trẻ Têrêsa là “kết quả chín mùi” của linh đạo của vị Thánh vĩ đại người Tây Ban Nha (Thánh Têrêsa Avila).
Sự công nhận của các Giáo hoàng
Đức Thánh Cha Phanxicô lượt lại các giai đoạn nhìn nhận giá trị nổi bật của chứng tá thiêng liêng của Thánh trẻ Têrêsa qua các thời các Đức Giáo Hoàng: bắt đầu từ Đức Giáo Hoàng Leo XIII, người đã cho phép thánh nữ vào đan viện lúc 15 tuổi, đến Đức Piô XI, người đã phong thánh cho ngài vào năm 1925 và vào năm 1927 đã chọn ngài là bổn mạng của các xứ truyền giáo; cho đến Thánh Gioan Phaolô II, người đã tuyên bố ngài là Tiến sĩ Giáo hội vào năm 1997. “Cuối cùng – Đức Phanxicô nhắc lại -, tôi đã vui mừng được phong thánh cho cha mẹ của ngài là ông bà Luigi và Zelia, vào năm 2015, trong Thượng Hội đồng Giám mục về gia đình, và gần đây tôi đã dành một bài giáo lý nói về ngài” (6).
Tình yêu Chúa Giêsu của một tâm hồn truyền giáo
Trong căn phòng của mình, Thánh Têrêsa đã viết: “Chúa Giêsu là tình yêu duy nhất của tôi” (8) và khi phân tích kinh nghiệm thiêng liêng của thánh nữ, Đức Thánh Cha nhận xét rằng cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu “đã mời gọi ngài đi truyền giáo”, đến nỗi ngài không thể nghĩ rằng “mình thánh hiến cho Thiên Chúa mà lại không tìm kiếm thiện ích cho các anh chị em”. Thực ra, thánh nữ đã vào dòng Cát Minh “để cứu các linh hồn” (9). Vị thánh trẻ Têrêsa đã diễn tả tâm hồn truyền giáo của mình như thế này: “Tôi cảm thấy rằng ngọn lửa tình yêu càng đốt cháy trái tim tôi (…) thì càng có nhiều linh hồn đến gần tôi (mảnh sắt nhỏ bé đáng thương, vô dụng nếu tôi rời xa lò than là Thiên Chúa), các linh hồn này càng chạy nhanh đến với hương thơm của Đấng Yêu dấu của họ, bởi vì một tâm hồn đang cháy bỏng tình yêu không thể cứ đứng yên” (12).
Con đường của niềm tin và tình yêu
Tiếp tục Tông huấn, Đức Thánh Cha đi vào trọng tâm linh đạo của Thánh Têrêsa Hài Đồng, “con đường bé nhỏ” đó còn được gọi là con đường thơ ấu thiêng liêng. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã viết: “Lạy Chúa Giêsu, chiếc thang máy nâng con lên Thiên Đàng chính là đôi tay của Chúa! Vì thế, con không cần phải lớn lên, trái lại con cần tiếp tục bé nhỏ, ngày càng trở nên nhỏ bé” (16). Điều quan trọng đối với thánh nữ là hoạt động, ân sủng của Thiên Chúa, chứ không phải công trạng cá nhân, bởi vì chính Chúa là Đấng Thánh hóa. Đức Thánh Cha viết: “Vì vậy, thái độ thích hợp nhất là đặt lòng tin tưởng tín thác chân thành không phải nơi bản thân chúng ta nhưng vào lòng thương xót vô biên của một Thiên Chúa yêu thương không điều kiện và đã trao ban cho chúng ta mọi sự trên Thánh Giá của Chúa Giêsu. Vì thế, Thánh Têrêsa không bao giờ sử dụng câu nói thường thấy vào thời của ngài, “Tôi sẽ trở thành một vị thánh” (20).
Phó thác trong tay Chúa Cha
Đức Thánh Cha nói rằng trong cuộc sống của chúng ta, nơi mà chúng ta thường “bị tấn công bởi những nỗi sợ hãi, ước muốn về an ninh con người, nhu cầu kiểm soát mọi thứ” (23), sự tin tưởng và do đó sự tín thác vào Thiên Chúa mà Thánh Têrêsa khuyến khích “giải phóng chúng ta khỏi những tính toán ám ảnh, thường xuyên lo lắng về tương lai và những nỗi sợ hãi lấy đi sự bình an của chúng ta.”
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Nếu chúng ta ở trong tay của một người Cha yêu thương chúng ta vô hạn, điều này sẽ đúng dù hoàn cảnh nào xảy ra; chúng ta sẽ có thể vượt qua bất cứ điều gì có thể xảy ra với chúng ta và, bằng cách này hay cách khác, kế hoạch yêu thương và viên mãn của Người sẽ hoàn thành trong cuộc sống của chúng ta” (24).
“Cuộc thử thách chống đức tin” và sự tin tưởng vào lòng thương xót
Đời sống thiêng liêng của vị thánh trẻ dòng Cát Minh không phải là không có thử thách và đấu tranh. Đặc biệt, trong giai đoạn cuối đời, ngài đã trải qua “cuộc thử thách chống đức tin” dữ dội (25). Vào thời điểm đó, chủ nghĩa vô thần đang phát triển mạnh mẽ, và ngài “cảm thấy mình là chị em của những người vô thần” (26), khẩn cầu và hiến dâng cuộc sống cho họ, bằng cách canh tân đời sống đức tin của ngài. Ngài tin vào lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa và vào chiến thắng cuối cùng của Chúa Giêsu trên sự dữ: lòng tín thác của ngài đã giúp một kẻ giết người nhiều lần nhận được ân sủng hoán cải khi trên giá treo cổ.
Mọi thứ trong Chúa đều là tình yêu, kể cả Công lý. Đức Thánh Cha nói: “Đây là một trong những hiểu biết sâu sắc nhất của Thánh Têrêsa, một trong những đóng góp quan trọng của ngài cho toàn thể Dân Chúa. Một cách phi thường, ngài đã thăm dò chiều sâu của lòng thương xót Chúa và rút ra từ đó ánh sáng của niềm hy vọng vô hạn của ngài” (27).
Lòng bác ái vĩ đại nhất trong sự đơn giản lớn lao nhất
Thánh Têrêsa muốn “làm vui lòng” Chúa, ngài muốn xứng hợp với tình yêu của Chúa Giêsu. Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Thánh nữ hoàn toàn chắc chắn rằng Chúa Giêsu yêu thương ngài và biết rõ ngài khi Chúa chịu khổ nạn; ngài đã chiêm ngưỡng tình yêu của Chúa Giêsu đối với toàn thể nhân loại và đối với mỗi cá nhân, như thể họ là người duy nhất trong thế giới” (33).
Đức Thánh Cha còn khẳng định: “Thánh Têrêsa thực hành bác ái trong sự nhỏ bé, trong những điều đơn giản nhất của cuộc sống hàng ngày, và ngài đã làm điều này cùng với Đức Trinh Nữ Maria, người mà ngài đã học được rằng ‘yêu là cho đi tất cả. Đó là cho đi chính mình.’” (36).
“Trong con tim Giáo hội, Mẹ của tôi, tôi sẽ là Tình yêu!”
Tông huấn viết rằng từ Thánh Têrêsa Avila, Thánh Têrêsa Hài Đồng thừa hưởng “một tình yêu lớn lao dành cho Giáo hội và có thể đào sâu mầu nhiệm này” (38). Ngài viết trong Truyện Một Tâm Hồn: “Tôi hiểu rằng Giáo Hội có một Trái Tim, và Trái Tim này đang cháy bỏng tình yêu. Tôi hiểu rằng chỉ có tình yêu mới khiến các thành viên của Giáo Hội hành động”. Và ngài nói thêm: “Vâng, tôi đã tìm thấy vị trí của mình trong Giáo hội: trong con tim Giáo hội, Mẹ của tôi, tôi sẽ là Tình yêu!” (39).
Đức Thánh Cha Phanxicô nhận xét: “Trái tim này không phải là con tim của một Giáo hội chiến thắng, mà là một Giáo hội yêu thương, khiêm tốn và nhân hậu” (40). Đức Thánh Cha nói thêm: “Việc khám phá đó về con tim của Giáo hội cũng là một nguồn ánh sáng lớn lao cho chúng ta ngày nay để không bị sốc và vấp ngã bởi những hạn chế và yếu đuối của tổ chức Giáo hội với những bóng tối và tội lỗi, và giúp chúng ta bước vào trái tim cháy bỏng tình yêu của Giáo hội bùng cháy vào Lễ Hiện Xuống nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần” (41).
Trao tặng hoàn toàn cho tha nhân
Những thử thách nội tâm mà Thánh Têrêsa trải qua, điều mà đôi khi đã thúc đẩy thánh nữ đến mức phải tự hỏi “liệu có Thiên Đàng hay không” (42), đã khiến thánh nhân “chuyển từ lòng nhiệt thành khao khát thiên đàng sang lòng khao khát thường xuyên, cháy bỏng về thiện ích của tất cả” (43), và đi đến quyết tâm tiếp tục sứ mạng của mình ngay cả sau khi qua đời.
Tông huấn viết: “Bằng cách này ngài đã đạt đến sự tổng hợp cuối cùng của cá nhân về Tin Mừng, một sự tổng hợp bắt đầu bằng sự tin tưởng hoàn toàn và đạt đến cao điểm bằng sự trao tặng toàn thể chính mình cho tha nhân” (44).
Đức Thánh Cha viết: “Chính sự tin tưởng đưa chúng ta đến với tình yêu và do đó giải thoát chúng ta khỏi sợ hãi. Chính sự tin tưởng giúp chúng ta không còn nhìn vào chính mình và giúp chúng ta có thể phó thác vào tay Thiên Chúa những gì chỉ có Người mới có thể hoàn thành được. Điều này mang lại cho chúng ta một nguồn tình yêu và năng lượng bao la để tìm kiếm thiện ích cho anh chị em chúng ta.” (45).
Cuối cùng chỉ có tình yêu là có giá trị
Trong chương cuối cùng, Đức Thánh Cha giải thích rằng Tông huấn này là cơ hội để ngài nhắc lại rằng, như đã viết trong Evangelii gaudium, trong một Giáo hội truyền giáo, “việc rao giảng phải tập trung vào những điều cốt yếu, vào những gì đẹp nhất, vĩ đại nhất, hấp dẫn nhất và đồng thời cần thiết nhất” (47).
“Cuối cùng,” Đức Thánh Cha viết, “chỉ có tình yêu mới có giá trị” (48). Đối với Đức Thánh Cha Phanxicô, “sự đóng góp cụ thể mà Thánh Têrêsa cống hiến cho chúng ta, như là một vị thánh và một Tiến sĩ của Giáo hội” là “dẫn chúng ta đến trọng tâm, đến điều cốt yếu và không thể thiếu được”. (49).
Đức Thánh Cha nói với các nhà thần học, các nhà luân lý và các học giả về tu đức: “Chúng ta vẫn cần hiểu trực giác tuyệt vời này của Thánh Têrêsa và từ đó rút ra những hệ quả về mặt lý thuyết và thực tiễn, giáo lý và mục vụ, cá nhân và cộng đồng. Chúng ta cần sự táo bạo và sự tự do nội tâm để có thể làm được điều đó.” (50).
Tính thực tế của “con đường bé nhỏ”
Kết thúc Tông huấn, Đức Thánh Cha nhắc lại những khía cạnh chính trong “con đường bé nhỏ” của Thánh Têrêsa và tính thực tế của chúng.
Trong một thời đại được đánh dấu bởi việc tập trung vào lợi ích riêng, chủ nghĩa cá nhân và nỗi ám ảnh về quyền lực, thánh nhân cho chúng ta thấy vẻ đẹp của việc biến cuộc sống thành một quà tặng, cho thấy giá trị của sự đơn giản và nhỏ bé cũng như tính ưu việt tuyệt đối của tình yêu, vượt qua “một não trạng nệ luật hoặc đạo đức lấp đầy đời sống Kitô hữu bằng những luật lệ và quy định, và làm cho niềm vui Tin Mừng trở nên nguội lạnh.” (52).
Tông huấn kết thúc bằng một lời cầu nguyện ngắn, trong đó, Đức Thánh Cha cầu nguyện: “Lạy Thánh Têrêsa yêu dấu, xin giúp chúng con, giống như ngài, luôn tin tưởng vào tình yêu bao la của Thiên Chúa dành cho chúng con, để chúng con có thể bắt chước mỗi ngày “con đường bé nhỏ” thánh thiện của Ngài” (53).
Nguồn: vaticannews.va/vi
2023
ĐTC kêu gọi các lãnh đạo giới trẻ hãy đối chiếu giấc mơ của mình với giấc mơ của Chúa Giêsu
Phải có những giấc mơ lớn
Mở đầu thư, Đức Thánh Cha viết: “Trong giai đoạn này, các con đang tự hỏi làm thế nào để góp phần thay đổi thế giới. Điều này rất tích cực.” Và ngài nhấn mạnh: “Điều quan trọng là phải có những giấc mơ lớn. Chúa cũng có những giấc mơ!”. Và một điều quan trọng nữa là “gặp được những người lớn không nghiền nát những giấc mơ nhưng giúp các con giải thích và hiện thực hóa chúng. Hãy nhớ luôn đối chiếu giấc mơ của các con với giấc mơ của Chúa!”
Hạ mình xuống để phục vụ
Để trở thành người tạo nên sự thay đổi, Đức Thánh Cha mời những người trẻ khám phá sự thu hút vô tận của con người Chúa Giêsu. Ngài nói: “Chúa làm cho mọi sự trở nên mới mẻ; Người bộc lộ một quyền lực khác với quyền lực được thể hiện bởi những kẻ quyền lực ngày hôm qua và ngày nay. Cách Người thay đổi các hoàn cảnh không nhấn chìm nhưng nâng dậy, không gò bó mà giải phóng.” Ngài khuyến khích các nhà lãnh đạo trẻ “đi theo Chúa Giêsu với lòng tin tưởng hoàn toàn, coi sự thăng tiến của mình không phải là cách nâng mình lên trên người khác, mà là cách hạ mình xuống để phục vụ họ”.
Các giác quan thiêng liêng
Lưu ý rằng chủ đề của hội nghị là khả năng lãnh đạo bằng cả năm giác quan, Đức Thánh Cha nói rằng “điều này thật khôn ngoan, bởi vì thực tế thì lớn hơn những ý tưởng”. Ngài lưu ý rằng tiếp xúc với thực tế “đòi hỏi sự cởi mở, sự chú ý, lòng trắc ẩn, nó đòi hỏi một sự nhạy cảm toàn diện”, nghĩa là, cũng bao gồm “các giác quan thiêng liêng”.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Cha đang nói với các con những điều này, bởi vì tổ chức của các con là một tổ chức Công giáo, và ‘công giáo’ có nghĩa là nó có một cái nhìn cởi mở và toàn diện về con người, trong mọi chiều kích của nó”.
Trân trọng cơ hội được học hành
Cuối cùng, Đức Thánh Cha khuyến khích các nhà lãnh đạo trẻ “hãy trân trọng những cơ hội mà trường học mang lại cho các con”. Ngài nhắc nhở: “Không được coi đó là điều đương nhiên. Rất nhiều bạn bè cùng trang lứa với các con trên thế giới, đặc biệt là các bạn nữ, thậm chí không có cơ hội được học tập… Hãy đấu tranh cho quyền lợi của mình”.
2023
Chiến tranh luôn là một sai lầm, trẻ em sẽ cứu chúng ta
Trong một cuốn sách minh họa do Domenico Agasso, chuyên viên về Vatican của tờ nhật báo La Stampa của Turin, biên tập và được Mondadori xuất bản bằng tiếng Ý, Đức Thánh Cha đã trả lời các câu hỏi của trẻ em trên khắp thế giới. Qua đó, ngài mời gọi những người lớn, kể cả các nhà lãnh đạo các quốc gia, cần học hỏi từ các trẻ em.
“Chiến tranh luôn là một sai lầm”, chính bằng vài từ này mà Đức Thánh Cha đã trả lời Darío, một cậu bé người Tây Ban Nha mới 10 tuổi, trong cuốn sách được biên tập bởi Domenico Agasso, người có ý tưởng sưu tầm một loạt câu hỏi của trẻ em trên khắp thế giới dành cho Đức Phanxicô. Đó là một cuốn sách minh họa có tựa đề “Các thiếu nhi thân mến… Đức Thánh Cha trả lời các câu hỏi của các con”, do Mondadori ElectaKids xuất bản, sẽ được xuất bản vào thứ Ba ngày 17/10/2023, tại Ý. Nhật báo Turin đã đăng trước một số trích đoạn vào thứ Bảy ngày 14/10/2023.
Người lớn và chiến tranh
Darío hỏi Đức Phanxicô: “Tại sao lại có chiến tranh?” Đức Thánh Cha trả lời: “Bởi vì khi trưởng thành, chúng ta có nguy cơ rơi vào sự cám dỗ của tính ích kỷ, quyền lực và tiền bạc. Ngay cả khi phải trả giá bằng một cuộc chiến tranh chống lại một quốc gia khác đang cản trở mục tiêu quyền lực này, hoặc nhà lãnh đạo của quốc gia đó cũng theo đuổi những mục tiêu tương tự. Dù biết điều đó có nghĩa là giết người khác. Rất thường xuyên trong lịch sử, những người đã trở thành lãnh đạo của một quốc gia không thể kiềm chế được mong muốn trở thành kẻ mạnh nhất, thống trị thế giới. Đây được gọi là “lợi ích đế quốc”, mà các con sẽ học ở trường trong sách lịch sử. Ngày nay có rất nhiều chiến tranh và bạo lực trên hành tinh, và mặc dù một số người cho rằng đôi khi chúng có lý, nhưng Cha tin chắc rằng các con sẽ hiểu rằng chúng luôn sai. Chiến tranh luôn là một sai lầm”.
Hòa bình trên thế giới
Isabela, chín tuổi, đến từ Panama, hỏi Đức Phanxicô: “Đức Thánh Cha có nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ có hòa bình trên toàn thế giới không? Làm thế nào chúng ta có thể đạt đến đó?” Đức Phanxicô trả lời : “Có, chúng ta không được cam chịu, hòa bình là có thể, có thể thực hiện được. Cha mong rằng sớm hay muộn những “người lớn” sẽ hiểu rằng trong một thế giới hoàn toàn yên bình, tất cả chúng ta sẽ sống tốt hơn. Nhưng mỗi người phải cam kết hạ vũ khí, xoa dịu bạo lực, không gây căng thẳng và xung đột, và loại bỏ khỏi tâm hồn mình ước muốn thống trị người khác, cơn khát thống trị và tiền bạc. Trong trái tim chúng ta chỉ được có tình yêu thương người lân cận, nghĩa là những người ở gần và ở xa, nhất là những người đang đau khổ, gặp khó khăn vì lý do này hay lý do khác. Điều này cũng nên áp dụng cho các nhà lãnh đạo của các quốc gia trên hành tinh. Nếu tất cả chúng ta đều sống theo cách này thì sẽ ít gây hấn hơn và cũng ít sợ hãi hơn: tất cả chúng ta sẽ thanh thản hơn, hài lòng hơn. Tình yêu chinh phục chiến tranh và làm cho con người hạnh phúc”.
Tương quan với người lớn
Mary, 9 tuổi, đến từ Hungary, hỏi tại sao Đức Thánh Cha thường nói người lớn nên học hỏi từ trẻ em. Đức Phanxicô trả lời: “Bởi vì các con khôn ngoan, các con có một trái tim trong sáng, các con không có thành kiến. Bởi vì các con nói thẳng sự thật với họ (…) Dù không nhận ra điều đó, nhưng các con đang giúp những người lớn biết lắng nghe các con, và đặc biệt là cha mẹ các con, sống lương thiện và rộng lượng hơn. Thiếu nhi các con, các con biết mang lại giá trị đúng đắn cho những thời gian trong cuộc sống: thời gian học tập, cầu nguyện, vui chơi, vui chơi một mình, với bạn bè và với cha mẹ. Cha cũng mong cha mẹ các con dành thời gian để chơi cùng các con. Và rồi, các con giúp người lớn luôn khiêm tốn. Bởi vì đối với các con, họ chỉ là bố hoặc mẹ, hay dù sao đi nữa cũng là những người nam, người nữ trưởng thành. Do đó, các con “làm bối rối” những người quá say mê bản thân: vì đối với các con, người lớn này không quan trọng vì địa vị danh giá mà người ấy chiếm giữ hay vì người ấy nổi tiếng, mà đơn giản là vì vai diễn anh ta đóng trước mặt các con”.
Sự dấn thân sinh thái
Paul, một cậu bé người Na Uy chín tuổi, hỏi Đức Phanxicô tại sao ngài lại quan tâm đến thiên nhiên. Đức Thánh Cha giải thích: “Bởi vì biến đổi khí hậu và ô nhiễm do con người gây ra có thể dẫn đến sự biến mất của nhân loại, thông qua các hiện tượng như sự nóng lên toàn cầu, sự tàn phá thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường, dẫn đến sự biến mất của đa dạng sinh học, cũng như những căn bệnh chết người mới. Nhưng Cha có niềm tin”. Đức Phanxicô nói tiếp : “Trong nhận thức tập thể của người trẻ và trẻ em về các vấn đề môi trường: các trẻ trai và trẻ gái, thường nhờ đến trường học, đã hiểu rằng tương lai thuộc về các em, và do đó việc hành động ngay trong hiện tại để cứu lấy tương lai là điều cấp thiết”, thậm chí nếu bây giờ “các biện pháp sinh thái của các quốc gia được quyết định ở cấp độ quốc tế là rất quan trọng, cũng giống như hành vi hằng ngày của mỗi chúng ta: tái chế, đảm bảo không lãng phí nước và thực phẩm, đọc các sách giải thích chi tiết các vấn đề của Trái đất chúng ta. Tất cả chúng ta phải cùng nhau không làm bẩn Công trình tạo dựng và chăm sóc nó, luôn chọn những hành động vì lợi ích của môi trường sống của chúng ta, bởi vì đó là Ngôi nhà chung của chúng ta”, một “cam kết nhân bản và Kitô giáo”.
Trẻ em trong trại tỵ nạn
Xuất thân từ Sudan, Samuel, 10 tuổi, cho biết em sống trong trại tỵ nạn giữa những người bạn bị suy dinh dưỡng và khi mọi thứ đều ổn, “chúng con ăn một bữa mỗi ngày“. Em thổ lộ với Đức Thánh Cha rằng em mỉm cười hầu hết thời gian, ngay cả khi đôi khi “con chợt muốn khóc. Vì con muốn chạy trốn…”. Đáp lại, Đức Phanxicô an ủi : “Tất cả trẻ em phải được đến trường và có không gian để vui chơi”. Ngài nói thêm rằng người ta gần như bình thường khi tin rằng châu Phi “chỉ nên bị bóc lột chứ không được giúp đỡ”. Nhưng ngài nói tiếp : “đừng mất hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Cha hy vọng rằng sớm hay muộn các quốc gia giàu nhất sẽ hiểu rằng họ không thể tiếp tục khai thác và sau đó bỏ rơi đất đai của các con, rằng họ sẽ đầu tư nguồn lực để giúp các con giải quyết những khó khăn nghiêm trọng của các con và họ sẽ bắt đầu một sự biến đổi xã hội cho phép mỗi người sống một cuộc sống xứng đáng và mơ về một thời kỳ thịnh vượng không còn xa nữa”.
Đón tiếp người xa lạ
Alessandro, em bé người Ý mười tuổi, hỏi Đức Thánh Cha rằng ngài nghĩ gì về thực tế là những người lớn mà em nghe được không muốn “những gia đình nghèo hơn” đến đất nước của họ. Và nếu đúng như vậy thì em đã không trở thành “bạn của Momo”. Đức Phanxicô nhắc lại rằng điều quan trọng là giá trị của “tình bạn xã hội”. Ngài nhấn mạnh: “Chúng ta phải luôn coi nhau như anh chị em, không nghi ngờ về nguồn gốc xuất xứ, tôn giáo hay nền văn hóa khác nhau. Con là, và các con là, một tấm gương cho những người có thành kiến với những người đến từ xa, từ nước ngoài. Không ai có thể cảm thấy mình là người xa lạ ở bất cứ đâu nữa. Và thiếu nhi các con đã biết chào đón các bạn bè mới của mình thật tốt. Các con có thể hòa nhập căn tính của mình – thông qua vui chơi, qua đối thoại – với căn tính của những người đến từ những đất nước xa xôi, thường là vì họ phải chạy trốn chiến tranh, bạo lực, bất công, nghèo đói, đàn áp. Thiếu nhi các con đang gửi đi một thông điệp rất quan trọng: tự cô lập là xấu và phản tác dụng. Và việc học hiểu biết nhau sẽ có lợi cho cả hai bên. Bắt đầu từ những tình bạn mới. Ở đây cũng vậy, những người lớn, kể cả các nhà lãnh đạo các quốc gia, nên học nơi các con: yêu quý cội nguồn và đồng thời cởi mở với thế giới”.
Tý Linh (theo Vatican News)
https://xuanbichvietnam.net/
—————————————–
“Chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô dạy: “Hãy như con trẻ!” Tôi chưa được nghe lời nào thông thái hơn. Nếu tất cả những con người sống trên mặt đất này biết nghe lời Chúa, biết nâng niu gìn giữ trái tim con trẻ trong mình, thì chúng ta đã không phải chứng kiến những gì xấu xa mà chúng ta phải chứng kiến: chiến tranh, nhà tù, và mọi sự hành hạ mà con người hàng ngày gây ra cho đồng loại.” (Vũ Thư Hiên).
2023
Nói không với Thiên Chúa là bi kịch của cuộc sống con người.
“Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tìm thời gian giải phóng: thời gian dành cho Thiên Chúa, thời gian soi sáng và chữa lành tâm hồn chúng ta, gia tăng bình an, niềm tin và niềm vui trong chúng ta, cứu chúng ta khỏi sự dữ, sự cô đơn và mất đi ý nghĩa”. Đức Phanxicô nhắc nhở như thế trong buổi đọc Kinh Truyền Tin hôm Chúa Nhật 15/10/2023, và đồng thời cho thấy việc nói không với Thiên Chúa là bi kịch của cuộc sống con người.
Dưới đây là bài suy niệm của Đức Thánh Cha :
Anh chị em thân mến, chào anh chị em !
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta về một ông vua chuẩn bị tiệc cưới cho con trai mình (x. Mt 22, 1-14). Ông là một người quyền lực, nhưng trên hết ông là một người cha quảng đại, luôn mời gọi người khác chia sẻ niềm vui của mình. Đặc biệt, ông bộc lộ tấm lòng nhân hậu của mình ở chỗ ông không ép buộc ai mà mời gọi tất cả mọi người, mặc dù cách làm này của ông khiến ông có khả năng bị từ chối. Hãy lưu ý: ông chuẩn bị một bữa tiệc, hào phóng tạo cơ hội gặp gỡ, cơ hội dự tiệc. Đây là điều Thiên Chúa chuẩn bị cho chúng ta: một bữa tiệc, để hiệp thông với Người và với nhau. Và vì thế, tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi. Nhưng tiệc cưới đòi hỏi thời gian và sự dấn thân từ phía chúng ta: nó đòi hỏi tiếng “xin vâng”: đi, đi theo lời mời gọi của Chúa. Ngài mời gọi, nhưng Ngài để chúng ta tự do.
Đây là kiểu tương quan mà Chúa Cha ban cho chúng ta: Ngài kêu gọi chúng ta ở lại với Ngài, để cho chúng ta khả năng chấp nhận hoặc không chấp nhận lời mời. Ngài không đề nghị với chúng ta một mối quan hệ phục tùng, nhưng đúng hơn là mối quan hệ phụ tử, vốn nhất thiết đòi hỏi sự đồng ý tự do của chúng ta. Thiên Chúa tôn trọng tự do; rất tôn trọng. Thánh Augustinô sử dụng một cách diễn đạt rất hay về vấn đề này khi nói: “Đấng vốn đã tạo dựng nên chúng ta mà không có sự giúp đỡ của chúng ta sẽ không cứu chúng ta nếu không có sự ưng thuận của chúng ta” (Bài giảng CLXIX, 13). Và chắc chắn không phải vì Ngài không có khả năng làm điều đó – Thiên Chúa là Đấng toàn năng! – nhưng bởi vì, là tình yêu, Ngài hoàn toàn tôn trọng sự tự do của chúng ta. Thiên Chúa đề nghị: Ngài không áp đặt, không bao giờ.
Vậy, chúng ta hãy quay trở lại với dụ ngôn: nhà vua – bản văn nói – “sai đầy tớ đi gọi những người được mời đến dự tiệc cưới; nhưng họ không chịu đến” (c.3). Đây là bi kịch của câu chuyện: nói “không” với Thiên Chúa. Nhưng tại sao con người lại từ chối lời mời của Ngài? Có lẽ đó là một lời mời khó chịu? Không, thế nhưng – Tin Mừng nói – “họ không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: người thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn” (câu 5). Họ không quan tâm, vì họ đang nghĩ đến việc riêng của họ. Và vị vua đó, là một người cha, là Thiên Chúa, ông ấy làm gì? Ngài không bỏ cuộc, Ngài tiếp tục mời gọi; quả thực, Ngài đã mở rộng lời mời cho đến khi Ngài tìm được những người chấp nhận, trong số những người nghèo. Trong số những người biết mình nghèo nàn, nhiều người đến, cho đến khi chật kín hội trường (x. câu 8-10).
Thưa anh chị em, đã bao nhiêu lần chúng ta không chú ý đến lời mời gọi của Chúa, vì chúng ta chỉ quan tâm đến công việc của mình! Thông thường, chúng ta đấu tranh để có thời gian tự do, nhưng hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tìm thời gian giải phóng: thời gian dành cho Thiên Chúa, thời gian soi sáng và chữa lành tâm hồn chúng ta, gia tăng bình an, niềm tin và niềm vui trong chúng ta, cứu chúng ta khỏi sự dữ, sự cô đơn và mất đi ý nghĩa. Thật đáng giá, vì được ở với Chúa, dành chỗ cho Ngài là điều tốt. Ở đâu? Trong Thánh Lễ, trong việc lắng nghe Lời Chúa, trong cầu nguyện và cả trong bác ái, bởi vì bằng cách giúp đỡ những người yếu đuối và nghèo khổ, bằng việc đồng hành với những người cô đơn, bằng cách lắng nghe những người xin sự quan tâm, bằng cách an ủi những người đau khổ, người ta ở với Chúa, Đấng hiện diện nơi những người đang cần giúp đỡ. Tuy nhiên, nhiều người nghĩ rằng những điều này là “lãng phí thời gian”, và ví thế họ nhốt mình trong thế giới riêng tư của họ; và nó thật buồn. Và điều này tạo ra nỗi buồn. Có bao nhiêu tâm hồn buồn bã! Vì lý do này: bởi vì họ đã đóng cửa.
Vậy, chúng ta hãy tự hỏi: tôi đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa như thế nào? Tôi dành cho Ngài không gian nào trong những ngày sống của tôi? Chất lượng cuộc sống của tôi phụ thuộc vào công việc và thời gian rảnh rỗi của tôi, hay vào tình yêu dành cho Chúa và anh em tôi, đặc biệt là những người đang cần giúp đỡ nhất? Chúng ta hãy tự hỏi điều này.
Xin Mẹ Maria, Đấng với tiếng “xin vâng” của Mẹ đã dành chỗ cho Thiên Chúa, giúp chúng ta không làm ngơ trước những lời mời gọi của Ngài.
————————————-
Sau Kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến !
Tôi tiếp tục theo dõi với nỗi đau buồn sâu sắc về những gì đang xảy ra ở Israel và Palestine. Tôi lại nghĩ đến nhiều người… đặc biệt là trẻ em và người già. Tôi nhắc lại lời kêu gọi giải phóng các con tin và tôi mạnh mẽ yêu cầu trẻ em, người bệnh, người già, phụ nữ và tất cả thường dân không trở thành nạn nhân của cuộc xung đột. Luật nhân đạo phải được tôn trọng, đặc biệt là ở Gaza, nơi việc đảm bảo các hành lang nhân đạo và trợ giúp toàn thể người dân là điều cấp bách và cần thiết. Thưa anh chị em, đã có nhiều người chết rồi. Làm ơn, đừng đổ máu vô tội nữa, ở Thánh địa cũng như ở Ucraina, cũng như ở bất kỳ nơi nào khác! Đủ rồi! Chiến tranh luôn luôn là một thất bại!
Cầu nguyện là sức mạnh hiền lành và thánh thiện để chống lại sức mạnh ma quỷ của hận thù, khủng bố và chiến tranh. Tôi mời gọi tất cả các tín hữu hãy hiệp nhất với Giáo hội tại Thánh Địa và dành Thứ Ba tới, ngày 17 tháng 10 để cầu nguyện và ăn chay. Và bây giờ chúng ta hãy cầu nguyện với Đức Mẹ. [Kính mừng Maria].
Mối quan ngại của tôi đối với cuộc khủng hoảng ở Nagorno-Karabakh vẫn chưa hề suy giảm. Ngoài tình hình nhân đạo của những người phải di dời – vốn rất nghiêm trọng – tôi cũng muốn đưa ra lời kêu gọi đặc biệt để bảo vệ các tu viện và nơi thờ tự trong khu vực. Tôi hy vọng rằng, bắt đầu từ Chính quyền và tất cả người dân, họ có thể được tôn trọng và bảo vệ như một phần của văn hóa địa phương, như là cách thể hiện đức tin và là dấu chỉ của tình huynh đệ giúp chúng ta có thể chung sống với nhau bất chấp những khác biệt.
Hôm nay, Tông huấn về Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan được xuất bản, có tựa đề “Đó là niềm tin tưởng”: quả thực, như vị Thánh vĩ đại và là Tiến sĩ Giáo hội này đã làm chứng, tin tưởng vào tình yêu thương xót của Thiên Chúa là con đường dẫn chúng ta đến trái tim của Chúa và Tin Mừng của Người.
———————————————-
Tý Linh chuyển ngữ
(nguồn : vatican.va)