Aenean nec eros. Vestibulum ante ipsum primis in faucibus orci luctus et ultrices posuere cubilia curae. Suspendisse sollicitudin velit sed leo.

Chuyên mục
  • Bài giảng
  • Các loại khác
  • Chia sẻ
  • Chưa phân loại
  • GH Hoàn Vũ
  • GH Việt Nam
  • Giáo dục
  • Hạnh các Thánh
  • HĐGM Việt Nam
  • Kinh Thánh
  • Phim giáo dục
  • Phụng vụ
  • Sách
  • Suy niệm Chúa nhật
  • Suy niệm hàng ngày
  • Tài liệu giáo dục
  • Tài liệu phụng vụ
  • Thần học
  • Thánh ca
  • Thánh lễ
  • Thánh lễ trực tuyến
  • Thư chung
  • Thư viện
  • Tin tức
  • Triết học
  • Tư liệu
  • UBGD Công giáo
  • Video
From Gallery
Stay Connected
UyBanGiaoDucHDGM.net
  • Trang chủ
  • Thư chung
    • HĐGM Việt Nam
    • UBGD Công giáo
  • Tin tức
    • GH Việt Nam
    • GH Hoàn Vũ
  • Phụng vụ
    • Thánh lễ
    • Thánh lễ trực tuyến
    • Suy niệm hàng ngày
    • Suy niệm Chúa nhật
    • Tài liệu phụng vụ
  • Giáo dục
    • Chia sẻ
    • Tài liệu giáo dục
  • Thư viện
    • Sách
      • Kinh Thánh
      • Triết học
      • Thần học
      • Các loại khác
    • Video
      • Bài giảng
      • Thánh ca
      • Phim giáo dục
      • Hạnh các Thánh
      • Tư liệu
  • Liên hệ
Give Online

Danh mục: Thư chung

Home / Thư chung
28Tháng Ba
2020

Thư chung năm 2004 – Giáo hội sống mầu nhiệm Thánh Thể

28/03/2020
Anmai, CSsR
HĐGM Việt Nam, Thư chung
0

THƯ CHUNG NĂM 2004

GIÁO HỘI SỐNG MẦU NHIỆM THÁNH THỂ

NHẬP ĐỀ

PHẦN I: MẦU NHIỆM ĐỨC TIN

  1. Cử hành Mầu nhiệm hy tế thập giá Chúa Giêsu
  2. Cử hành Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa
  3. Cử hành Mầu nhiệm Hiệp Thông

PHẦN II : GIÁO HỘI SỐNG MẦU NHIỆM THÁNH THỂ

  1. Giáo Hội sống hiệp thông
  2. Giáo Hội sống tình yêu tự hiến
  3. Giáo Hội sống chia sẻ

PHẦN III: TÔN SÙNG VÀ YÊU MẾN THÁNH THỂ

  1. Tôn thờ Chúa Giêsu Kitô trong bí tích Thánh Thể
  2. Thánh Thể với các thành phần dân Chúa
  3. Một vài đề nghị thực hành

KẾT LUẬN

Kính gửi: Các linh mục, Các tu sĩ, chủng sinh và anh chị em giáo dân

NHẬP ĐỀ

Anh chị em thân mến,

  1. Chúng tôi, hồng y, tổng giám mục, giám mục tham dự Đại Hội các giám mục thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam từ ngày 27-9 đến ngày 1-10-2004 tại Hà Nội, thân ái gửi đến anh chị em lời chào thăm và cầu chúc bình an trong “ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (Nghi thức Thánh lễ).

Hội nghị năm nay là Đại hội các giám mục, nhằm bầu lại Ban Thường vụ và chủ tịch các Uỷ ban của Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Trong năm nay, Năm Thánh Thể, có Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 48 tại Mexico từ ngày 10 đến 17-10-2004, và cũng là năm chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới về Mầu nhiệm Thánh Thể vào tháng 10-2005, vì thế chúng tôi chọn chủ đề Thư chung của Đại Hội gửi cho toàn thể Dân Chúa là Giáo Hội sống Mầu nhiệm Thánh Thể.

PHẦN I: MẦU NHIỆM ĐỨC TIN

  1. “Hãy nâng tâm hồn lên! Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta”. Những lời mở đầu của Kinh Tiền Tụng mời gọi mọi người chúng ta hướng tâm hồn đến mầu nhiệm Thánh Thể. Nâng tâm hồn lên để tạ ơn Thiên Chúa Cha “Đấng đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một” cho chúng ta (Ga 3,16), để tưởng niệm sự Chết và sự Sống Lại của Chúa Kitô. Nâng tâm hồn lên để hiểu biết, yêu mến và sống Mầu nhiệm Thánh Thể là chính Chúa Kitô mà chúng ta gặp gỡ bằng đức tin khi cử hành bí tích. Nâng tâm hồn lên để cùng với Giáo Hội và trong Giáo Hội dâng hy lễ của Chúa Kitô lên Chúa Cha, hy lễ giao ước mới và vĩnh cửu ký kết bằng máu của Chúa Kitô đổ ra cho mọi người được tha tội (x. Thông điệp Giáo Hội từ Thánh Thể [Ecclesia de Eucharistia], số 13).
  2. Cử hành Mầu nhiệm hy tế thập giá Chúa Giêsu
  3. Cả cuộc đời Chúa Giêsu làHy tế. Nơi Chúa Giêsu, mọi sự đều là của lễ, từ lời giảng dạy đến các phép lạ, từ những cử chỉ và lời nói thông thường cho đến sự hy sinh lớn lao nhất là hy sinh mạng sống. Mọi sự đều biểu lộ tình yêu dâng hiến trọn vẹn cho Chúa Cha. Sự dâng hiến của Chúa Giêsu được hoàn tất bằng cái chết và trong cái chết tự nguyện trên thập giá.

Giáo Hội luôn coi cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một hy tế. Hy tế ấy khác với hy tế Cựu Ước, vì hoàn toàn là hy tế tình yêu, là sự dâng hiến bản thân. Chúa Giêsu không dâng hiến cho Chúa Cha điều gì bên ngoài, mà là chính bản thân mình (x. Dt 9,11-14).

Trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh Thể; Người đọc lời truyền phép, làm cho bánh và rượu trở nên Mình và Máu Người (x. 1Cr 11,23); Người trao ban cho Giáo Hội như bảo chứng tình yêu vô biên. Đó là hy tế Giao Ước mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và Dân Người, được ký kết bằng máu Chiên Vượt Qua của chúng ta, là chính Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Thiết lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đồng thời thiết lập chức linh mục khi truyền cho nhóm 12 tông đồ: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (Lc 22,19; 1 Cr 11,25). Nhờ các giám mục kế vị các tông đồ và các linh mục là những cộng sự viên của các ngài, Giáo Hội có thể cử hành Mầu nhiệm Thánh Thể mọi ngày cho đến tận thế.

  1. Cử hành Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa
  2. Cử hành Thánh lễ là cử hành Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô, là loan truyền việc Chúa chịu chết, và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến (x. Nghi thức Thánh lễ). Chúa Giêsu Kitô vượt qua thế gian đi về cùng Chúa Cha (x. Ga 16,17), nhưng cũng vượt qua thế gian để đến với chúng ta : “Thầy ra đi và đến cùng anh em” (Ga 14,28). Vượt qua thế gian, như vậy, Người ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Chúa Giêsu đi về cùng Chúa Cha nhưng vẫn ở giữa chúng ta. Mỗi lần cử hành Thánh lễ, cùng với Giáo Hội và trong Giáo Hội, chúng ta đón Chúa đến. Vì Người đến, Người mới hiện diện ở giữa chúng ta, và do đó chúng ta sung sướng nhận ra Người, gặp gỡ và tiếp xúc với Người, rồi đi về cùng Chúa Cha với Người. Người hiện diện, nên chúng ta thờ lạy, chiêm ngắm, nhưng quan trọng hơn cả là đón tiếp Người và cùng vượt qua với Người.

Cử hành Thánh lễ là cử hành Mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa trong hiện tại của ngày hôm nay. Trong Thông điệp Giáo Hội từ Thánh Thể, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết: “Nền tảng và nguồn gốc của Giáo Hội, chính là tất cả Tam Nhật Vượt Qua” (Triduum Paschale), nhưng Tam Nhật này như được chứa đựng, được thực hiện trước và cô đọng lại mãi mãi trong hồng ân Thánh Thể. Trong hồng ân này, Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội nhiệm vụ hiện tại hoá không ngừng Mầu nhiệm Vượt Qua (x. số 5).

  1. Cử hành Mầu nhiệm Hiệp Thông
  2. Bí tích Thánh Thể còn được gọi là Bàn Tiệc của Chúa, Bữa ăn tối của Chúa, Bánh bẻ ra, Bẻ Bánh…, tất cả những cách nói ấy diễn tả một khía cạnh quan trọng của Mầu nhiệm Thánh Thể là hiệp thông.

Hiệp thông là thông phần: “Chén chúc tụng ta cầm lên mà tạ ơn, lại không phải là thông phần Máu Đức Kitô sao? Bánh ta bẻ, lại không phải là thông phần Thân Mình Đức Kitô sao?” (1 Cr 10,16).

Giáo Hội được gọi là Thân Mình Chúa Kitô, vì thông phần cùng một Bánh. Các chi thể làm thành một Nhiệm Thể vì sống bằng cùng một sự sống là chính Chúa Kitô. Bánh Thánh Thể chứa đựng kho tàng quý giá nhất của Giáo Hội là Chúa Kitô. Chúa Kitô là sự sống và là lẽ sống; là niềm vui và là hạnh phúc; là tình yêu và là sức mạnh của Giáo Hội. Giáo Hội chỉ ước mong nên một với Chúa. Chính trong Bí tích Thánh Thể và nhờ Bí tích Thánh Thể, Giáo Hội nên một với Chúa.

Không có sự kết hiệp nào mật thiết cho bằng thông phần vào Mình Máu Thánh Chúa Kitô như lời Người dạy : « Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy» (Ga 6,56). Mỗi Kitô hữu đều mang Chúa Kitô trong mình, nhờ thông phần Mình và Máu Thánh Chúa. Sự sống của Chúa Kitô là sự sống lãnh nhận từ Chúa Cha (x. Ga 6,57) nên cũng là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Trong cuộc lữ hành trần thế, Giáo Hội được kêu mời gìn giữ và phát triển mối hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi và giữa các tín hữu với nhau. Hướng về mục đích đó, Giáo Hội luôn có sẵn Lời Chúa và các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, nhờ đó mà Giáo Hội luôn sống động và lớn mạnh, đồng thời nơi đó Giáo Hội tự diễn tả chính mình (x. Thông điệp Giáo Hội từ Thánh Thể, số 34).

PHẦN II : GIÁO HỘI SỐNG MẦU NHIỆM THÁNH THỂ

Anh chị em thân mến,

  1. Hiệp thông với Giáo Hội toàn cầu và với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, lòng mong ước và mối bận tâm của chúng tôi trong Thư Chung này là làm thế nào để Mầu nhiệm Thánh Thể được toả sáng trong đời sống của Giáo Hội tại Việt Nam hôm nay. Chúng ta quyết tâm trở về cội nguồn của mọi sinh hoạt Giáo Hội, là Mầu nhiệm Thánh Thể, để kín múc sinh lực cho một sự dấn thân quảng đại, và để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng trong thiên niên kỷ mới. Nơi Thánh Thể, chính bản thân Chúa Kitô hiện diện đích thực cho Giáo Hội và cho thế giới. Vì thế, Giáo Hội luôn có Chúa Giêsu ở cùng, và luôn sống bằng sự sống của Chúa. Nhờ sống và kết hợp với Mình và Máu Thánh Chúa, Giáo Hội là Nhiệm Thể của Chúa, là dấu chỉ khả tín và hữu hiệu của ơn cứu độ.
  2. Giáo Hội sống hiệp thông
  3. Nhờ Bí tích Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào Giáo Hội và thông phần Mầu nhiệm Vượt Qua mà chúng ta cử hành khi dâng thánh lễ. Những ai thông phần Mình và Máu Chúa Kitô sẽ trở thành chi thể của Thân Mình mầu nhiệm Chúa là Giáo Hội: “Và khi chúng con được Mình và Máu Con Cha bổ dưỡng, được đầy tràn Thánh Thần của Người, xin cho chúng con trở nên một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô” (Kinh nguyện Thánh Thể III).

Hiệp thông Thánh Thể đưa đến xây dựng sự hợp nhất trong Giáo Hội như lời thư của Thánh Phaolô: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,17). Chúng ta là một và trở nên một trong Chúa Kitô. Đó là điều Người khẩn cầu cùng Chúa Cha: “Xin cho họ nên một như Chúng Ta là một” (Ga 17,22b). Trong một thế giới đầy chia rẽ, bạo lực, hận thù và loại trừ nhau, Giáo Hội phải là bảo chứng cho bình an và hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa muốn ban cho mọi người.

Sẽ không bao giờ tránh hết được những bất hoà lớn nhỏ ở mọi cấp bậc, nhưng nếp sống của Giáo Hội vẫn luôn phản ánh sự hiệp thông Ba Ngôi mà cả nhân loại được mời gọi thông phần, một sự hiệp thông đầy tình yêu và sự sống. Giáo Hội là gia đình Thiên Chúa tại trần gian. Gia đình ấy không những nề nếp, mà còn phải là mái nhà hiệp thông ấm cúng, giàu tình yêu thương, nơi đó mọi người đều được thăng tiến, vì được nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc. Những người con kém may mắn, vì bệnh tật, vì những giới hạn tinh thần và vật chất được quan tâm chăm sóc cách đặc biệt hơn. Để Giáo Hội đích thực là một cộng đồng hiệp thông, mọi người hãy cố gắng duy trì nguyên tắc “hợp nhất trong những điều thiết yếu, tự do trong những điều chưa chắc chắn, bác ái trong tất cả mọi sự” (x. Gioan XXIII, Tđ Ad Petri Cathedram, 29-6-1956; AAS 55 (1959), tr.513).

  1. Giáo Hội sống tình yêu tự hiến
  2. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhiều lần nói đến nền văn minh tình thương và ao ước chúng ta góp phần xây dựng nền văn minh ấy. Nhân loại không thể tồn tại nếu không xây dựng được một nền văn minh tình thương. Trong thế giới hôm nay, người ta tranh đua về mọi mặt; sự tranh đua này làm cho thế giới tiến bộ không ngừng, đồng thời cũng chất chứa mối nguy cơ tan vỡ, nếu không kèm theo việc thi đua yêu mến.

Một xã hội muốn được lành mạnh, phải thi đua làm việc lành phúc đức để không ngừng vươn lên về mặt đạo đức. Nhưng thực tế cho thấy nhiều người đang chạy theo những mãnh lực sự chết, huỷ hoại sự sống vì những lợi ích riêng tư, hoặc vì trào lưu tự do luyến ái không lành mạnh. Do đó, Giáo Hội phải là trường học yêu thương, trường học của Chúa Thánh Thần, trong đó tình yêu và sự sống là những giá trị chính yếu.

Mầu nhiệm Thánh Thể làm nên một Giáo Hội biết yêu thương, vì đã học yêu thương, đã không ngừng cử hành mầu nhiệm tình yêu sâu thẳm nhất. Giáo Hội được Thiên Chúa yêu thương và sống nhờ tình yêu của Thiên Chúa. Khía cạnh mà Giáo Hội kinh nghiệm nhiều hơn cả là tình yêu tự hiến của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô, vì Giáo Hội không ngừng đón nhận và sống bằng sự tự hiến ấy. Giáo Hội sống bằng Thân Mình bị nộp của Chúa Giêsu, bằng Máu của Chúa đổ ra cho mọi người được tha tội, bằng Thần Khí hằng hữu đã thúc đẩy Chúa Kitô tự hiến mình làm lễ hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa (x. Dt 9,14).

Giống như tấm bánh bẻ ra để xây dựng một thế giới mới, Giáo Hội tự hiến trở nên lương thực bồi bổ cho cộng đồng nhân loại mỗi ngày càng thêm lớn mạnh. Dù bên ngoài, nhiều người còn dửng dưng với Giáo Hội, Giáo Hội vẫn không ngừng tự hiến như Chúa Giêsu đã hiến mình cho Giáo Hội.

Nếp sống tự hiến ấy của Giáo Hội thể hiện rõ nét nơi những người biết dâng hiến đời sống, biết quên mình phục vụ Thiên Chúa và tha nhân.

  1. Giáo Hội sống chia sẻ
  2. Một dấu chỉ sống động mà Giáo Hội không ngừng thực hành ngay từ buổi sơ khai và mãi cho tới khi Chúa trở lại, đó là nghi lễ Bẻ Bánh. Các môn đệ trên đường Emmaus đã nhận ra Chúa Phục Sinh khi Người bẻ bánh với họ. Mọi người trong bàn tiệc chia nhau cùng một tấm bánh; tấm bánh ấy là Thân Mình Đức Kitô được bẻ ra cho mọi người thông phần. Cử chỉ bẻ bánh nói lên nếp sống chia sẻ của Giáo Hội.

Những của cải tinh thần khi được chia sẻ, không bao giờ mất đi, giống như hũ bột không cạn, bình dầu không vơi của bà goá thành Sarepta (x. 1 V 17,14). Của cải vật chất, khi được chia sẻ, thì không còn nguyên vẹn, vì được phân ra nhiều phần để mỗi người đều được hưởng. Các Kitô hữu thời Giáo Hội sơ khai đã sống tinh thần chia sẻ đó cách triệt để: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu” (Cv 2,44-45).

Công đồng Vatican II nhấn mạnh nhiều đến nếp sống chia sẻ của Giáo Hội. Hình ảnh của sự hưởng thụ, ích kỷ là cách đối xử của nhà phú hộ với ông Lazarô nghèo khổ trong Tin mừng Luca (x. Lc 16,19-31). Còn hình ảnh của sự chia sẻ là năm chiếc bánh và hai con cá nuôi hơn năm ngàn người ăn (x. Ga 6,1-15); rõ ràng đây cũng là hình ảnh của Mầu nhiệm Thánh Thể.

Chúng ta hãy mặc lấy tinh thần đồng cảm và chia sẻ trong lòng Giáo Hội. Chia sẻ là một hành vi bác ái thể hiện tình huynh đệ Kitô giáo. Các giáo phận, các giáo xứ hãy chia sẻ với nhau và cho nhau; các gia đình trong giáo xứ và các cá nhân hãy quan tâm đến nhau. Trước hết, đừng ngại chia sẻ với nhau những của cải tinh thần. Giáo Hội Công giáo có một gia sản hai ngàn năm cần được khai thác và chia sẻ. Trong Giáo Hội, chúng ta cũng phải biết chia sẻ với nhau các công việc mục vụ tông đồ. Chúa Giêsu đã kêu gọi mọi người vào làm vườn nho cho Chúa, không loại trừ người đến vào giờ chót. Kế đến, đừng ngại chia sẻ của cải vật chất cho nhau để làm việc chung, để giúp đỡ những người hoạn nạn yếu đau, đặc biệt những người nghèo, để Giáo Hội thực sự trở thành Giáo Hội của người nghèo và cho người nghèo.

Sự chia sẻ của chúng ta không chỉ dừng lại nội bộ, nhưng còn hướng ra bên ngoài Giáo Hội. Ý thức sự đa dạng của các nền văn hoá và các tôn giáo, chúng ta sẵn sàng chia sẻ các kinh nghiệm tôn giáo của mình, và nên có tinh thần cởi mở đối với các tôn giáo bạn, tích cực cộng tác với tín đồ các tôn giáo, với những người thiện chí trong công việc từ thiện và bác ái xã hội.

PHẦN III: TÔN SÙNG VÀ YÊU MẾN THÁNH THỂ

  1. Tôn thờ Chúa Giêsu Kitô trong bí tích Thánh Thể
  2. Trong Thông điệp Giáo Hội từ Thánh Thể, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chia sẻ với chúng ta kinh nghiệm cá nhân của ngài về những lần trò truyện thân mật với Chúa Giêsu Thánh Thể, những lần tôn thờ trong thinh lặng đầy lòng yêu mến và những ân huệ ngài nhận được từ sự tôn sùng này: “Tôi đã múc lấy từ đó sức mạnh, an ủi và sự nâng đỡ” (x. số 25).

Lòng tôn sùng Thánh Thể giúp chúng ta nhận ra tình yêu cao cả của Đấng thí mạng sống mình vì bạn hữu, Đấng yêu mến mỗi người chúng ta đến cùng (x. Ga 13,1). Sự tôn thờ của chúng ta là lời đáp trả trọn nghĩa với Tình Yêu hy sinh cho đến chết và chết trên thập giá (x. Pl 2,8); là cách chúng ta diễn tả lòng tri ân và ngưỡng mộ Đấng đã yêu mến và thí mạng vì chúng ta (x. Gl 2,20).

Khi tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng tự nhận mình từ Chúa Cha mà đến và gắn bó với Chúa Cha bằng tất cả tâm hồn, thể xác và trái tim, chúng ta học cách sống để trở thành con cái Thiên Chúa nhờ Thần Khí nghĩa tử (x. Gl 4,6). Khi tôn thờ Chúa Giêsu, Đấng phó nộp mạng sống mình cho loài người và đã được Chúa Cha cho sống lại từ cõi chết, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, chúng ta nhận biết tình thương của Chúa Kitô là tình thương vượt quá sự hiểu biết (x. Ep 3,19).

Khi tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh rượu, hoa quả của trái đất, chúng ta ý thức mình không phải là chủ và sở hữu vạn vật, để biết tôn trọng môi trường sống mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh rượu, thành quả công lao của con người, mỗi người chúng ta được mời gọi cộng tác vào công trình cứu thế và góp phần làm cho Nước Thiên Chúa mau đến.

  1. Thánh Thể với các thành phần dân Chúa
  2. Mọi thành phần Dân Chúa được mời gọi sống Mầu nhiệm Thánh Thể. Chức linh mục thừa tác phát xuất từ Thánh Thể và hướng về Thánh Thể. Là những người quản lý các mầu nhiệm Thánh, các linh mục phải nên chứng tá đặc biệt về đức tin, lòng sùng kính và yêu mến đối với Mầu nhiệm cực trọng này. Điều đó phải biểu lộ rõ nét khi các ngài cử hành Thánh lễ, cầu nguyện trước Thánh Thể và đem Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân. Việc tôn sùng Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch phong phú cho cuộc đời và sứ vụ linh mục. Các tu sĩ, những người bước theo Chúa Kitô trên con đường hoàn thiện, qua những lời khuyên Phúc Âm, sẽ khám phá rõ nét hơn ơn gọi của mình, là tận hiến cho Chúa và tha nhân bằng trái tim trọn vẹn khi gắn bó hiến lễ đời mình với hy lễ của Đức Kitô trong Mầu nhiệm Thánh Thể.

Anh chị em giáo dân, những người sống và làm việc trong mọi lĩnh vực trần thế, có sứ mạng thánh hoá trần gian, sẽ nhận được sức mạnh cần thiết khi tổ chức đời mình xoay quanh Mầu nhiệm Thánh Thể như tham dự trọn vẹn Thánh lễ Chúa nhật, đưa Thánh lễ vào đời sống, năng tìm đến Chúa Giêsu Thánh Thể qua việc viếng Thánh Thể và rước lễ thiêng liêng. Các gia đình đang phải vất vả vật lộn với cuộc sống sẽ tìm được niềm an ủi, sức mạnh nâng đỡ nơi Chúa Kitô Thánh Thể vì chính Người đã nói: “Hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,29). Các bạn trẻ sẽ gặp được nơi Mầu nhiệm Thánh Thể ánh sáng cho những lựa chọn dấn thân và niềm hy vọng cho bước đường tương lai. Thiếu nhi đến với Bí tích Thánh Thể sẽ được tình yêu Chúa Kitô ấp ủ để lớn lên trong hồng ân, góp phần xây dựng Giáo hội và xã hội. Đối với các anh chị em đang âm thầm hiệp thông những đau khổ đời mình vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, Thánh Thể Chúa không những là khuôn mẫu tự hiến, mà còn là nguồn lực phong phú cho cuộc sống tông đồ. Riêng đối với các anh chị em vì hoàn cảnh sống xa quê nhà, Thánh Thể Chúa sẽ là mái ấm, là quê hương, là tình thương, là ánh sáng, giúp vượt qua những khó khăn đời viễn xứ.

  1. Một vài đề nghị thực hành
  2. Để Năm Thánh Thể sinh nhiều hoa trái trong lòng Giáo Hội tại Việt Nam và trong đời sống đạo của anh chị em, chúng tôi đề nghị một số việc làm cụ thể sau đây:

Mọi thành phần Dân Chúa hãy cố gắng học hỏi Thông điệp Giáo Hội từ Thánh Thể của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.

Các cộng đoàn dòng tu, các chủng viện, cũng như mọi giáo xứ có dịp duyệt lại cách cử hành Phụng vụ của mình, và nỗ lực cử hành Thánh Lễ cho thật trang nghiêm, sốt sắng, đúng theo nghi thức phụng vụ, lưu tâm đến Văn kiện Bí tích Cứu chuộc (Redemptionis sacramentum) do Bộ Phượng Tự của Toà Thánh ban hành. Cũng nên chú trọng đến việc gìn giữ nơi thánh và vật dụng Thánh cho sạch đẹp, xứng đáng để tôn vinh Thiên Chúa.

Nhà thờ nào có điều kiện, nên dành một nơi riêng để chầu Mình Thánh, cho những ai muốn viếng Mình Thánh bất cứ lúc nào, hoặc muốn cầu nguyện riêng trong thinh lặng trước Mình Thánh. Làm được như vậy, chúng ta có thể biến nhà thờ giáo xứ thành nơi cầu nguyện thật sự như lòng Chúa mong ước: “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện” (Mt 21,13).

Riêng về ngày Lễ Mình Máu Thánh Chúa năm Thánh Thể này, các giáo phận, các giáo xứ, tuỳ điều kiện và hoàn cảnh, hãy tổ chức long trọng đặc biệt hơn mọi năm. Nên tổ chức kiệu Mình Thánh Chúa trọng thể, đặt Mình Thánh Chúa cho giáo dân chầu cả ngày. Ngoài những thánh lễ, nên tổ chức những phiên chầu được chuẩn bị thật kỹ lưỡng.

Cùng với Giáo Hội toàn cầu, Giáo hội Việt Nam sẽ khởi đầu Năm Thánh Thể ngày 10-10-2004, cũng là ngày khai mạc Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 48; và sẽ kết thúc Năm Thánh Thể ngày 29-10-2005, cũng là ngày bế mạc Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới lần XI về Mầu nhiệm Thánh Thể.

Trong dịp Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần này, mỗi nơi nên có những cử hành Thánh Thể đặc biệt để biểu lộ tinh thần hiệp thông với Giáo Hội.

KẾT LUẬN

Anh chị em thân mến,

  1. Ước mong mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo Hội tại Việt Nam đều tích cực thắp sáng lên niềm tin Thánh Thể, hâm nóng thêm lòng yêu mến Thánh Thể, khơi dậy niềm hy vọng hồng phúc nơi mọi người.

Ước chi mỗi Kitô hữu đều nỗ lực sống mầu nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm tình yêu và sự sống, là ánh sáng chiếu soi cho thế giới hôm nay còn nhiều bóng tối.

Nguyện xin Chúa Thánh Thần nối kết chúng ta với Chúa Kitô Thánh Thể và cho chúng ta được nên một với nhau trong tình yêu và chân lý.

Nguyện xin Đức Mẹ La Vang dạy chúng ta biết chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể. Xin các Thánh Tử đạo Việt Nam cho chúng ta có được lòng yêu mến Thánh Thể như các ngài.

Xin cho lòng mến yêu Thánh Thể làm cho Giáo Hội tại Việt Nam được toả sáng, nhờ đó càng ngày càng có thêm nhiều người nhận ra khuôn mặt khả ái của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của toàn thể nhân loại.

Làm tại Hà Nội, ngày 1 tháng 10 năm 2004

Tổng Thư ký HĐGMVN                                        Chủ tịch HĐGMVN

           (đã ký)                                                          (đã ký)

+ Phêrô Nguyễn Soạn                                   + Phêrô Nguyễn Văn Hòa

Read More
28Tháng Ba
2020

Thư Chung năm 2001 của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam: Để họ được sống và sống dồi dào (Ga 10,10)

28/03/2020
Anmai, CSsR
HĐGM Việt Nam, Thư chung
0
THƯ CHUNG 2001 
 
ĐỂ HỌ ĐƯỢC SỐNG VÀ SỐNG DỒI DÀO 
(Ga 10,10)
Anh em linh mục,
 
Anh chị em tu sĩ và giáo dân rất thân mến,
 
1. Anh em Giám mục chúng tôi họp nhau tại Thủ đô Hà Nội, để cùng nhìn lại đời sống Hội Thánh trong những thập niên cuối của thế kỷ vừa qua và suy nghĩ về con đường chúng ta cùng tiến bước trong thiên niên kỷ mới. Chúng tôi xin gửi tới toàn thể anh chị em lời chào thân ái “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Đức Giêsu Kitô ban cho anh chị em ân sủng và bình an” (Ep 1,2).
 
Đáp lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông thư Khởi đầu Ngàn năm thứ ba, chúng tôi đã cùng nhau suy nghĩ để “tìm những sáng kiến mục vụ phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu” (Tông thư Khởi đầu Ngàn năm thứ ba, số 29) của Hội Thánh Việt Nam trong giai đoạn mới.
 
I. Bối cảnh
 
2. Nhìn lại 21 năm qua (1980 – 2001), dưới ánh sáng Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, chúng tôi vui mừng tạ ơn Thiên Chúa Cha vì yêu thương đã ban Thánh Thần Sự Sống đến hoạt động không ngừng trên chúng tôi cũng như trên anh chị em, giúp chúng ta sống đức tin trong từng giai đoạn lịch sử của Đất Nước.
 
Khi Đất Nước mới thống nhất, Thư Chung ngày 1-5-1980 mở ra đường hướng “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc, xây dựng một nếp sống và một cách diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc”, nhằm tạo điều kiện cho hạt giống Tin Mừng Chúa Kitô tiếp tục phát triển và đơm bông kết trái trên thửa đất quê hương chúng ta.
 
Lúc Đất Nước chuyển mình đi vào nền kinh tế thị trường, Thư Chung ngày 19-10-1992 nêu lên những vấn đề mà giai đoạn lịch sử mới đưa tới cho đời sống đức tin trong gia đình, trong xã hội, đồng thời nhắc nhở anh chị em củng cố lòng đạo theo truyền thống đạo đức của Hội Thánh và văn hoá của dân tộc.
 
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, đồng thời nhân dịp kết thúc Thượng Hội Đồng Giám mục Á châu, Thư Chung ngày 17-10-1998 nêu lên những vấn đề mới đặt ra trong các lĩnh vực của đời sống đức tin, gia đình, xã hội, đặc biệt đối với các tầng lớp trí thức, lao động, nông dân, di dân, giới trẻ, nhằm giúp mọi người sống Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Đấng là Chân Lý tròn đầy và là Sự Sống viên mãn.
 
Nhân dịp Năm Thánh 2000 và kỷ niệm một năm ban hành Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á, chúng tôi đã nhắc nhở anh chị em về sứ mạng “sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng”, nhằm giới thiệu Đức Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống cho mọi người và góp phần xây dựng nền văn minh tình thương.
 
3. Chúng tôi vui mừng cảm tạ Thiên Chúa vì mọi thành phần Dân Chúa đã tích cực góp phần củng cố đời sống hiệp thông và hợp nhất trong Hội Thánh, cũng như đã nỗ lực xây dựng Đất Nước, phát triển xã hội, bảo vệ gia đình và thăng tiến con người.
 
Chúng tôi ghi nhận sự hợp tác của anh chị em giáo dân. Nhờ được củng cố và đào sâu đức tin qua việc học hỏi và sống Lời Chúa cũng như nỗ lực canh tân đời sống, anh chị em đã quảng đại chia sẻ vật chất và tinh thần cho các điểm truyền giáo và có mặt trong mọi lĩnh vực mà xã hội cho phép: tích cực hoà nhập vào công cuộc phát triển Đất Nước, giao hảo với các tôn giáo cũng như đồng bào, hợp tác với mọi người trong công tác xã hội …
 
4. Chúng tôi đánh giá cao những đóng góp của anh em linh mục và các tu sĩ nam nữ, những người cộng sự đắc lực của chúng tôi. Anh chị em đã có nhiều sáng kiến mục vụ, đồng thời dấn thân phục vụ trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội … đặc biệt đối với người nghèo khổ và bệnh tật. Chúng tôi khuyến khích anh chị em phát huy sáng kiến đóng góp cho xã hội trong những gì phù hợp với ơn gọi và khả năng của mình và không quên trau dồi đời sống tu đức, vì “trong thinh lặng, nêu gương nghèo khó và từ bỏ, thanh khiết và chân thành, quên mình trong vâng phục, tất cả những điều ấy mới trở nên chứng tá hùng hồn” (Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 44).
 
5. Riêng về các Giám mục và Hội đồng Giám mục, chúng tôi, trong suốt hai thập kỷ qua, đã không ngừng đồng hành với anh chị em trong những giai đoạn lịch sử thể hiện qua các Thư chung và mục vụ. Chúng tôi đang cố gắng hoàn chỉnh cơ cấu tổ chức Hội đồng Giám mục với các ban chuyên môn để có thể phục vụ anh chị em cách hữu hiệu hơn. Về lĩnh vực đào tạo giáo dân, dù đã quan tâm nâng cao nhận thức để giáo dân có vai trò tích cực và năng động hơn trong Giáo Hội và xã hội, chúng tôi vẫn chưa thực hiện được như lòng mong ước.
 
6. Vào thời điểm của năm đầu thiên niên kỷ mới này, chúng tôi đã tự hỏi rằng bối cảnh của Đất Nước và của Hội Thánh Việt Nam hiện nay có những đặc điểm nào, để từ đó tìm ra đường hướng mục vụ thích hợp thực thi điều Chúa muốn là “để họ được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Hoàn cảnh đang thay đổi sâu rộng và nhanh chóng do tác động của xu hướng toàn cầu hoá. Chính trong bối cảnh tranh tối tranh sáng này, chúng ta phải sống và loan báo Tin Mừng.
 
7. Trước hết là mặt sáng hoặc tích cực: nếu ngày nay người ta chứng kiến một khát vọng và nỗ lực xây dựng Đất Nước giàu mạnh hơn về phương diện vật chất như công nghiệp hoá, hiện đại hoá …, về phương diện tinh thần như giữ gìn bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, thì người ta cũng ghi nhận rằng con người ngày nay quan tâm đến các vấn đề gia đình và xã hội như xoá đói giảm nghèo, chăm sóc phụ nữ và trẻ em, phát huy hoạt động xã hội của giới trẻ, đồng thời lưu tâm đến các vấn đề ở quy mô lớn hơn như mở rộng các quan hệ quốc tế và hoà nhập vào cộng đồng nhân loại.
8. Tuy nhiên vẫn còn mặt tối hoặc tiêu cực: đó đây trên bình diện quốc gia, mức sống người dân còn thấp, lao động không đủ sống, thất nghiệp …; sự sống chưa được tôn trọng và bảo vệ đúng mức, lại thường xuyên bị đe doạ bởi thiên tai và nạn phá huỷ môi trường, bởi tai nạn giao thông và các tệ nạn như nghiện ngập ma tuý, mãi dâm, HIV-AIDS; sự gian dối có chiều hướng tràn lan trong xã hội như hàng giả, bằng giả, hối lộ và tham nhũng. Ngoài ra, sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo, giữa thành thị và nông thôn ngày càng gia tăng, tạo nên một làn sóng người đổ xô về thành thị. Hơn nữa, sự suy yếu đạo đức trong gia đình ngày càng bôc lộ qua nhiều hiện tượng phổ biến như buôn bán phụ nữ và trẻ em, bạo hành trong gia đình, lạm dụng tình dục trẻ em. Cuối cùng, bối cảnh kinh tế thị trường và cạnh tranh thúc đẩy ngày càng nhiều người chạy theo lợi nhuận bất chấp các giá trị đạo đức khiến nhiều người trẻ bị hụt hẫng khi nhìn về tương lai.
 
Tình trạng xã hội này đặt ra nhiều thách thức. Nếu nền kinh tế thị trường có xu hướng biến tất cả thành hàng hoá, và có nguy cơ lấy đồng tiền làm thước đo mọi sự thì đâu là đường hướng mục vụ của Hội Thánh Việt Nam trong bối cảnh này?
 
II. Đường hướng mục vụ trong bối cảnh mới
 
Yêu thương và phục vụ – Để họ được sống và sống dồi dào (Ga 10,10)
 
9. Đứng trước thực trạng xã hội với những thách đố mới này, Hội Thánh ý thức sứ mạng của mình là tiếp nối sứ mạng yêu thương và phục vụ của Chúa Giêsu.
 
Để yêu thương và phục vụ, trước hết ta phải tiếp tục đường hướng đồng hành với dân tộc, đồng cảm, chia sẻ hy vọng và lo âu của dân tộc trong tiến trình phát triển xã hội và thăng tiến con người. Ta không nhìn những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục như những kẻ đứng ngoài cuộc, nhưng nhận đó là những vấn đề của ta và chủ động góp phần giải quyết, hầu cho mọi người được sống và sống dồi dào. Ta không thể thờ ơ với những chương trình phát triển cũng như tình trạng nghèo đói và những tệ nạn xã hội, bởi vì ta là thành viên của cộng đồng dân tộc với tất cả quyền lợi và nghĩa vụ.
 
10. Trong thế giới hôm nay và trong Hội Thánh toàn cầu, “đối thoại là tên gọi mới của niềm hy vọng” (Thượng Hội đồng tháng 10-2001, Tài liệu làm việc, số 30) bởi vì nó mở cửa cho tương lai. Trên Đất Nước ta, với 54 sắc tộc, với nhiều nền văn hoá, nhiều tín ngưỡng và nhiều tôn giáo khác nhau, với sự phân hoá giàu – nghèo, nông thôn – thành thị ngày càng sâu đậm, đối thoại trở thành yếu tố quyết định của tương lai. Đối thoại để hiểu biết, chấp nhận nhau, tôn trọng và yêu thương nhau, cùng nhau xây dựng tương lai và thăng tiến cuộc sống. Phúc Âm Chúa Giêsu, Giáo huấn Xã Hội của Công đồng Vatican II, Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, càng thôi thúc ta mở rộng lòng mình để đối thoại và chia sẻ niềm hy vọng về Sự Sống Viên Mãn do Đức Kitô Phục Sinh đem tới cho mọi người.
 
Kỳ thực, đối thoại là một phần thiết yếu trong sứ mạng của Hội Thánh, “Vì nó xuất phát từ chính sự đối thoại yêu thương ban ơn cứu độ của Chúa Cha với nhân loại qua Chúa Con và trong quyền năng của Chúa Thánh Thần” (Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 29). Theo khuôn mẫu ấy, cuộc đối thoại phải khởi đi từ trong lòng Hội Thánh, giữa các thành phần Dân Chúa, bằng khiêm tốn lắng nghe, bằng trao đổi yêu thương để trở thành một tiếng nói hy vọng khơi nguồn cho cuộc đối thoại với mọi anh chị em ở những môi trường khác biệt.
 
11. Trước hết phải đối thoại với người nghèo, không chỉ là nghèo về của cải vật chất mà còn nghèo về phẩm giá, về kiến thức, về niềm hy vọng … Không nên coi người nghèo như đối tượng của “việc từ thiện” nhưng như những con người đáng được tôn trọng và cần được lắng nghe.
 
Trong tinh thần này, nên chú ý đến cách cư xử đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Tránh lợi dụng sự đơn sơ thật thà của họ để chiếm đoạt tiền bạc và sản phẩm, nhưng cần đối thoại để hiểu biết, yêu mến, tôn trọng và liên đới, nhằm bảo vệ phẩm giá, quyền lợi của họ.
 
12. Một lớp người mới đang cần được lắng nghe và đối thoại, đó là những người di dân đang gia tăng rất nhanh theo nhịp phát triển kinh tế. Họ như đoàn chiên không người chăn dắt. Họ dễ dàng bị bóc lột sức lao động, bị xô đẩy vào những con đường tội ác hoặc những tệ nạn xã hội. Những người có trách nhiệm trong Hội Thánh cũng như các cộng đồng tín hữu ở mỗi địa phương cần quan tâm phát hiện, tìm hiểu, lắng nghe và nâng đỡ họ. Anh chị em tín hữu di dân cần được đón tiếp vào cộng đồng địa phương và cần được nâng đỡ trong cảnh bơ vơ khốn cùng.
 
13. Trên Đất Nước ta, đa số đồng bào là người có tín ngưỡng và tôn giáo, cần có sự đối thoại để hiểu biết, tôn trọng, yêu thương và cùng nhau thăng tiến cuộc sống của mọi người. Sự đối thoại này trước hết phải diễn ra ngay trong cuộc sống hằng ngày giữa các tín đồ cùng sống trong một thôn xóm, khu phố, qua cách giao tiếp, làm ăn, buôn bán với nhau cũng như chia cơm sẻ áo cho nhau. Tôn giáo phải là nền tảng cho người ta xích lại gần nhau. Ngoài ra, sự gặp gỡ thân tình giữa các vị lãnh đạo tôn giáo các cấp sẽ tác động trên các tín đồ, cổ vũ sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, hợp tác với nhau trong việc phục vụ hạnh phúc của đồng bào.
 
14. Với 54 sắc tộc chung sống trên quê hương thân yêu này, chúng ta có một giải màu văn hoá thật đa dạng và rực rỡ, cần được bảo vệ và phát huy. Hội Thánh đem Tin Mừng đến không phải để thay thế các nền văn hoá, nhưng để giúp cho các nền văn hoá được thăng hoa, đạt tới đỉnh cao của chân thiện mỹ. Điều chúng tôi đã nêu trong Thư Chung năm 1980: “xây dựng một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp hơn với văn hoá dân tộc” cần được tiếp tục thực hiện thông qua con đường đối thoại, bởi vì Phúc Âm phải được công bố cho mọi dân tộc: “Ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Chúa” (Tv 116/117, 1).
 
15. Con đường đối thoại này sẽ giúp chúng ta hợp tác với mọi người thành tâm thiện chí đẩy lùi nền văn hoá của sự chết với lối sống gian dối, áp bức, bất công, bạo lực, phi nhân, bằng cách phát triển mọt xã hội mới với lối sống chân thật, công bằng, tôn trọng sự sống và các quyền con người, đồng thời xây dựng nền văn minh tình thương và hoà bình, như ĐTC Gioan Phaolô II kêu gọi trong Tông thư Khởi đầu Ngàn năm thứ ba.
 
III. Phát huy khả năng thi hành đường hướng mục vụ
 
16. Để có thể thi hành đường hướng mục vụ này, ta cần thực hiện cuộc đổi mới trong nếp nghĩ và trong cách làm, nơi bản thân cũng như nơi cộng đoàn.
 
Đổi mới nếp nghĩ là đổi mới tầm nhìn. Tin Mừng và Giáo huấn xã hội của Hội Thánh là những chuẩn mực cho hành động xây dựng, phát triển và thăng tiến. Từ khi Công đồng Vatican II ban hành Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội trong thế giới hôm nay, giáo huấn của Hội Thánh về con người, về gia đình, về xã hội đã được triển khai sâu rộng qua các Thông điệp, các Tông huấn, nhất là các Tông huấn hậu Thượng hội đồng giám mục. Chúng tôi mong rằng trong chương trình đào tạo linh mục, tu sĩ cũng như giáo dân, các giáo phận và các giáo xứ sẽ chú trọng hơn tới việc học hỏi và áp dụng những giáo huấn này.
 
17. Hội Thánh không ngừng rao giảng rằng con người là đối tượng của Tình Yêu sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa bảo đảm phẩm giá của con người. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi sai Ngôi Lời xuống thế làm người để ở cùng chúng ta (x. Ga 1,14) và Con Thiên Chúa làm người đang tự đồng hoá với những con người nhỏ bé nghèo hèn nhất (x. Mt 25,31-46). Vì thế con người phải là đối tượng phục vụ của mọi chế độ chính trị, xã hội và mọi hoạt động kinh tế: tất cả là để giúp con người sống và sống dồi dào.
 
18. Trên thế giới và ngay trong Đất Nước chúng ta, gia đình đang bị đe doạ bởi nhiều lực huỷ diệt của văn hoá sự chết. Mối đe doạ từ bên trong là lối sống hưởng thụ ích kỷ, là sự hời hợt trong lời cam kết dấn thân. Mối đe doạ từ bên ngoài là nỗi vất vả của đời sống lao động, kinh tế, là sự cuốn hút của những phương tiện truyền thông, là lối sống buông thả đang nhen nhúm trong xã hội. Tất cả những yếu tố bên trong, bên ngoài ấy đang làm cho gia đình trở nên mong manh, đưa đến những hậu quả nặng nề cho các cặp vợ chồng và nhất là cho con cái. Những thống kê chưa đầy đủ về ly dị trong những năm qua cho thấy một tỉ lệ gia tăng đáng sợ.
 
Trong truyền thống dân tộc thì gia đình là rường cột của xã hội. Giáo huấn của Hội Thánh coi gia đình như chiếc nôi của sự sống và như nhà giáo dục đầu tiên (x. Tông huấn Giáo hội tại Châu Á, số 46). Như vậy, ta cần tìm mọi phương thế bảo vệ và củng cố sự bền vững của gia đình, trong đó bậc cao niên cần được chăm lo và trẻ em cần được đùm bọc. Các giáo xứ cần chú trọng đến việc giúp các bạn trẻ chuẩn bị hôn nhân kỹ hơn, bằng cách giúp họ hiểu biết về các phương diện tâm sinh lý, dưỡng nhi, giáo dục, và cần tìm những phương thức đồng hành với các gia đình trẻ để giúp họ vượt qua những khủng hoảng thường xảy ra trong những năm đầu của đời sống hôn nhân. Chúng tôi ước mong mỗi giáo phận có một Văn phòng mục vụ về Hôn nhân và Gia đình, và giữa các giáo phận có sự chia sẻ kinh nghiệm cũng như tài liệu mục vụ. Đó sẽ là bước đầu để tiến tới việc thiết lập một Văn phòng mục vụ gia đình ở cấp Hội đồng Giám mục.
 
19. Nếu Hội Thánh luôn quan niệm xã hội như cộng đồng hiệp thông, liên đới trách nhiệm, phục vụ cho sự sống và phẩm giá con người, thì trong tư cách là thành viên của cộng đoàn Dân Chúa, chẳng những ta không thể thờ ơ với đời sống xã hội và cộng đồng dân cư quanh ta, mà trái lại ta còn cảm thấy được cổ vũ để đảm nhận những vai trò tích cực trong công cuộc xây dựng xã hội. Đã đành, dấn thân trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội là ưu thế của giáo dân, nhưng mỗi giáo phận, giáo xứ cũng cần có chương trình đào tạo chuyên sâu để mỗi tín hữu có thể an tâm hơn khi dấn thân tham gia vào các chương trình phát triển xã hội; và từng giáo dân, nhất là giới trẻ và phụ nữ, cần được thấm nhuần giáo huấn của Hội Thánh liên quan đến con người, gia đình và xã hội.
 
20. Chúng tôi nêu riêng giới trẻ, vì giới trẻ vừa là hiện tại vừa là tương lai của Đất Nước và của Hội Thánh, nhưng truyền thống văn hoá tôn trọng tuổi tác nhiều khi ngăn cản người trẻ đảm nhận trách nhiệm của mình đối với cộng đồng. Giới trẻ ngày nay đang phải đương đầu với nhiều thách đố. Họ cần được trang bị đầy đủ về kiến thức, đạo đức và tinh thần trách nhiệm để dấn thân bảo vệ sự sống và phẩm giá con người.
 
Còn người phụ nữ vốn chiếm hơn nửa dân số Việt Nam, đang cần được thăng tiến trong cộng đồng xã hội cũng như trong cộng đồng Hội Thánh. Thái độ trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại ít nhiều. Di sản Khổng Mạnh về phụ nữ trong văn hoá Việt Nam có nhiều ưu điểm nhưng cũng có nhiều điều bất lợi. Ta cần sàng lọc di sản ấy và vận dụng giáo huấn của Hội Thánh để tìm lại cho người phụ nữ phẩm giá và vai trò xứng đáng (x. Tông huấn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II về Phẩm giá người phụ nữ).
 
21. Ngoài ra, đổi mới bản thân là điều căn bản để có thể yêu thương và phục vụ. Ở đây chúng tôi muốn nói đến đổi mới lòng đạo, đó là nội lực của ta, là lòng tin, cậy, mến được Thiên Chúa ban cho. Lòng đạo đức thật theo Thánh Giacôbê là yêu thương phục vụ người nghèo khổ và giữ mình đừng vướng vào những thói xấu của thời đại (x. Gc 1,27). Thánh Phaolô cũng cho thấy ý Chúa là yêu thương và phục vụ nhau (x. Rm 12,1-2). Lời Chúa, các bí tích và đời sống cầu nguyện là những phương thế hữu hiệu giúp đổi mới bản thân. Chuyên tâm đọc, suy niệm và thực hành Lời Chúa, chuyên cần lĩnh nhận các bí tích một cách sốt sắng, cầu nguyện kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa sẽ thanh luyện ta khỏi thói ích kỷ, đem lại cho ta nguồn sức mạnh để quảng đại phục vụ quên mình theo gương Đức Giêsu Kitô.
 
22. Cuối cùng, việc đổi mới phải lan rộng tới mọi cộng đoàn Hội Thánh, từ giáo phận đến giáo xứ, từ dòng tu đến giới nhóm đoàn thể, sao cho tất cả trở thành những cộng đoàn hiệp thông và hợp nhất, chung sức thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ, đặc biệt đối với người nghèo, người bị bỏ rơi, bị loại trừ. Bài học trang trọng và tha thiết hơn cả mà Chúa Giêsu đã dạy nhiều lần, chính là bài học về khiêm tốn và phục vụ, loại trừ óc địa vị và cục bộ (x. Mc 9,33–10,45 ; Lc 9,46-56 ; 22,24-27).
 
Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, đồng tiền, địa vị, danh vọng đang có xu hướng trở thành cùng đích của cuộc sống và có nguy cơ phá vỡ cả những tương quan thánh thiêng nhất, công cuộc đổi mới mời gọi ta phải làm chứng về sự hiệp thông và hợp nhất mà Chúa Giêsu đem lại nhờ cái chết và sự phục sinh của Người, như Thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Êphêsô: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hợp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” (Ep 4,2-4).
 
Thánh Phaolô còn nói một cách cụ thể hơn trong thư gửi tín hữu Philipphê: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu” (Pl 2,3-4).
 
23. Một lần nữa, trước niềm hy vọng mở ra cho mùa xuân yêu thương và phục vụ trong ngàn năm mới, chúng tôi muốn bày tỏ lòng tri ân và gửi lời chào đến tất cả anh chị em, là những người đang cùng Đức Kitô dấn thân chia sẻ sự sống dồi dào cho mọi người.
 
Chúng ta hãy hướng lòng lên Đức Trinh Nữ Maria như người Mẹ dạy dỗ mẫu gương yêu thương và phục vụ cho sự sống và hạnh phúc của loài người.
 
Mẹ đã đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống để trao cho chúng ta. Mẹ đã mở rộng lòng mình đón nhận ân huệ của Thiên Chúa, tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38).
 
Mẹ đã yêu thương và phục vụ khi vội vã lên đường đi viếng bà Êlisabét. Mẹ không chỉ đem đến cho bà Êlisabét tình chị em và sự giúp đỡ, mà còn đem chính Sự Sống là Con Thiên Chúa nhập thể (x. Lc 1,39-56).
 
Mẹ đã yêu thương và phục vụ ở Cana khi quan tâm đến sự lúng túng vì thiếu rượu của gia đình tân hôn, đã can thiệp để niềm vui của đôi trẻ và khách mời được trọn vẹn (x. Ga 2,1-12).
 
Mẹ đã yêu thương và phục vụ đến cùng khi đứng dưới chân thập giá tham dự vào cuộc hiến tế của Chúa Giêsu, người Con duy nhất của Mẹ, cuộc hiến tế đem lại sự sống vĩnh cửu cho cả nhân loại (x. Ga 19,25-27).
 
Mẹ đã yêu thương và phục vụ khi hiện diện giữa các môn đệ trong Nhà Tiệc Ly để cầu nguyện và chờ đón Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống, do Chúa Giêsu gửi xuống nhằm đổi mới địa cầu và làm cho muôn loài được sống (x. Cv 2).
 
Mẹ vẫn yêu thương và phục vụ khi không ngừng chuyển cầu, nâng đỡ ủi an Hội Thánh qua mọi thời đại. Mẹ đã đến với các tín hữu Việt Nam để an ủi chữa lành và nâng đỡ trong mọi cảnh huống vui buồn của đời sống.
 
Xin Đức Mẹ La Vang tiếp tục dạy dỗ, an ủi và nâng đỡ tất cả chúng ta trên con đường yêu thương và phục vụ để giúp cho mọi người đồng đạo, đồng bào và đồng loại được sống và sống dồi dào.
 
Hà Nội, ngày 22 tháng 09 năm 2001
 
       Tổng Thư ký HĐGMVN                              Chủ tịch HĐGMVN
                (đã ký)                                                    (đã ký)
      + Phêrô Nguyễn Soạn                         + Phê rô Nguyễn Văn Hòa
Read More
28Tháng Ba
2020

Thư Chung năm 1999 của Hội đồng Giám mục Việt Nam

28/03/2020
Anmai, CSsR
HĐGM Việt Nam, Thư chung
0

THƯ CHUNG NĂM 1999 

Nhân dịp Năm Thánh 2000

HÃY VUI LÊN

Kính gởi: Các Linh mục, Tu sĩ, Chủng sinh

và toàn thể Anh Chị Em Giáo Dân

Anh chị em thân mến,

Năm 2000 đang mở ra trước mắt chúng ta viễn tượng về một thế giới mới đầy hy vọng và lo âu. Hy vọng vì những thành tựu khoa học mới đạt được, vì con người ngày càng được tôn trọng, vì những liên hệ quốc tế ngày càng phát triển… Lo âu vì tệ nạn xã hội lan tràn, vì những bùng nổ chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, vì những căn bệnh nan trị đang đe dọa thế giới, vì sự xuống cấp của các chuẩn mực đạo đức…

Để ta có đủ hành trang thiêng liêng, an tâm bước vào thiên niên kỷ mới, Mẹ Hiền Giáo Hội đã chuẩn bị cho ta hưởng một năm tràn trề hồng ân Thiên Chúa. Trước thềm Năm Thánh 2000, chúng tôi, các Giám mục trong cả nước Việt Nam đang họp Hội nghị Thường niên 1999, xin gửi đến anh chị em lời chào chúc: HÃY VUI LÊN ! …

1. TRONG BA NGÔI THIÊN CHÚA

Hãy vui lên, vì nhìn lại 2000 năm qua, ta thấy lịch sử nhân loại là lịch sử của tình yêu và hồng ân. Vũ trụ ngập tràn ơn lành của Thiên Chúa. Đời sống được bao phủ trong tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa lớn lao đến nỗi “đã ban cho ta chính Con Một của Người để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Ơn Cứu độ đến nhờ Đức Giêsu Kitô chịu chết để đền tội cho ta: “Tình yêu cốt ở điều này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội chúng ta.” (1Ga 4,10).

Vì vâng phục và vì yêu thương, Đức Giêsu Kitô đã chấp nhận sống kiếp người phàm. Người đến mở ra một kỷ nguyên mới: Nhân loại được vinh dự đón tiếp Thiên Chúa, xác phàm được mang lấy Thần linh, con người tội lỗi được đón nhận ân sủng.

Đức Giêsu Kitô mang đến một sự sống mới dồi dào phong phú (x. Ga 10,10). Khi trả lại cho con người địa vị làm con Thiên Chúa, Người đã nâng cao phẩm giá con người. Khi ban Thánh Thần, Người cho con người được tham dự vào chính nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc, nguồn mạch niềm vui của chính Thiên Chúa. Sự sống ấy luôn sung mãn. Hạnh phúc ấy luôn đầy tràn. Niềm vui ấy luôn tươi mới.

2. TRONG ĐỨC GIÊSU KITÔ

Hãy vui lên, vì hôm nay Đức Giêsu Kitô vẫn đang đến. Người hiện diện trong từng trang Kinh Thánh. Người đang ngỏ lời qua những biến cố lịch sử. Người đang nhắn nhủ qua những người anh em sống quanh ta. Người đang thì thầm trong sâu thẳm lòng ta.

Người đang đến qua Giáo Hội mà Người đã thiết lập. Qua Giáo Hội, Người tiếp tục hiện diện để cứu độ, chăm sóc, dạy dỗ và ban ơn cho ta.

Người hiện diện nơi những người bé nhỏ, nghèo hèn, cô đơn, bệnh tật, bị khinh miệt, bị loại trừ, sống ngoài lề xã hội (x Mt 25, 40).

Một cách đặc biệt, Người đang đến trong Bí tích Thánh Thể. Qua Bí tích Tình Yêu này, ta được tiếp xúc trực tiếp với Người, vì Người thực sự hiện diện để hiến mình cho ta, để tỏ bày với ta một tình yêu lớn lao, mãnh liệt đến hy sinh mạng sống vì ta. (Ep 5,12).

Trong Năm Thánh, Giáo Hội mời gọi ta hãy siêng năng đến với Bí tích Thánh Thể.

Đến để múc lấy sự sống thần linh trào ra từ trái tim yêu thương bị đâm thâu vì chúng ta. Sự sống ấy tuôn đổ vào tâm hồn ta một niềm vui thanh khiết và một niềm bình an sâu xa.

Đến để kết hiệp với Đức Giêsu Kitô một cách thân mật trọn vẹn: Ta ở trong Người và Người ở trong ta. Sự kết hiệp đem đến cho ta một niềm hạnh phúc vô biên nhưng đồng thời cũng mời gọi ta vào cuộc khổ nạn để cùng được vượt qua với Người.

Đến để hưởng nếm tình yêu của Người, một tình yêu tự hiến, yêu thương, phục vụ, hy sinh đến cùng. Nơi Bí tích Thánh Thể, ta múc lấy niềm vui tự hiến, để rồi đến lượt ta ra đi hiến mình cho tha nhân.

Hãy vui lên vì Người sẽ lại đến trong vinh quang. Người là tương lai của ta, một tương lai huy hoàng và vững chắc. Người là hy vọng, là cùng đích của ta. Ơn cứu độ của ta đạt đến đỉnh điểm nơi Người, khi Người quy tụ muôn loài dưới quyền thủ lãnh của Người. (x. Ep, 1, 3 – 10).

3. SÁM HỐI – GIAO HOÀ – CANH TÂN

Để tâm hồn đón nhận được đầy tràn ơn Chúa trong Năm Thánh, ta cần có một số chuẩn bị.

Việc đầu tiên phải làm là sám hối. Vì trong quá khứ ta đã sai phạm nhiều. Có những lầm lỗi của cá nhân các tín hữu, các tu sĩ , các linh mục, các giám mục. Có những lầm lỗi tập thể của cả Giáo Hội, của từng giáo phận, của mỗi giáo xứ. Có những lầm lỗi cố tình chống lại ơn Chúa, cản trở chương trình của Chúa. Có những lầm lỗi vô tình khiến ta trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa cho bản thân ta và cho mọi người.

Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng là trở về với anh em. Phải hòa giải với anh em vì chính ta đã góp phần gây ra bất công, chia rẽ, bất hòa, khiến anh em lìa xa Chúa và Giáo Hội. Phải hòa giải với anh em vì đó là điều kiện cần thiết để hòa giải với Chúa. (x. Mt 6,14-15). Phải hòa giải với anh em vì đó là ước nguyện của Đức Giêsu Kitô trước khi từ giã cõi trần (x. Ga 17,21)

Sám hối sẽ dẫn đến đổi mới con người, đổi mới cuộc sống. Sám hối càng sâu xa, đổi mới càng mãnh liệt. Với con người mới, ta hân hoan hưởng trọn niềm vui trong tình nghĩa với Thiên Chúa là Cha và với anh em con cùng một Cha trên trời. Với con người mới, ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ, để thanh thản bước vào thiên niên kỷ mới. Với con người mới, ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới với ơn thánh, với tình bác ái huynh đệ, với lòng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục vụ.

4. DÂN CHÚA MỪNG NĂM THÁNH

Các linh mục, tu sĩ và chủng sinh hãy vui lên. Anh chị em được Thiên Chúa mời gọi cách đặc biệt để làm việc trong cánh đồng truyền giáo của thiên niên kỷ thứ III. Thiên Chúa muốn mở đầu thiên niên kỷ bằng một năm hồng ân. Anh chị em hãy tích cực cộng tác với Người bằng cách làm chứng về tình yêu của Người, một tình yêu vô vị lợi, dấn thân, phục vụ, quên mình. Hãy ra đi khắp các nẻo đường đem hồng ân Thiên Chúa đến cho mọi người. Hãy trở nên muối men chịu vùi sâu trong âm thầm, trong hy sinh để làm đẹp cuộc đời. Hãy biến thiên niên kỷ tới thành một thời gian của tình yêu thương, tình đoàn kết, tình bác ái huynh đệ.

Các cụ cao tuổi hãy vui lên, vì một lần nữa quý cụ được diễm phúc đón nhận dồi dào ơn Chúa ban qua Năm Thánh Cứu Độ này. Một lần nữa quý cụ được cảm nghiệm tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Thời gian qua mau nhưng Thiên Chúa luôn bền vững: “Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một” (Dt 13,8). Quý cụ hãy bước vào Năm Thánh hăng hái mạnh dạn, như những chứng nhân về tình yêu trung thành của Thiên Chúa.

Các người cha trong gia đình, hãy vui lên! Vì Thiên Chúa đã ban cho quý ông được vinh dự phản chiếu dung nhan Người trên trần gian. Thiên Chúa là Cha nhân lành, đã muốn ban cho con cái muôn vàn ơn phúc trong Năm Thánh 2000 này – quý ông hãy giúp con cái đón nhận ân phúc của Thiên Chúa, và kiên tâm hướng dẫn con cái bước vào thiên niên kỷ mới trong sự nhận biết và niềm tin yêu đối với Cha trên trời.

Các bà mẹ hãy vui lên, vì Thiên Chúa đã dùng quý bà như chứng tá về tình yêu chăm sóc của Người đối với nhân loại. Tấm lòng từ mẫu, trái tim dịu dàng và sự kiên nhẫn hiền hòa của quý bà đã giúp bao thế hệ trẻ nên người đức hạnh. Trong ân phúc của Năm Thánh 2000, quý bà hãy tích cực cộng tác với Thiên Chúa làm cho thế giới trong thiên niên kỷ tới trở thành một thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người và sự bao dung tha thứ.

Các bạn trẻ hãy vui lên và hãy tin tưởng bước vào thiên niên kỷ mới. Hồng ân của Năm Thánh sẽ làm đẹp tuổi trẻ của các bạn. Đức Kitô chính là tuổi thanh xuân của các bạn. Hãy đến gặp Người để Người đổi mới các bạn. Hãy mở rộng tâm hồn để lắng nghe lời Người. Hãy mở rộng trái tim để Người rót vào một tình yêu mãnh liệt đượm màu vị tha, phục vụ, quên mình. Với tình yêu tươi mới của Đức Kitô, các bạn hãy mạnh dạn bước vào Năm Thánh 2000, để xây dựng một mùa xuân mới cho thế giới, một mùa xuân luôn tươi trẻ vì luôn chan chứa tình yêu.

Các em thiếu nhi hãy vui lên, vì các em là những mầm non được trồng vào thiên niên kỷ mới. Hãy đến lãnh nhận tình yêu thương và ân phúc Thiên Chúa dành riêng cho các em trong Năm Thánh này. Hãy tắm gội trong ơn thánh. Hãy nép mình vào tình yêu Thiên Chúa. Hãy chăm lo học tập và rèn luyện đạo đức, để nên giống như Đức Giêsu bé thơ càng thêm tuổi “càng thêm khôn ngoan, và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và loài người” (Lc 3,52). Như thế, các em sẽ có thể góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp trong ngàn năm đang tới.

Anh chị em đau yếu, khổ cực, buồn phiền, bị bỏ rơi hãy vui lên, vì anh chị em là hình ảnh của Đức Giêsu Kitô trong cuộc khổ nạn. Những đau khổ anh chị em đang phải gánh chịu là hiệp thông với những đau khổ của Đức Giêsu Kitô, đem lại ơn cứu độ cho toàn thế giới. Lời cầu nguyện của anh chị em có sức mạnh đặc biệt để kéo ơn Chúa xuống cho mọi người, và những hy sinh của anh chị em góp phần tích cực vào việc truyền giáo. Anh chị em chính là đối tượng của những ơn lành trong Năm Thánh như lời Kinh Thánh: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).

5. NGỢI KHEN CHÚC TỤNG

Với tâm tình tri ân, chúng ta hãy chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa vì biết bao kỳ công Người đã thực hiện cho chúng ta. Chúc tụng ngợi khen vì kỳ công vĩ đại là Người đã sai Đức Giêsu Kitô đến với nhân loại và đã phục sinh Đức Giêsu Kitô từ trong kẻ chết. Chúc tụng ngợi khen vì chúng ta là những kỳ công của Thiên Chúa, vì Người luôn đổi mới ta, đặc biệt bằng tuôn đổ trên ta hồng ân của Năm Thánh cứu độ này.

6. TRUYỀN GIÁO

Trong niềm hân hoan vì được yêu thương và được cứu độ, ta hãy hăng hái ra đi làm chứng về tình yêu thương của Thiên Chúa.

Hãy đem Tin Mừng đến cho những người nghèo khổ, đem niềm hy vọng đến cho những người thất vọng, đem niềm tin đến cho những người chưa tin, đem niềm vui đến cho những người sầu khổ, đem tình yêu đến cho những người bị loại trừ, đem sự hòa giải đến cho những người đang thù oán, đem sự giải thoát đến cho những người bị mặc cảm, đem sự kính trọng đến cho những người bị khinh khi, đem ơn cứu độ đến cho tất cả mọi người.

7. THỰC HÀNH

Thông thường, khi đề cập đến Năm Thánh, người ta thường nghĩ đến ơn toàn xá. Thực ra ơn toàn xá chỉ là một phần thực hành của Năm Thánh. Theo những quy định của Tòa Thánh, để được hưởng ơn toàn xá, cần phải sạch tội. Nhất là phải có thái độ dứt khoát với mọi quyến luyến tội lỗi. Vì thế, cần phải xưng tội riêng. Có thể xưng tội trước ngày lãnh ân xá một tháng, nhưng chính ngày lãnh ơn toàn xá, phải rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng, như bằng chứng của sự hiệp nhất với Giáo Hội.

Đó là những điều kiện thông thường để được hưởng ơn toàn xá. Tuy nhiên, thường phải làm một việc Hội Thánh chỉ định kèm theo.

Ngày 29/11/1998 Tòa Xá Giải đã công bố những việc làm có thể giúp hưởng ơn toàn xá trong năm thánh. Đó là:

1/ Hành hương: viếng một nhà thờ hay một nơi được chỉ định

Nếu tín hữu viếng nhà thờ Chánh tòa, một nhà thờ hay một nơi Đấng Bản Quyền chỉ định, ở đó họ sốt sắng tham dự thánh lễ hoặc một cử hành phụng vụ hay một việc đạo đức nào đó (như đi Đàng Thánh Giá, chầu Thánh Thể, lần hạt, cầu nguyện), và kết thúc bằng một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng hay một lời kêu cầu dâng lên Đức Mẹ, một kinh Tin Kính hay một công thức tuyên xưng đức tin hợp pháp nào khác.

Nếu có ngăn trở bất khả kháng không thể hành hương được, tín hữu có thể viếng nhà nguyện hoặc nhà thờ tại địa phương của mình.

2/ Việc bác ái tông đồ

Thăm viếng những người đang sống trong cảnh túng nghèo quẫn bách, bệnh tật, tù đày, già cả, cô đơn, khuyết tật… là hành hương về với Đức Kitô (x. Mt 25, 34-36). Việc này có thể thực hiện bất cứ lúc nào, và mỗi lần đều được ơn toàn xá. Nhưng nên nhớ mỗi ngày chỉ có thể lãnh được một ơn toàn xá. Nên nhường những ân xá cho các linh hồn nơi luyện ngục. Đó chính là một việc bác ái đẹp lòng Chúa.

3/ Việc sám hối, hy sinh

+ Những việc sám hối, hy sinh được coi như linh hồn của Năm Toàn Xá. Đó có thể là kiêng khem trọn ngày những gì không cần thiết, hoặc giữ chay theo luật Hội Thánh.

+ Cũng có thể hy sinh bằng cách dùng một số tiền để giúp người nghèo hay đóng góp vào những công trình tôn giáo, xã hội.

+ Dùng thời giờ rảnh rỗi làm những việc có ích lợi cho cộng đồng.

Tất cả những việc ấy đều có thể giúp ta nhận được ơn toàn xá.

8. NOI GƯƠNG ĐỨC MARIA

Hãy vui lên. Lời chào chúc ấy hướng lòng ta về Đức Maria như mẫu gương về việc biết đón nhận ơn Chúa. Hai ngàn năm trước, Đức Maria đã ngoan ngoãn tuân theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, khiêm tốn phục tùng thánh ý Chúa Cha, nên đã đón nhận được tràn đầy ơn phúc và đã được đón nhận chính Đức Giêsu Kitô nguồn mạch mọi ơn phúc. Bước vào Năm Thánh, chúng ta hãy biết noi gương Người, kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu, tìm vâng phục thánh ý Chúa Cha, theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để xứng đáng lãnh nhận những ơn rất phong phú mà Chúa muốn ban cho ta.

Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam giúp chúng ta sống trọn vẹn Năm Thánh cứu độ trong tình yêu mến. Xin các Ngài dâng lời cầu nguyện và các việc lành của chúng ta lên Thiên Chúa.

Kính chúc anh chị em được hưởng trọn vẹn những ơn ích do Năm Thánh đem lại và biết dùng ơn Chúa ban để hăng hái phụng sự Chúa và phục vụ đồng loại.

Nha Trang, ngày 16 tháng 10 năm 1999

           Tổng Thư ký HĐGMVN                                            Chủ tịch HĐGMVN

                       (đã ký)                                                                       (đã ký)

 + Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm                        Hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng

Read More
28Tháng Ba
2020

Thư Chung năm 1998 của Hội đồng Giám mục Việt Nam

28/03/2020
Anmai, CSsR
HĐGM Việt Nam, Thư chung
0

THƯ CHUNG NĂM 1998 

HƯỚNG VỀ NĂM THÁNH 2000

Kính gửi các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các chủng sinh và toàn thể anh chị em giáo dân.

1. Anh chị em thân mến,

Họp nhau trong Chúa Thánh Thần, các Giám mục chúng tôi hân hoan gởi đến anh chị em lời chào hỏi thân tình nhất trong Chúa Kitô, đồng thời cũng gửi đến anh chị em một số thông tin về cuộc Đại Hội thứ bảy (1998) của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN), và về Hội Nghị Thượng Hội Đồng Giám Mục Châu Á (THĐGM/CA). Tiếp đến chúng tôi sẽ triển khai một số điểm trong sứ điệp của THĐGM gửi cho mọi thành phần Dân Chúa tại Châu Á và sau hết để hướng tâm hồn vào việc chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000.

I. THÔNG TIN

A. Về Đại hội thứ 7 của HĐGMVN

2. Đại hội năm nay đã họp tại Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội từ ngày 11 đến ngày 17 tháng 10 năm 1998. Hiện diện có 25 Hồng Y, Tổng Giám mục, Giám mục và 2 linh mục Giám quản; 7 Giám mục vắng mặt vì lý do tuổi tác hay sức khỏe. Đại hội đã diễn ra tốt đẹp và là một thời gian ân sủng đặc biệt cho chúng tôi. Chúng tôi đã cầu xin ánh sáng Chúa Thánh Thần và cảm nhận thật sâu xa tình liên đới với anh chị em.

Trong Đại Hội, chúng tôi đã chia sẻ với nhau đặc biệt về các vấn đề sau đây:

a. Những sinh hoạt mục vụ tại các Giáo phận.

b. Thành quả của THĐGM Châu Á diễn ra tại Roma từ ngày 19-4-1998 đến ngày 14-5-1998.

c. Thành công của Đại hội La Vang và chương trình ngày lễ bế mạc trong năm 1999.

d. Việc chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000.

đ. Cuối cùng chúng tôi đã bầu Ban Thường Vụ mới của HĐGMVN nhiệm kỳ 1998-2001.

B. Về Hội Nghị THĐGM Châu Á

3. Anh chị em đã nghe nhiều về Hội Nghị này. Đây là một biến cố quan trọng cho lục địa Châu Á rộng lớn, vừa đa dạng về tôn giáo, vừa phong phú về văn hóa, nếp sống và phong tục, đồng thời cũng đang phải đối diện với nhiều vấn đề mới phát sinh do sự biến đổi nhanh chóng trong các lãnh vực.

Ở đây chúng tôi chỉ muốn nêu lên mấy nét chính về phần đóng góp của HĐGMVN.

a. Thời gian chuẩn bị Hội nghị, Đức Cha Phaolô Nguyễn văn Hòa đã được mời tham gia Ủy ban trù bị trung ương. HĐGMVN đã gửi một bản góp ý được dư luận thế giới chú ý.

b. Trong Hội nghị, các Giám mục Việt Nam đã trình bày những kinh nghiệm đạt được trong lãnh vực giáo lý, những thực hành mục vụ theo chiều hướng hội nhập văn hóa và đáp ứng các nhu cầu của xã hội. Tựu trung chúng tôi đã nêu lên mấy chủ đề:

1.- Làm sao nói với Thiên Chúa Cha và Hội Thánh trong khung cảnh nền văn hóa của xã hội Việt Nam vốn lấy gia đình làm nền tảng.

2.- Làm sao nhận ra tác động của Chúa Thánh Thần nơi mọi người thành tâm thiện chí, đặc biệt nơi các tôn giáo bạn (x. GH 16).

3.- Làm sao để việc tôn kính ông bà, tổ tiên giúp người ta nhận biết Thiên Chúa, và hiểu rõ hơn về đạo hiếu của người Công giáo Việt Nam.

Chúng tôi cũng đã góp tiếng nói của mình vào trong sứ điệp của THĐ gởi đến mọi thành phần Dân Chúa tại Châu Á.

II. TRIỂN KHAI MỘT SỐ ĐIỂM TRONG SỨ ĐIỆP CỦA THĐGM/CA

Trong bức thư này chúng tôi muốn nêu lên mấy điểm chính yếu của sứ điệp của THĐ và gợi ý để anh chị em ứng dụng vào cuộc sống cụ thể của chúng ta.

4. Vai trò của giáo dân

Hàng giáo dân có một vai trò quan trọng trong Hội Thánh. Có nhiều dấu hiệu chứng tỏ Thánh Thần đang chuẩn bị giáo dân đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong ngàn năm sắp tới. Nhiều cá nhân và đoàn thể tín hữu đang tham gia năng động và hăng say trong công cuộc Phúc âm hóa cũng như xây dựng Hội Thánh tại các địa phương.

Từ thời Hội Thánh sơ khai tại Việt Nam, chính giáo dân Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc linh hoạt đời sống cộng đoàn tín hữu. Lý do không phải vì thiếu linh mục, mà chủ yếu là do người giáo dân đã ý thức về vai trò của mình trong Hội Thánh.

Từ Công Đồng Vatican II đến nay, vai trò của người giáo dân càng ngày càng được khẳng định rõ hơn. Anh chị em hãy nhiệt thành hơn trong việc phục vụ cộng đoàn giáo xứ và giáo dục thanh thiếu niên nên người Kitô hữu chân chính, nhằm xây dựng cộng đoàn giáo xứ thành một gia đình có Thiên Chúa là Cha và tất cả là anh chị em trong Chúa Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần liên kết.

5. Sứ mạng của anh chị em là đem ánh sáng Tin Mừng vào mọi lãnh vực của cuộc sống qua các sinh hoạt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Sứ mạng ấy đòi anh chị em phải tích cực dấn thân trong mọi ngành nghề để xây dựng cộng đồng xã hội với một tâm hồn đầy Chúa Kitô.

Xã hội chúng ta đang bị tấn công bởi nhiều tệ nạn, do tác động của lối sống hưởng thụ và của nạn nghèo đói. Hiện tượng có nhiều người bỏ thôn quê ra thành thị đặt ra nhiều vấn đề, đặc biệt là vấn đề luân lý. Chính anh chị em phải tự bảo vệ mình và con cái, đồng thời giúp người khác tránh khỏi các tệ nạn xã hội và sống xứng phẩm giá con người. Nhờ có mặt trong mọi lãnh vực nên anh chị em mới có thể góp phần bảo vệ môi trường, môi trường thiên nhiên và nhất là môi trường đạo đức.

Chính sự tích cực dấn thân như thế của anh chị em cùng với đồng bào cả nước là cơ sở thực tiễn cho một cuộc đối thoại, có khả năng đưa tới sự hiểu biết, tôn trọng và yêu thương nhau giữa những con người Việt Nam, dù có tín ngưỡng hay không, dù theo tôn giáo này hay tôn giáo khác. Yêu thương và hiệp nhất là đặc điểm của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô và cũng là điểm gặp gỡ sâu xa nhất giữa Tin Mừng và văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa vốn lấy nghĩa đồng bào và đạo hiếu trung làm nền tảng cho đạo đức xã hội.

6. Để chuẩn bị và giúp cho anh chị em dấn thân như thế, anh chị em cần tích cực hợp tác với các linh mục để tổ chức và tham gia các chương trình giáo lý đặc biệt cho từng lứa tuổi, lấy việc chia sẻ kinh nghiệm sống Lời Chúa làm sợi dây liên kết, giúp cảm thông và nâng đỡ nhau.

Hơn nữa, “sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc” (x. Thư chung 1980) vốn thấm nhuần một truyền thống tôn giáo thiên về chiêm niệm, anh chị em cũng được mời gọi khám phá và sống chiều kích chiêm niệm của Chúa Kitô một cách sâu xa hơn. Là môn đệ Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi đi theo Ngài không phải chỉ trong hoạt động mà cả trong chiêm niệm nữa. Chiêm niệm không phải chỉ dành riêng cho các tu sĩ, mà là một chiều kích của ơn gọi Kitô hữu. Chiêm niệm trước hết là đào sâu lòng khao khát Thiên Chúa (x. Tv 41, 2-3). Muốn thế ta hãy lắng nghe và suy niệm Lời Chúa theo gương Mẹ Maria đã ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng (Lc 2,19).

Lòng khao khát Thiên Chúa như thế sẽ là sức mạnh giúp chúng ta sống cuộc sống dương thế, là ánh sáng soi cho chúng ta biết chọn lựa, quyết định trong mọi hoàn cảnh: “Lời Chúa là đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118,105).

7. Vai trò của gia đình

“Gia đình là Hội Thánh tại gia giữa lòng cộng đồng Kitô. Gia đình là trường học đầu tiên. Cha mẹ là những người giáo dục đầu tiên. Sách giáo khoa đầu tiên là những quan hệ trong gia đình, giữa cha mẹ với nhau, giữa cha mẹ và con cái, giữa gia đình này với gia đình khác”. (SĐTHĐGM/CA. Số 5).

Gia đình là Hội Thánh tại gia, là đơn vị căn bản của Hội Thánh. Gia đình là cộng đoàn thờ phượng và sống đạo, là nơi thể hiện và phát triển lòng tin, cậy, mến. Những bài học đầu tiên về cầu nguyện, về mến Chúa yêu người, đều được học và dạy ở dưới mái gia đình.

Việc cầu nguyện trong gia đình và việc kiểm điểm đời sống hằng ngày giúp cho gia đình yêu thương và sống hiệp nhất. Chính bầu khí yêu thương đầm ấm trong gia đình: vợ chồng chung thủy, con cái hiếu thảo, anh chị em hòa thuận, là trường dạy yêu mến. Người ta học biết yêu thương nhờ được yêu thương.

Vậy các gia đình hãy canh tân việc đọc kinh cầu nguyện, đặc biệt dành thời giờ cho việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa như THĐGM/CA nhắc nhở: “Lời Chúa cần có chỗ trung tâm trong đời sống chúng ta và phải nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta. Sách Thánh không phải là một cuốn sách thông thường, nhưng đúng hơn là Tiếng Nói hằng sống của Thiên Chúa hằng sống” (số 5). Chúng tôi khuyến khích việc liên đới giữa các gia đình, nhất là các gia đình trẻ, để giúp nhau vượt qua khó khăn và phát triển đời sống gia đình.

8. Vai trò của phụ nữ

“Một trong những dấu chỉ có ý nghĩa của thời đại chúng ta hôm nay là sự thức tỉnh của ý thức người phụ nữ về phẩm giá của họ và về sự bình đẳng với nam giới” (SĐTHĐGM/CA. số 5).

Trong xã hội Việt Nam, người phụ nữ đã đóng góp rất nhiều, và nhiều khi có vai trò quyết định: quán xuyến mọi việc trong gia đình, nuôi dạy con cái, nhiều người đã có công với cả xã hội và Đất Nước. Nhưng hiện nay vẫn còn tồn tại não trạng “trọng nam khinh nữ”, vẫn còn những tệ nạn làm hạ phẩm giá người phụ nữ, như nạn phá thai và mãi dâm. Trong Hội Thánh, người phụ nữ luôn góp phần trong việc giáo dục con cái và xây dựng cộng đoàn và đã cống hiến những người con ưu tú để phục vụ Hội Thánh: trong đời sống gia đình, đời tu trì và linh mục. Song chúng ta chưa phát huy đủ vai trò của phụ nữ trong cộng đoàn, trong các công tác phục vụ Giáo Hội.

9. Vai trò của giới trẻ

Thượng Hội Đồng Giám Mục về Châu Á đã nói về giới trẻ như sau: “Giới trẻ là tương lai của Châu Á và của Hội Thánh. Nhu cầu hiện nay là Hội Thánh cống hiến cho giới trẻ sự huấn luyện mà họ cần đến… Trong nhiều Giáo Hội địa phương, các bạn trẻ đã chứng tỏ có nhiều khả năng trong công cuộc Phúc âm hóa và chuẩn bị một tương lai tốt đẹp hơn cho Hội Thánh và xã hội” (SĐTHĐGM/CA. số 5).

Dó đó, sự thật hiển nhiên là giới trẻ hôm nay thế nào thì Đất Nước và Hội Thánh Việt Nam ngày mai sẽ như vậy. Bởi thế, chúng tôi xin các bạn trẻ hãy ý thức và đảm nhận vai trò của mình mà xây dựng “ngôi nhà chung tương lai” của nhân loại. Xây dựng ngôi nhà tương lai trước hết là xây dựng chính bản lãnh của chính mình hầu đạt tới mức trưởng thành. Nhờ đó thực thi nghĩa vụ cùng quyền lợi trong tinh thần tự do chân chính và có trách nhiệm cao độ.

Để xây dựng tương lai cho Đất Nước và Hội Thánh, các bạn cần trau dồi đạo đức và trí thức hầu tích cực phục vụ hơn. Các bạn nên nhớ rằng khi cầu tiến trong lãnh vực học thức, thì cũng phải cần kiện toàn trong lãnh vực nghề nghiệp để có thể phục vụ với tinh thần khiêm tốn vô vị lợi. Thời nào cũng cần đến những con người tài đức và trung hiếu, luôn biết coi trọng chữ tín.

Các bạn trẻ miền nông thôn cũng như các bạn trẻ ở thành thị đều cùng có trách nhiệm, tùy theo điều kiện sống đặc thù của mình, mà phát huy bản chất, tài năng và ơn gọi để tham gia việc thăng tiến xã hội về nhiều mặt kinh tế, văn hóa… Vì chính các bạn trẻ mới là chủ đề năng động trong công cuộc xây dựng hòa bình và hạnh phúc. Tông huấn “Kitô hữu giáo dân” (Christifideles laici) đã đánh giá giới trẻ cách xác đáng: “Nhờ sự nhạy bén, giới trẻ nhận thức sâu xa những giá trị về công bình, bất bạo động, hòa bình … Tâm hồn người trẻ biết rộng đón tình huynh đệ, tình bằng hữu và tình liên đới. Giới trẻ biết động viên để cổ võ việc nâng cao phẩm chất cuộc sống và bảo vệ thiên nhiên” (KHGD, số 46).

10. Trách nhiệm của các bạn trẻ thực cao quý và khó khăn, song các bạn vẫn luôn có Đức Kitô, Đấng luôn đồng hành với các bạn. Vì là Kitô hữu, các bạn sẽ đồng hành với Đức Kitô nhờ các hành trang thiêng liêng: đó là các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, bí tích Hòa giải. Thêm vào đó, các bạn trẻ còn được hỗ trợ bởi Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh, một khi các bạn thành tín cầu nguyện và có thiện chí đón nhận những chỉ dẫn của các bậc phụ huynh từng trải kinh nghiệm.

Nói đến việc lắng nghe và hợp tác với các bậc hữu trách trong gia đình và Hội Thánh thì chúng tôi cũng nhận ra mối khó khăn do khoảng cách giữa giới trẻ và lớp người cao tuổi. Đó là những dị biệt về tầm nhận thức, về lối ứng xử, về nguyện vọng giữa các lứa tuổi, khiến các bạn trẻ đôi khi không mấy an tâm. Nhưng với truyền thống vốn biết dung nạp và sẵn có tinh thần hiếu đễ trong nếp sống gia đình Á Đông, các bạn trẻ có thể vận dụng đức mến Kitô giáo của mình để sống hài hòa như lời Thánh Phaolô đã khuyên nhủ sau đây: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 4-7).

11. Về những anh chị em di dân lập nghiệp. “Cần phải chú ý đặc biệt đến những anh chị em lao động di dân” (SĐHĐGM/AC, số 5)

Hiện nay trên Đất Nước chúng ta, việc di dân lập nghiệp ngày càng gia tăng từ Bắc vào Nam, từ tỉnh này sang tỉnh khác, từ nông thôn đổ về thành thị. Hiện tượng này thực sự tạo nên những thách đố, nhất là đối với giới trẻ về các vấn đề luân lý, tình yêu, hôn nhân, gia đình. Họ đạo và các cộng đoàn tín hữu địa phương cần quan tâm giúp đỡ các anh chị em này trong tình yêu thương và tương trợ.

Nói đến trào lưu di dân lập nghiệp, chúng tôi không thể không đề cập đến nơi xuất phát của nó là nông thôn. Trong nỗ lực đô thị hóa và hiện đại hóa đất nước, nông thôn là khu vực còn đang chịu nhiều thiệt thòi về kinh tế, văn hóa, xã hội. Các nước trên đường phát triển đều phải đương đầu với vấn đề này. Chính anh chị em ở nông thôn cần ý thức về điểm này để cùng nhau vươn lên.

12 . Vai trò của giới trí thức

Với anh chị em trí thức đang dấn thân trong lãnh vực khoa học, kỹ thuật, kinh tế, xã hội, y khoa, giáo dục … chúng tôi tự hào về những đóng góp của anh chị em cho xã hội. Chính sự có mặt của anh chị em trong các lãnh vực này là một cách làm chứng cho Thiên Chúa, Đấng tạo thành con người và trao cho sứ mạng quản lý trái đất; đồng thời làm chứng rằng đức tin và khoa học chân chính không mâu thuẫn nhau. Chúng tôi ước mong rằng chính đức tin, đức cậy và đức mến vừa soi sáng vừa thúc đẩy anh chị em dấn thân tích cực hơn nữa để đem khoa học phục vụ sự sống và làm chứng cho Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót hằng muốn cho mọi người được sống và sống dồi dào.

Trong nhiều lãnh vực của cuộc sống, Hội Thánh cần sự đóng góp của anh chị em là những người có nhiều khả năng lãnh hội và suy tư.

13. Đối thoại tôn giáo và hội nhập văn hóa

Công Đồng Vatican II dạy rằng: trong các tôn giáo ngoài Kitô giáo có tiềm ẩn hạt giống Lời Chúa và ánh sáng chân lý. Vậy khi làm chứng tá cho đức tin Kitô giáo, chúng ta hãy tôn trọng các giá trị tinh thần và đạo đức của các tôn giáo bạn. Các thành phần Dân Chúa hãy đi vào con đường đối thoại và hợp tác với các tín đồ các tôn giáo hầu góp phần xây dựng một xã hội công bằng hơn, huynh đệ hơn (NK 2).

Chúng tôi đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hội nhập văn hóa, ngõ hầu Hội Thánh trở thành một dấu chỉ dễ hiểu hơn về thực thể của mình và trở nên một công cụ hữu hiệu hơn cho sứ vụ của mình (SĐTHĐGM/CA số 5)

Hội nhập văn hóa không phải là chạy theo “mốt thời đại”, cũng không phải là hoài cổ, nhưng là tìm ra những điểm gặp gỡ giữa Tin Mừng và hồn dân tộc, để xây dựng một nếp sống diễn tả đức tin ngày càng phù hợp hơn với nền văn hóa dân tộc.

14. Vai trò của các tu sĩ

“Chứng tá của những cộng đoàn đan viện và chiêm niệm là hết sức cần thiết để mạc khải dung mạo đích thực của Chúa Giêsu; cũng thế, đời sống và việc làm của những người tận hiến nam nữ cũng rất cần thiết” (SĐTHĐGM/CA)

Suốt dòng lịch sử gần 400 năm của Hội Thánh tại Việt Nam, các tu sĩ đã đóng góp một phần rất quan trọng trong việc loan báo Tin Mừng. Từ khởi đầu, các thầy giảng và những chi em nữ tu Dòng Mến Thánh Giá đã xuất hiện. Đó là những hoa quả đầu mùa của đời sống thánh hiến càng phong phú và hiện nay như đang nở rộ.

Với các tu sĩ nam nữ, Tông huấn “Đời Sống Thánh Hiến” mời gọi anh chị em đem cả cuộc đời để làm vinh danh Thiên Chúa Ba Ngôi, tỏa ánh vinh quang của Chúa Giêsu Kitô. Chứng tá trước hết là chính đời sống anh chị em. Mọi hoạt động của anh chị em chỉ có ý nghĩa chứng tá khi xuất phát từ sự kết hợp sâu xa với Thiên Chúa Ba Ngôi và biểu lộ chính tình yêu của Thiên Chúa: “Người loan báo Tin Mừng phải là một nhà chiêm niệm trong hoạt động” (SVĐCC số 91).

Xã hội vẫn có những người làm công tác xã hội, giáo dục mà không cần phải là tu sĩ. Do đó, phần cống hiến đặc thù của anh chị em là Đức Kitô và tình yêu của Ngài (x.ĐSTH s.17-22)

Lời khấn nghèo khó nhắc nhở anh chị em theo gương Chúa Giêsu trở nên người nghèo sống giữa người nghèo, vì người nghèo, đặc biệt biết quan tâm đến mọi hình thức nghèo khổ còn đang tồn tại trên đất nước chúng ta.

Các tu sĩ sống đời chiêm niệm, có chức năng “biểu lộ Chúa Giêsu đang cầu nguyện trên núi” (GH, 46). Từ truyền thống xa xưa của tôn giáo, đã ăn sâu vào tâm hồn Việt Nam, đời tu luôn gắn liền với chiêm niệm, biểu lộ lòng khao khát đi sâu vào huyền nhiệm Tuyệt Đối. Đó cũng là nét chung của các dân tộc Châu Á, nên THĐGM/CA đã nói: “Chứng tá của những cộng đoàn đan viện và chiêm niệm hết sức cần thiết để mạc khải dung mạo đích thực của Chúa Giêsu” (s.5).

15. Vai trò của các linh mục

“Những người Kitô hữu tại Châu Á cần có những mục tử sốt sắng, và những vị hướng dẫn thiêng liêng, chứ không phải chỉ thuần túy là những người quản trị hữu hiệu. Mẫu gương cá nhân của những nhà giáo dục có một vai trò quan trọng trong tiến trình huấn luyện” (SDTHDGM/CA, s. 5.).

Anh em là những cộng tác viên thân tín của chúng tôi, cùng chia sẻ trách nhiệm mục vụ với chúng tôi. Chúng ta hãy sống trong tình hiệp nhất. Là những “cộng tác viên của Thiên Chúa” (IT x 3,2) trong công việc chăn dắt đoàn chiên của Chúa và loan báo Tin Mừng, chúng ta phải trở nên “những mục tử như lòng Chúa mong muốn” (x.Gr 3, 15), trước hết bằng cách mang lấy trái tim của Chúa Kitô, Đấng đã “yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5, 25) và cư xử theo lời thánh Phêrô: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã trao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1Pr 5, 2-4).

16. Chúng ta phải lo cho đoàn chiên hiệp nhất, vì Chúa Giêsu đã thí mạng sống để quy tụ đoàn chiên (x. Ga 11, 51-52) và đã tha thiết cầu xin Cha cho đoàn chiên nên một “để cho thế gian nhận biết là chính Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (Ga 17, 23).

Là người của hiệp nhất, chúng ta phải cổ võ sự hòa hợp của tín hữu với cộng đồng dân cư, không phân biệt tôn giáo , sắc tộc. Đó cũng là một mối phúc: “Ai làm cho người hòa thuận ấy là phúc thật”.

17. Chúng ta hãy khơi dậy và đón nhận sự hợp tác của giáo dân trong việc phục vụ cộng đoàn Dân Chúa, hãy cổ võ sự thăng tiến phụ nữ trong xã hội và Hội Thánh, tạo điều kiện cho họ tham gia vào việc điều hành và linh hoạt đời sống của họ đạo.

Hãy lấy lòng yêu mến mà gần gũi, cảm thông giới trẻ, giúp họ nâng cao trình độ văn hóa và trưởng thành trong đức tin để có thể giúp họ sống quảng đại, biết phục vụ mọi người và tham gia tích cực vào các sinh hoạt trong họ đạo.

Trách nhiệm mục tử đòi chúng ta quan tâm đến các gia đình trẻ, giúp họ liên đới với nhau để vượt qua thử thách và trở nên những gia đình Kitô hữu đích thật.

Chúng ta phải quan tâm cổ võ và nuôi dưỡng ơn gọi tu sĩ và linh mục để đoàn chiên luôn có người hiến thân phục vụ.

18. Anh em hãy đặc biệt quan tâm đến người nghèo, đến tình trạng nông thôn để giúp phát triển và nâng cao đời sống về mọi mặt. Anh em hãy nhớ lại điều các tông đồ dặn nhau khi phân công để lo cho người gốc Do Thái và người gốc dân ngoại: “Chỉ có điều này là chúng tôi phải nhớ đến những người túng thiếu…” (Gl 2,10). Quan tâm đến người nghèo là đặc điểm của Hội Thánh và của các mục tử kế thừa công việc của các tông đồ, vì Chúa Giêsu đã được “xức dầu tấn phong để loan báo Tin Mừng cho người nghèo” (Lc. 4,18). Cách riêng các anh em đang phục vụ ở nông thôn hãy quan tâm đến tình trạng nghèo đói, lạc hậu của những người chung quanh, đừng thu mình trong phòng thánh.

19. Sau hết, chúng ta phải nhớ mình vừa phải chăn dắt đoàn chiên, vừa phải loan báo Tin Mừng.

Đừng để cho nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên làm cho mình sao lãng việc loan báo Tin Mừng. Nhiệm vụ này là của cả Hội Thánh, nên chúng ta phải khơi dậy trong các tín hữu lòng hăng say loan báo Tin Mừng cho đồng loại, “vì đây là việc phục vụ hàng đầu mà Hội Thánh có thể dành cho mỗi người và toàn thể nhân loại hôm nay, một thế giới đã đạt được những cuộc chinh phục vĩ đại, nhưng dường như đã đánh mất ý nghĩa những thực tại tối hậu và ý nghĩa sự hiện hữu của mình” (SVĐCC, s.3). Đàng khác “sứ vụ loan báo Tin Mừng, canh tân Hội Thánh, tăng cường niềm tin và căn tính người Kitô hữu, đem lại nguồn diệu cảm mới và những động lực mới. Khi đem chia sẻ, thì niềm tin càng vững mạnh” (SVĐCC,s.2). Muốn cho cộng đoàn tín hữu sốt sắng hãy thôi thúc lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng.

III. HƯỚNG VỀ NĂM THÁNH 2000

20. Tiến trình đổi mới tâm hồn

Chúng ta sắp bước vào năm cuối cùng của 3 năm chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000. Chúng ta hãy tích cực đẩy mạnh tiến trình đổi mới tâm hồn theo lời thánh Phaolô: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa; cái gì là tốt , cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2).

Đề tài cho năm 1999, năm cuối của ba năm chuẩn bị, là về Thiên Chúa Cha. Có thể nói trong giáo lý và đời sống của chúng ta, chúng ta chưa nhấn mạnh đủ về Thiên Chúa là Cha. Đây chính là đỉnh cao của mạc khải về Thiên Chúa. “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Ngài không chỉ nói cho biết về Cha của Ngài, nhưng còn cho chúng ta được gọi Cha của Ngài là Cha của chúng ta (x.Ga 20,17), và cho ta thấy Chúa Cha khi chiêm ngắm Ngài (x.Gl 4,6). Chúa Thánh Thần được gởi vào lòng chúng ta để kêu lên: “Abba, Cha ơi” (x.Gl 4,6) và dẫn dắt chúng ta sống làm con Thiên Chúa (x.Rm 8,14).

Trong Cựu Ước, Thiên Chúa đã nhận It-ra-en là “con đầu lòng” (x.Xh 4,22), nhưng chưa bao giờ người ta dám trực tiếp gọi Thiên Chúa là Cha như Chúa Giêsu dạy chúng ta, họ chỉ dám nói: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Cha của chúng con” (Is 63,16; 65,8 ). Chỉ có Con Thiên Chúa đã làm người “vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta” mới có thể cho chúng ta gọi Cha của Người là Cha chúng ta. Đó là đỉnh cao của Tin Mừng, đó là điều an ủi nhất và là niềm vui lớn nhất mà Chúa Giêsu đem cho chúng ta nhờ cái chết và sự phục sinh của Ngài.

Vậy trong năm 1999 này chúng tôi đề nghị anh chị em hãy học hỏi Tin Mừng nhiều hơn để biết về Thiên Chúa Cha như Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta; cách riêng: học hỏi, suy niệm và sống kinh “Lạy Cha”, lời kinh Chúa Giêsu dạy chúng ta và cách thức chúng ta phải sống làm con như thê nào, đồng thời mở rộng lòng chúng ta để đến với mọi người là anh chị em của chúng ta vì mọi người đều được mời gọi làm con Thiên Chúa.

21. Thưa toàn thể anh chị em,

Trong khi chờ đợi Tông huấn của Đức Thánh Cha đúc kết thành qủa của THĐGM/CA, chúng tôi mời gọi anh chị em đón nhận những suy nghĩ trên đây của chúng tôi, để hiệp thông với các Kitô hữu ở Châu Á, tích cực chuẩn bị tiến vào thiên niên kỷ thứ ba với một đức tin mãnh liệt hơn, một lối sống có giá trị chứng tá hơn. Trong lúc mọi người đang huy động nội lực để xây dựng và phát triển, thì nội lực đức tin mạnh mẽ, đức ái năng động và lòng cậy trông vững bền giúp chúng ta đảm nhận trách nhiệm của mình, để cùng với mọi người chống lại sự ác và các tệ nạn xã hội, xây dựng một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc. Bằng cách đó, chúng ta có thể làm chứng về Thiên Chúa là Cha của chúng ta, Đấng yêu thương loài người và muốn cho loài người được hạnh phúc. Chính vì tình yêu ấy, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ và loài người, đã ban Con Một cúa Ngài làm Đấng cứu chuộc loài người và ban Thánh Thần để đổi mới mọi sự. Đó là đức tin của chúng ta.

Chúng tôi cầu chúc anh chị em được đầy tràn “ân sủng của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (2Cr 13,13). Chúng ta cùng nhau hướng về Đức Mẹ La Vang, Mẹ phù hộ các giáo hữu mà Giáo hội Việt Nam chúng ta đang cử hành kỷ niệm 200 năm Người hiện ra. Xin Mẹ đào tạo chúng ta trở nên những con người yêu thương và phục vụ như Chúa Kitô, những con người tràn đầy niềm hy vọng trong Chúa Thánh Thần, hân hoan sống Tin Mừng và nhiệt thành loan báo Tin Mừng.

Làm tại Hà Nội, ngày 17 tháng 10 năm 1998

Đức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng

và Các Giám Mục của anh chị em

Read More

Điều hướng bài viết

  • Previous page
  • Page 1
  • …
  • Page 14
  • Page 15
  • Page 16
  • Next page
Bài viết mới nhất
THƯ GỬI SINH VIÊN, HỌC SINH CÔNG GIÁO NHÂN DỊP MỪNG LỄ CHÚA PHỤC SINH 2025
15/04/2025
Chúa Nhật 2 MC (10 bài chia sẻ Lời Chúa của Lm. Anmai, CSsR
11/03/2025
MÙA CHAY: 7 CÁCH CHIA SẺ SÁM HỐI VÀ CỨU RỠ VỚI NHỮNG TRÁI TIM TRẺ EM – HÀNH TRÌNH CHUYỂN HÓA VÀ GIA TĂNG NIỀM TIN
11/03/2025
Video nổi bật
https://www.youtube.com/watch?v=Td144YDsaGo
Sự kiện sắp tới

There are no upcoming events at this time.

Ủy ban Giáo dục Công giáo – Trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.

Liên hệ

72/12 Trần Quốc Toản, Phường 8, Quận 3, TP.HCM Get Directions

Phone: +84 931 436 131

Email: [email protected]

Ban chuyên môn
  • Ban Tài liệu và Truyền thông
  • Ban Giáo chức
  • Ban Kỹ năng và Giá trị sống
  • Ban Khuyến học
  • Ban Học viện Thần học
  • Ban Hội Học sinh – Sinh viên
Chuyên mục
  • Tin tức
  • Thư chung
  • Giáo dục
  • Phụng vụ
  • Thư viện
Bản quyền © 2020 thuộc về Ủy Ban Giáo Dục HĐGM VN. Design by JT.