2021
QUAY VỀ VỚI CHÚA
QUAY VỀ VỚI CHÚA
Giáo Hội đang và đã bắt đầu bước vào mùa Chay thánh, chúng ta được các bài đọc giúp hướng lòng đến tâm điểm của sứ điệp mùa Chay. Khởi đầu, bài đọc một trích sách ngôn sứ Giô-na dẫn chứng cho chúng ta sự trở lại của dân thành Ni-ni-vê. Lời đáp ca trích dẫn từ thánh vịnh 50 diễn đạt một tâm tình của tội nhân đang hối lỗi và xin Chúa thanh tẩy cõi lòng.
Và kế đến với trang Tin Mừng theo thánh Luca, Chúa Giêsu đưa ra lời răn đe trong việc nhắc lại dấu lạ của ông Giô-na và sự sám hối của thành Ni-ni-vê. Như vậy trong cả ba bài đọc, Lời Chúa xoáy sâu vào sứ điệp canh tân đời sống đức tin của chúng ta.
Ngôn sứ Giô-na là nhân vật chính trong sách ngôn sứ Giô-na. Trong sách ấy, Chúa đã truyền lệnh cho ông đi đến thành phố Ni-ni-vê để cảnh cáo tình trạng tồi tệ của thành ấy. Thay vì đi đến và thực thi lệnh truyền của Chúa, ông đã bỏ trốn.
Ông không thể không thi lệnh truyền của Chúa vì trên đường bỏ trốn tới Tarshish bằng đường thủy, thuyền của ông bị một cơn bão khủng khiếp cản quét đến. Khi dân lái thuyền biết được do ông Giô-na là nguyên do của mọi sự, họ đã hiến tế ông lại cho Thiên Chúa. Ông bị quăng xuống biển và ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Ở trong bụng cá, ông cầu nguyện cùng Chúa và thề hứa với Chúa sẽ cảm tạ và thực thi lệnh truyền của Chúa. Chúa truyền lệnh cho con cá nhả ông ra.
Nhận lệnh truyền của Chúa một lần nữa, ông Giô-na đi ra đến thành phố Ni-ni-vê và công bố : “Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ” (Gn 3:5). Lập tức, tất cả mọi giới trong thành công bố lệnh ăn chay và mặc áo thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Từ vua cho đến dân đen, từ người cho đến gia súc quyết định không ăn, không uống, mặc vải thô và kêu cầu Thiên Chúa.
Cách riêng cho mỗi người, họ quyết định phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình. Họ vẫn còn biết kính sợ Chúa là điều căn bản nhất. Họ thiết nghĩ, “Biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại, chẳng bỏ ý định giáng phạt, và nguôi cơn thịnh nộ, khiến chúng ta khỏi phải chết” (Gn 3:10).
Với câu chuyện và bối cảnh của ông Giôna và sự sám hối của thành Ni-ni-vê, chúng ta nhìn thấy hình ảnh của một Thiên Chúa nghiêm nghị và cương quyết đối với tội lỗi. Ngài muốn con người sống trong đường ngay nẻo chính chứ không phải đường gian ác và bất xứng. Nếu đọc câu chuyện này và lồng mình vào để xem xét ý định của Chúa muốn chúng ta điều gì thì chúng ta sẽ bắt gặp một sự mời gọi.
Trong Sứ điệp Tin Mừng hôm nay, qua hình ảnh ông Giôna, nhắc nhở chúng ta về lòng sám hối của mỗi người. Sám hối, có thể nói đó là trọng tâm cho những ai muốn đón nhận ơn tha thứ và hạnh phúc nước trời mà Chúa hứa ban. Và để sám hối thật sự, chúng ta cần:
Nhận ra mình là người có tội.
Tỏ lòng thống hối lo buồn với những lỗi phạm.
Tin vào tình thương, tha thứ của Thiên Chúa.
Quay về với Thiên Chúa.
Thiếu đi một trong bốn điều trên thì không còn là lòng sám hối chân thành đối với Chúa. Một trong những nguyên nhân làm cho con người không chân thành với Thiên Chúa là vì con người thiếu đi niềm tin và nghi ngờ chính lòng thương xót của Thiên Chúa. Dấu chỉ mà Chúa Giêsu diễn tả trong Tin Mừng hôm nay đã thể hiện thật sống động hình ảnh của con người đối với Thiên Chúa. Khi con người nghi ngờ, không tin vào Thiên Chúa, con người dễ bị cám dỗ chính mình là Thiên Chúa, nên không nhìn thấy được những dấu lạ hay ơn lành của Chúa trong cuộc đời mình. Khi có niềm tin vào Thiên Chúa, chúng ta sẽ nhận ra rằng, mỗi một ngày sống là ơn ban, mỗi biến cố trong cuộc đời mình chính là dấu lạ mà Chúa không ngừng tuôn đổ trên cuộc đời chúng ta.
Khi nhìn nhận tất cả những biến cố xảy ra trong thế giới này, những hiểm họa, dịch bệnh, những đe dọa đến sự sống, v.v. đều là dấu chỉ nhắc nhở chúng ta về chính lời Chúa Giêsu đã nói khi bắt đầu sứ vụ rao giảng của Người: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.
Lời Chúa mời gọi chúng ta cương quyết duyệt xét đời sống mình. Chúng ta không những được mời gọi để sống chính trực trước nhan Chúa, mà còn được mời gọi sống chứng tá cho Chúa như một Giô-na, sau khi được nhả ra từ bụng cá, đã bước đi sửa dạy anh chị em mình. Vai trò này không chỉ dành cho quý cha, quý thầy, quý sơ thôi đâu mà còn cho cả những phụ huynh, những giáo dân, những người làm anh, làm chị, làm thầy cô và bạn bè. Như vậy, sống tinh thần mùa Chay là sống đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng giàu lòng nhân hậu xót thương. Dấu lạ của chúng ta là chứng tá sống thánh thiện trong đời sống thường ngày. Chúng ta cùng cầu nguyện cho nhau.
Khởi đầu sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài không đòi chúng ta gì hơn ngoài việc kêu gọi: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17). Quả vậy, trong dòng chảy cuộc sống, con người bị cuốn hút vào trào lưu tục hóa, thành công qua trở nên kiêu gạo, thất bại tạo ra bi quan, sung túc sinh ra sa đọa, khó khăn vất vả phá hủy lòng tín thác. Vì thế con người cần có khởi điểm để nhìn lại mình, và mùa chay chính là cột mốc nghe được tiếng mời gọi của Cha trên trời và qua mẹ Giáo Hội nhắc nhở con cái mình Sám Hối. Hãy đặt mình vào tương quan kính Cha, hiếu Mẹ, thì tiếng kêu mời này không còn xa lạ, nhưng là cho chính tôi.
2021
CHUYÊN CẦN CẦU NGUYỆN
23/2 Thứ Ba tuần I MC
Is 55:10-11; Tv 34:4-5,6-7,16-17,18-19; Mt 6:7-15
CHUYÊN CẦN CẦU NGUYỆN
Ta thấy Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện. Đó là một định hướng giúp cho chúng ta biết mình phải làm gì để trở nên một người con của Chúa (Mt 6,7-8).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ý nghĩa, giá trị và thái độ cần có khi cầu nguyện.
Trước tiên, cầu nguyện ở những nơi kín đáo, tức là có kinh nghiệm cá nhân với Chúa trước khi chúng ta cầu nguyện nơi tập thể, cộng đoàn.
Thứ hai, cầu nguyện cách chân thành chứ không sáo rỗng, hình thức, giả tạo. Cầu nguyện chân thành tức là một tâm hồn khao khát chân lý và sẵn sàng để cho thánh ý Thiên Chúa được thực hiện nơi mình.
Cuối cùng, cầu nguyện với tinh thần tha thứ. Cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa đối với mình thì cũng phải tha thứ cho anh chị em. Đây là lời cầu nguyện sống động và hấp dẫn nhất.
Trong đời sống đạo của chúng ta vẫn thấy có những người cầu nguyện rất dài, nhưng lòng đạo thì lại quá ngắn! Tại sao vậy? Thưa bởi vì họ như con sáo, cuốn băng! Cầu nguyện mà không biết mình làm gì, chỉ mong sao đọc cho hết, nói cho xong là yên tâm! Trong khi đó, không hề thay đổi lối sống khi sứ điệp Lời Chúa đòi hỏi…
Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, qua đó Ngài nêu bật thái độ phải có khi cầu nguyện: Trước hết là tinh thần đơn sơ khiêm tốn, gặp gỡ thân tình với Chúa hơn là nói nhiều lời ngoài môi miệng. Giờ cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa, chứ không phải là giờ làm bài, là giờ của con tim, chứ không phải là của khối óc.
Thứ đến là tinh thần quảng đại tha thứ cho kẻ xúc phạm đến chúng ta. Đó là điều đương nhiên, vì thân phận của con người là yếu đuối, tội lỗi, và mọi người đều mắc nợ nhau trong đức bác ái của lời nói, việc làm, cách suy nghĩ, cho dù chúng ta vẫn giữ được đức công bằng.
Thật ra, như lời thánh Phaolô: chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thánh Thần chuyển cầu cho chúng ta bằng những tiếng rên khôn ta. Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được kết hiệp với Đức Kitô và được lãnh nhận hồng ân Thánh Thần. Chúng ta hãy cố gắng sống trong Thánh Thần để phát triển đời sống cầu nguyện, nhờ đó canh tân chính mình và môi trường sống.
Người con của Chúa phải là người không làm theo ý mình, không mưu tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng là người luôn làm theo ý Chúa và mong muốn mọi người cùng thi hành ý Chúa để danh Chúa được vinh hiển: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6, 9-10)
Người con của Chúa phải là người luôn tin tưởng và phó thác vào sự quan phòng yêu thương của Chúa, nên không phải quan tâm đến nhu cầu thể xác cách quá đáng (Mt 6, 11). Nhưng điều quan trọng là giữ được phẩm giá con người mà Chúa đã ban tặng và đừng bao giờ cố tình để bị sa vào chước cám dỗ của sự dữ mà phản bội ân tình Chúa; đồng thời, chúng ta biết sống hiệp thông với nhau bằng tinh thần quảng đại, yêu thương và tha thứ theo gương Chúa Giêsu (Mt 6, 12-13).
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì “Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”.
Nói cách khác, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.
Lời dạy của Chúa Giêsu về cầu nguyện còn có một điểm đặc biệt nữa, đó là Ngài không chỉ nói: “Khi anh em cầu nguyện, đừng trở nên như những người giả hình” (c. 5), nhưng còn nói: “Anh em đừng lải nhải như dân ngoại!” (c. 7) Thực vậy, lời nguyện của chúng ta không được trở thành những lời lải nhải chỉ qui về mình, nghĩa là nhằm thỏa mãn nhu cầu, hoặc như những âm thanh vô hồn, nhưng phải là một lời ca tụng dựa trên tương quan thiết thân Cha-Con. Vì thế, trong lời nguyện “Lạy Cha của chúng con”:
Chúng ta được mời gọi ra khỏi mình để đi vào tương quan phụ-tử với Thiên Chúa, là Cha của chúng ta.
Ra khỏi mình để quan tâm trước hết đến Danh của Cha, đến Nước của Cha, đến Ý của Cha.
Và sau đó mới quan tâm đến sự sống của mình, nhưng không phải sự sống mà mình muốn, nhưng là sự sống đích thật mà Thiên Chúa muốn: đó là sự sống được xây dựng trên những ơn huệ: ơn huệ lương thực, ơn huệ giải thoát khỏi sự dữ và ơn huệ thứ tha.
Sự sống của chúng không thể không có lương thực, không thể không được tha thứ, và không thể không được giải thoát khỏi sự dữ. Và Chúa Cha đã ban cho chúng ta sự sống này rồi, cách nhưng không và viên mãn nơi Đức Giê-su Ki-tô, Con Chúa.
Chúng ta hãy siêng năng cầu nguyện để đức tin được củng cố và thêm vững mạnh. Nhờ đó, chúng ta mới có thể dễ dàng tha thứ cho nhau và tha thứ chính là hành động cụ thể biểu lộ đức tin của mình.
2021
YÊU MẾN VÀ CẦU NGUYỆN CHO CÁC ĐẤNG KẾ VỊ THÁNH PHÊRÔ
22/2 Thứ Hai tuần I MC
Toà Thánh Phêrô, Tông Đồ
Lv 19:1-2,11-18; Tv 19:8,9,10,15; Mt 25:31-46
YÊU MẾN VÀ CẦU NGUYỆN CHO CÁC ĐẤNG KẾ VỊ THÁNH PHÊRÔ
Lễ mừng kính Tông toà thánh Phêrô nhắc chúng ta nhớ lại sứ mạng Chúa Kitô đã trao phó cho vị thủ lãnh các Tông Đồ. Nhờ đặc ân không sai lầm, thánh Phêrô là người bảo đảm đức tin của các anh em trong Tông Đồ đoàn. Lòng tin của thánh Phêrô là đá tảng, trên đó Chúa đã xây Hội Thánh của Người
Khi cử hành lễ kính Tông Tòa Thánh Phêrô, phụng vụ muốn cho chúng ta thấy ngai tòa vững chắc mà Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô ”Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18), đồng thời trao cho Thánh Phêrô nhiệm vụ chăn dắt. Do đó ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối, Đức Giáo Hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô hướng dẫn toàn thể Giáo Hội toàn cầu. Vì thế ngày lễ hôm nay là một lời tuyên xưng long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng trong toàn thể Hội Thánh.
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ việc Ðức Kitô chọn Phêrô là người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
Sau một “cuối tuần mất mát” đầy đau khổ, hồ nghi và dằn vặt sau khi Ðức Kitô bị đóng đinh và đem đi chôn, Phêrô đã được nghe Tin Mừng. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: “Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô.” Gioan kể lại khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ đi nhanh hơn tông đồ lớn tuổi kia, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó. Gioan trông thấy và tin. Nhưng ngài viết thêm: “… Họ không hiểu rằng theo kinh thánh, Ngài phải sống lại từ cõi chết” (Ga 20:9). Họ về nhà. Ðầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói, “Bình an cho anh em,” và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20:21b).
Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. “… Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần” (Cv 2:4a) và họ bắt đầu rao giảng bằng các thứ tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho.
Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: “… Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em” (Lc 22:32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần — trước nhà cầm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước thượng hội đồng Giêrusalem, trước cộng đoàn về vấn đề của Ananias và Sapphira. Ngài là người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Sức mạnh chữa lành của Ðức Kitô ở trong Phêrô được chứng tỏ: cho kẻ chết sống lại, chữa người ăn xin tàn tật. Dân chúng khiêng bệnh nhân ra đường phố để khi Phêrô đi ngang qua, bóng của ngài có thể chữa họ lành.
Ngay cả một vị thánh cũng gặp khó khăn của cuộc đời Kitô Hữu. Khi Phêrô không còn ăn uống với Dân Ngoại tòng giáo vì ngài tế nhị không muốn tổn thương đến người Kitô gốc Do Thái, Phaolô viết: “… Tôi chống đối ông ấy ra mặt vì rõ ràng là ông ấy sai… Các ông ấy không đi đúng với chân lý của phúc âm…” (Gl 2:11b, 14a).
Trong đoạn cuối Tin Mừng theo Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với Phêrô, “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết, khi anh còn trẻ, anh muốn mặc quần áo nào và muốn đi đâu tùy ý; nhưng khi anh lớn tuổi, anh sẽ phải giang tay ra, và người khác sẽ mặc áo cho anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn” (Ga 21:18). Chúa Giêsu tiên đoán về cái chết mà Phêrô phải chịu để vinh danh Thiên Chúa. Trong thời gian cai trị của Nero, trên Ðồi Vatican ở Rôma, Phêrô đã vinh danh Chúa Giêsu với sự tử đạo, có lẽ cùng với nhiều Kitô Hữu khác.
Chúa Giêsu gọi Simon là Phêrô, nghĩa là Đá. Điều này diễn tả sự chia sẻ quyền lực của Thiên Chúa cho người đại diện Chúa nơi trần gian là Phêrô và các Đấng kế vị ngài. Chúng ta tin vào sự vững bền của Hội Thánh vì chính Chúa là Đá Tảng đã đặt ngai tòa Phêrô như Đá vững chắc cho ngôi nhà Giáo Hội. Sức mạnh của Đức Giêsu phục sinh là cơ sở cho niềm tin và bình an khi ta sống trong Hội Thánh của Chúa.
Để xây Hội Thánh, Chúa Ki-tô cũng muốn xác định tính vững chắc của những tảng đá Ngài sẽ dùng để làm nền móng cho Hội Thánh là các tông đồ. Phép thử của Ngài là một câu hỏi. Cần phải biết “Thầy là ai?” để hiểu mục đích mà Thầy nhắm đến khi thiết lập Hội Thánh. Cần phải biết Thầy để biết được giới hạn của mình cũng như để lường trước sức nặng của Hội Thánh mà Thầy sẽ đặt lên vai mình.
Qua phép thử này, Chúa Ki-tô cho biết tính vững chắc của Hội Thánh không hệ tại những đầu óc thông thái mà là một niềm xác tín vững vàng vào Đấng mà mình đang đi theo. Với niềm tin vào Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống thì Hội Thánh có sức đứng vững trước mọi thách thức, chống phá, dù là quyền lực của ác thần Sa-tan.
Thánh Phêrô đã được Chúa trao cho chìa khóa Nước Trời, có nghĩa là thánh nhân sẽ được tham dự vào quyền bính của Chúa. Chính vì thế, thánh Phêrô cũng như các vị kế nhiệm sẽ đại diện Chúa ở trần gian với quyền giáo huấn, quyền thánh hóa và quyền quản trị để phục vụ Dân Chúa. Do vậy, khi người tín hữu không vâng nghe Đấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là không vâng nghe Đức Giêsu.
Điều này cũng như quyền năng của nối kết hoặc cầm buộc và của tách rời hoặc tháo cởi cũng được trao cho cộng đoàn (Mt 18, 18) và cho các môn đệ khác (Ga 20, 23). Một trong những điểm mà sách Tin Mừng Mátthêu nhấn mạnh nhiều nhất là sự hòa giải và tha thứ hoặc khoan dung. Nó là một trong những nhiệm vụ quan trọng hơn đối với các điều hợp viên của cộng đoàn. Bắt chước thánh Phêrô, họ phải cầm buộc hoặc tháo cởi, đó là, làm theo cách để có sự hòa giải, chấp nhận lẫn nhau, xây dựng tinh thần huynh đệ.
Mừng Lễ hôm nay, Hội Thánh mời gọi tất cả chúng ta hướng về Đức Giáo Hoàng, đấng kế vị Phêrô. Ngài là vị cha chung của Hội Thánh, có trách nhiệm chăm sóc và hướng dẫn Dân Chúa. Với tấm lòng con thảo, chúng ta hãy yêu mến, vâng lời và siêng năng cầu nguyện cho ngài.
2021
CÁM DỖ VÀ TÍN THÁC VÀO CHÚA
21/2 Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Chay
St 9:8-15; Tv 25:4-5,6-7,8-9; 1 Pr 3:18-22; Mc 1:12-15
CÁM DỖ VÀ TÍN THÁC VÀO CHÚA
Thiên Chúa có ý định dựng nên con người bất toàn, để con người cộng tác với Người trong công trình sáng tạo để hoàn thiện chính mình. Vì thế con người có nhu cầu. Và Thiên Chúa đã dự liệu cho con người khi ban cho con người mọi loài trên mặt đất này. Chính vì thế mà tự bản chất mọi sự đều có sức hấp dẫn đối với con người.
Thế nhưng sử dụng nó thế nào? Đó là quyền tự do và sự khôn ngoan của con người. Thuốc bổ nhưng dùng quá liều cũng hại, ngược lại người ta cũng có thể lấy độc trị độc! Cám dỗ suy cho cùng cũng là một sự hấp dẫn. Điều quan trọng là chúng ta sử dụng nó nhằm mục đích gì?
Và ta thấy khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã dành một thời gian 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện trong sa mạc, đã chịu ma quỷ cám dỗ giống như dân Do Thái trong sa mạc 40 năm, và cũng giống như Ađam chịu thử thách trong vườn địa đàng. Ađam đã sa chước cám dỗ. Dân Do Thái đã thất trung. Còn Chúa Giêsu đã chiến đấu và đã thắng Satan nhờ làm theo Lời Thiên Chúa. Sau hành động quyết liệt đương đầu với Satan, Chúa Giêsu đã đi rao giảng Tin Mừng và kêu gọi thống hối: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15).
Là người tin theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Người nếu biết đứng về phía Thiên Chúa, biết lắng nghe lời Người mà thay đổi nếp sống. Đó cũng là ý nghĩa và mục đích của Mùa Chay, thời gian 40 ngày chuẩn bị cử hành mầu nhiệm Vượt Qua trong Tuần Thánh, tuần lễ đặc biệt bước theo Chúa Giêsu Khổ nạn và Phục sinh. Khi khi chiến thắng sự chết nhờ sự sống lại, Chúa Giêsu đã trở thành Adam mới, Trưởng Tử của một dân mới, đem lại sự sống đã mất do tội, thiết lập Giao ước mới.
Trong lịch sử dân Israel, Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, đã giúp họ vượt qua sa mạc đầy thử thách để thanh luyện họ và đem họ vào Đất Hứa, rồi thiết lập Giao ước với họ trên Núi Sinai. Trong lịch sử dân Israel mới, Ðức Giêsu đã chiến đấu trước những thử thách để thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa, thiết lập Giao ước mới nhờ cái Chết và sự Phục sinh của Người.
Ở trong vườn địa đàng, Adong đã bị cám dỗ. Con cái Noe sống trong Giao ước cũng đã gặp thử thách. Dân Chúa trong sa mạc còn gặp nhiều hơn nữa. Tất cả đều nói lên rằng hạnh phúc con người ở trần gian này có thể bị tan vỡ. Tình yêu Thiên Chúa ở nơi ta có thể bị thử thách. Và rõ rệt tất cả loài người đã sa ngã, đã phạm tội. Adong đã phạm tội; con cháu Noe cũng vậy; dân Chúa ngày xưa cũng thế. Trong Cựu Ước, xem ra chỉ có một người không sa ngã.
Nói đúng hơn chỉ có câu truyện một người bị cám dỗ mà vẫn không sa ngã, để làm gương cho ta: đó là truyện ông Yob, một truyện được xây dựng có mục đích răn bảo, nên không cần đặt vấn đề có hay không. Nhưng điều mà sách Yob gợi lên, đề cao sự trung thành với Thiên Chúa qua bất cứ gian nan thử thách nào, điều đó đã được thực hiện nơi Ðức Kitô. Ở trong sa mạc, Ngài bị Satan cám dỗ, nhưng Ngài đã lướt thắng một cách bình an chân thật, báo trước việc Ngài sẽ đi qua con đường thập giá đau thương mà cuối cùng vẫn trung tín thưa cùng Chúa Cha: Con xin phó mạng sống con trong tay Cha.
Ta thấy rằng “tin vào Tin Mừng” chính là đón nhận Giao ước: một bên là Thiên Chúa yêu thương con người trước, một bên là con người đáp lại tình thương đó bằng cách làm theo ý Thiên Chúa. Như thế, Giao ước vừa là một ân huệ Chúa ban, vừa là một thử thách đối với con người vì họ luôn bị cám dỗ làm ngược lại ý Thiên Chúa. Nhưng “lửa thử vàng, gian nan thử đức”, đây chính là đức tin, là tín thác vào Thiên Chúa, chỗ dựa duy nhất để chiến thắng Satan.
Thật vậy, các bài đọc hôm nay chủ yếu nói với chúng ta về Giao ước. Bài đọc thứ I trích sách Sáng thế (St 9, 8-15) muốn nhắc nhớ thời gian nhân loại được sống hạnh phúc sau khi được Thiên Chúa cứu thoát nạn lụt 40 đêm ngày. Giáo hội muốn dùng bài Sách Thánh đó để nói đến thời gian Ân sủng của 40 ngày Mùa Chay. Thời gian ấy, hiện ta đang sống đây, như bài đọc II (1 Pr 3, 18-22) cho thấy: chúng ta là những người đã chịu phép Rửa của Ðức Kitô, đã được cứu thoát nạn lụt tội lỗi, để được tái sinh trong tình thương của Thiên Chúa mà mầu nhiệm Phục sinh đem lại. Vì thế, có người giải thích con số 40×7=280 ngày, thời gian người mẹ vất vả cưu mang để sinh ra người con mà mình yêu thương.
Chúa đã yêu thương bằng và với ân sủng của Ngài đó là đi tìm ta đưa vào sa mạc. Ngài chịu gian khổ để dẫn ta qua dòng nước Rửa tội. Ta đang sống trong Nước Trời và trong tình nghĩa của Ngài. Hôm nay ta còn đến đây để dự lễ, để thấy Chúa thương ta như ta vừa hiểu qua các bài đọc Sách Thánh, để còn uống thêm chén giao ước của Ngài trong Thánh Thể mà ta cử hành bây giờ. Chúng ta còn có thể có thái độ nào khác hơn là dứt khoát đứng về bên Chúa, chọn Lời Chúa làm lẽ sống, lấy tình Ngài làm hạnh phúc. Có như vậy chúng ta mới thật sự sống với Ðức Kitô trong mầu nhiệm sa mạc, trong mùa Chay 40 ngày mà ta đang cử hành.
Như vậy, Mùa Chay trước tiên là thời gian Ân sủng, thời gian Thiên Chúa yêu thương chúng ta và muốn mời gọi chúng ta trung thành với Giao ước tình yêu. Chỉ với những tâm tình đó, chúng ta mới hiểu được hết ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu là mẫu gương trung thành với Thiên Chúa Tình Yêu, và mời gọi chúng ta “sám hối và tin vào Tin Mừng” để trở nên “con yêu dấu” của Chúa Cha. Việc “Phúc-Âm-hóa đời sống giáo xứ và các cộng đoàn” cũng đòi hỏi “sám hối mục vụ” để đổi mới cung cách ứng xử với nhau cho phù hợp với tinh thần Phúc Âm. Thực tế, chúng ta chỉ có thể đáp lại lời mời gọi đó nhờ sức mạnh của Thánh Thần.
Và ta thấy rằng không giống như Tin mừng Matthêu (4,1-11) và Lc (4,1-13), Tin mừng Maccô không giải thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa. Các câu chuyện Israel đi trong hoang địa, cũng như Ađam và Evà ở trong vườn là những ví dụ về thế nào là bị cám dỗ và sa ngã. Những câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về thế nào là bị thử thách và đứng vững. Nếu tin tưởng vào Lời Chúa thì đứng vững; nếu không tin tưởng vào Lời Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn trung thành với Thiên Chúa, do đó, dã thú sống hoà bình với Người, còn các thiên thần thì hầu hạ Người.
Và rồi nếu như ai nào đó muốn chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến, người ta phải triệt để quay về với Thiên Chúa, phải cậy dựa vào Lời Chúa và tín thác đời mình trong sự quan phòng của Thiên Chúa.