2020
Lời kinh đẹp nhất
18.6.2020 Thứ Năm
Mc 6, 7-15
LỜI KINH ĐẸP NHẤT
Trong cuộc sống nhân sinh, chúng ta khó thoát khỏi cạm bẫy cám dỗ và những hệ lụy của tội lỗi. Chính Chúa Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà còn phải chịu cơn cám dỗ, huống nữa là chúng ta, là môn đệ của Người. Vấn đề ở chỗ chúng ta có tỉnh thức hay không trước mọi cơn cám dỗ mà ma quỷ giăng ra hòng tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Trong mọi thử thách, điều chúng ta muốn là làm sao những cạm bẫy, những mưu mô của thế lực ác thần không làm cho chúng ta sa ngã, không làm cho chúng ta rơi vào tay của chúng. Để được thế, chúng ta không ngừng chạy đến với Chúa và nhất là cầu nguyện để xin ơn trợ lực, giúp chúng ta vượt qua.
Cầu nguyện là nhu cầu thiết yếu của đời sống của mỗi người Kitô hữu. Cầu nguyện cần thiết đến nỗi ví được như cá cần sống trong nước.Ý tưởng này gợi lên cho chúng ta một sự liên tưởng bài Tin Mừng hôm nay về việc Chúa Giêsu dạy cho các tông đồ cầu nguyện bằng kinh “Lạy Cha” mà chúng ta quen đọc hằng ngày. Đó cũng chính là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu.
Kinh Lạy Cha- một lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm- được thánh sử Luca đặt trong bối cảnh hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu cùng với các môn đệ, nơi mà ở đó, chính Người sẽ trút hơi thở sau hết cùng với lời nguyện cầu dâng lên Chúa Cha.
Theo thánh sử Mathêu, kinh “Lạy Cha” mà Chúa Giêsu dạy cho các tông đồ gồm 7 lời cầu được chia làm hai phần: phần thứ nhất, gồm 3 lời đầu tiên liên quan đến Thiên Chúa, Đấng mà Chúa Giêsu gọi là Cha và còn dạy chúng ta gọi là Cha: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời”. Sở dĩ gọi Thiên Chúa là Cha, bởi vì Con Thiên Chúa làm người đã mạc khải cho chúng ta, và Thánh Thần của Ngài sẽ giúp chúng ta nhận ra điều đó. Hơn nữa, gọi Thiên Chúa là Cha, chẳng những mời gọi chúng ta bước vào mối tương quan thân tình với Chúa Cha, mà còn gợi lên trong chúng ta tâm tình của người con thảo, với ý thức rằng chúng ta là con của Thiên Chúa, trong người Con chí ái của Người là Đức Giêsu Kitô.
“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”: là lời chúc tụng tạ ơn Thiên Chúa, vì những công trình Người đã thực hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Như Mẹ Maria ngày xưa đã ca tụng “Đấng toàn năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Ngài thật chí thánh chí tôn” thế nào, thì ngày nay, khi đọc lời kinh này, chúng ta cũng nâng tâm hồn và tâm trí chúng ta để nhận ra những việc diệu kỳ của Chúa đang thực hiện trong cuộc đời của mỗi người chúng ta để tôn vinh và chúc tụng Thiên Chúa, nhưng không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng chính đời sống thánh thiện và sự tốt lành của mỗi chúng ta.
“Triều đại Cha mau đến” :Theo thánh Tôma Aquinô, Nước Thiên Chúa ám chỉ vương quyền của Đức Kitô vào thời cánh chung. Nước Thiên Chúa còn được hiểu là vinh quang của các thánh trên thiên đàng và sau cùng, Nước Thiên Chúa còn là nơi Thiên Chúa ngự trị, đó là tâm hồn của mỗi người chúng ta. Quả thật, nếu tâm hồn là nơi Thiên Chúa ngự trị, thì chúng ta cần làm cho tâm hồn mình trở nên hiền hậu, khiêm tốn như Đức Kitô là Đấng nhân từ và khiêm nhường trong lòng (x. Mt 11, 29).
“Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”:Trước hết, ý muốn của Chúa Chađã được thể hiện cách tuyệt hảo nơi con người của Đức Giêsu Kitô, Đấng được sai đến để cứu độ loàingười. Ngài đã làm những gì Cha muốn và thi hành ý muốn của Cha cho đến cùng. Noi gương Đức Kitô, chúng ta kết hợp ý muốn của chúng ta với ý muốn của Thiên Chúa, bởi vì ai làm theo ý Chúa, thì Chúa Cha cũng sẽ nhận lời người đó (x. GLCG số 2827).
Đó là cốt lõi của 3 lời cầu nguyện trong phần thứ nhất. Không những thế, phần thứ hai gồm 4 lời xin liên quan đến con người cũng đặt mọi sự trên nền tảng “Ý Cha”.
“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” : Với lòng tin tưởng và phó thác, Chúa Giêsu dạy chúng ta xin Chúa Cha ban lương thực hằng ngày để mọi người được sống và sống hạnh phúc. Nhưng không phải chỉ nhờ cơm bánh, chúng ta còn được sống bởi Lời vàcủa ăn của uống nhờ mình và máu Kitô, Con Cha. Bởi vì Cha là Đấng tốt lành vượt trên mọi sự tốt lành.
“Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” :Đây là lời cầu xin tha thứ. Chúng ta xin Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta vì nhận ra mình là kẻ tội lỗi, đồng thời chúng ta cũng tuyên xưng lòng thương xót của Người, vì trong Chúa Con và qua các Bí tích, “chúng ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha mọi tội lỗi” (Cl 1,14). Tuy nhiên, lời cầu xin của chúng ta chỉ được nhận lời, nếu chúng ta cũng biết tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta.
“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ” :Ý thức mình là kẻ yếu đuối, chúng ta xin Thiên Chúa đừng để mình đơn độc dưới quyền lực của cơn cám dỗ. Trái lại, khi cầu xin như thế, chúng ta được Thánh Thần của Đức Giêsu hướng dẫn, dạy ta biết phân định giữa thử thách làm tăng trưởng trong sự thánh thiện và cơn cám dỗ dẫn chúng ta đến tội lỗi và sự chết. Đức Giêsu đã chiến thắng cám dỗ bằng lời cầu nguyện, chúng ta cũng xin ơn trung thành với Đức Giêsu và luôn tỉnh thức trong cầu nguyện.
“Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” : “Sự dữ” ám chỉ một kẻ phản loạn chống lại Thiên Chúa là Satan mà Kinh Thánh gọi là “kẻ chuyên mê hoặc toàn thể nhân loại” (Kh 12, 9). Vì vậy, chúng ta cầu xin Thiên Chúa cho gia đình nhân loại được thoát khỏi Satan và những việc làm đen tối của nó, đang khi chờ đợi ngày Đức Kitô trở lại để giải thoát chúng ta khỏi sự dữ một cách dứt khoát.
Kinh lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này. Ước mong mỗi người chúng ta biết tận dụng món quà quý giá này, để không ngừng chạy đến với Chúa, trò chuyện, chia sẻ với Người. Chắc một điều, Chúa sẽ không quên chúng ta và không ngừng thi ân giáng phúc cho hết những ai chạy đến với Người.
2020
Loại bỏ thành kiến
17.6.2020 Thứ Tư
Mc 6, 1-6, 16-18
LOẠI BỎ THÀNH KIẾN
Theo tập tục thì mọi người Do Thái ở tuổi trưởng thành đều có thể lên tiếng khi tham gia phụng vụ tại hội đường. Chúa Giêsu đã sử dụng quyền này của Ngài và lên tiếng rao giảng Tin
Mừng. Nội dung rao giảng hẳn phải có một cái gì khác lạ với những điều từng được rao giảng tại đây.
Ngài trở về quê hương Nagiarét sau hơn một năm đi giảng dạy khắp nơi. Hôm ấy đúng vào ngày Sabat, mọi người đến hội đường để nghe đọc Kinh Thánh và nghe diễn giảng. Chúa Giêsu cũng vào đây để dự phụng vụ lời Chúa.
Và hôm nay, sau bài đọc, như luật cho phép, Ngài diễn giảng lời Chúa. Kết quả: dân chúng không nhận ra Ngài là ai và họ khinh khi Ngài, họ có thái độ hiểu lầm Ngài, hiểu lệch lạc về con người của Ngài. Bởi vì Ngài nói như một người có uy quyền, như bậc thầy nói với học trò, như một người muốn gây dựng cho mọi người lòng tín nhiệm nhau để tiến tới tin nhau. Điều Ngài dạy vượt mọi khuôn phép cổ truyền đến nỗi mọi người phải thắc mắc.
Nghĩa là trước những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, dân làng Nagiarét ngạc nhiên, vì họ thấy Ngài không đi học ở trường lớp nào mà sao lại có những lời lẽ khôn ngoan, cao siêu, mới lạ. Mặt khác, họ thấy Ngài chỉ là con bà Maria và bác Giuse thợ mộc, bản thân Ngài cũng chỉ là một anh phó mộc, mà sao có thể đảm nhận chương trình đại sự của Thiên Chúa được? Họ không thể ngờ được giữa bụi đất lại có kim cương, họ không thể hiểu được nơi Chúa có hai bản tính, họ không thể nhận ra yếu tố Thiên Chúa và con người, hữu hạn và vĩnh cửu, trời và đất, hạnh phúc và đau khổ giao hòa lại trong một thực tại duy nhất, là nơi con người Chúa Giêsu. Đó là điều làm cho họ vấp phạm, họ khinh thường Chúa và không thiết nghe lời chân lý của Ngài.
Khác đến độ mọi người đều có thể nhận ra và sửng sốt trước sự khôn ngoan của Ngài. Thực tế trước mắt đã khởi sự lay động họ, kéo họ ra khỏi giấc ngủ yên tĩnh giữa những cái biết rồi, đẩy họ vào con đường của những khám phá mới. Thế nhưng những câu hỏi chỉ loé lên trong thoáng chốc không đủ để chiếu sang cho họ tới được với Đấng đã đến giải phóng họ. Họ đã bỏ thực tế để trở về với lối lý luận thông thường của họ. Họ tưởng rằng họ đã biết quá rõ về Ngài khi nói ra được Ngài là con ai, đã làm gì và ai là những người thân thích với Ngài. Họ đã trở về với những cái họ đã nắm được để rồi quay lưng trước lời kêu gọi của thực tế trước mắt.
Điều họ mắt thấy tai nghe đã đánh động để họ phải đặt lại vấn đề, thế nhưng họ đã đóng chặt cửa lòng trước những cái mới mẻ đã từng làm cho họ sửng sốt và ngạc nhiên. Họ tự tách mình ra khỏi Nước Trời đang đến với họ. Tin Mừng còn ghi lại: thấy họ cứng lòng tin, Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ nào, nghĩa là Ngài đã không tỏ quyền năng của Nước Trời cho họ và Ngài đi rao giảng ở những làng xung quanh.
Tin Mừng lại cho thấy người đương thời của Chúa Giêsu, cụ thể là chính đồng hương của Chúa đã sai lầm vì cao ngạo. Chính cái lý lịch xem ra rất tầm thường của Chúa mà họ đã xúc phạm nặng nề với Chúa: “Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”. Cũng chính cái lý lịch ấy, làm cho họ, thay vì được nhiều ơn lành từ Chúa Giêsu, thì ngược lại, họ đánh mất tất cả. “Người đã không làm phép lạ nào được”.
Có Thiên Chúa ở với mình, nhưng không biết đón nhận, vì thế, họ đã đánh mất cả Thiên Chúa: Không những không thể làm phép lạ, Chúa Giêsu còn bỏ ra đi. Người “qua các làng chung quanh mà giảng dạy”. Khi cố tình đẩy Chúa Giêsu ra khỏi cuộc đời mình, những người đồng hương của Chúa đã làm tổn thương mối liên hệ với Chúa Giêsu xét như một con người: tổn thương mối tương quan giữa người với người.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội, ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm do ta có thành kiến. Đó chính là khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta.
Thành kiến là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, là một sự yên trí, phán đoán mọi người mọi vật theo những quan niệm làm sẵn, có sẵn trong đầu óc, nhất là khi những tư tưởng có sẵn đó lại sai lạc, thì có thể đưa đến những hậu quả không hay, sai lầm hoặc nguy hại. Thật vậy, ai đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng tối hết; lưỡi đắng thì ăn gì cũng đắng; lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Yêu nên tốt, ghét nên xấu: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng”. Lòng chúng ta có khuynh hướng mạnh về điều gì, thì mắt chúng ta hay tìm, trí chúng ta hay tưởng và rồi chúng ta phán đoán người khác cũng giống như chúng ta và hơi chút là chúng ta đoán về đàng đó liền.
Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hay căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Đánh giá một người theo bên ngoài có thể đúng nhưng cũng có thể sai lầm.
Câu nói: “Trông mặt mà bắt hình dong” không phải là nguyên tắc chính xác, nên chính Chúa Giêsu có lần khuyên chúng ta: “Đừng có xem mặt mà bắt hình dong”. Khổng Tử cũng xác nhận: “Người tôi yêu chưa chắc đã tốt; người tôi ghét chưa chắc đã xấu”. Phong dao cũng có câu: “Người xấu duyên lặn vào trong. Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài”. Lặn vào thì còn lại, bong ra thì mất đi rồi. Và hẳn chúng ta cũng không quên câu nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”,”Xanh vỏ mà đỏ lòng”. Cho nên, đánh giá một người mà chỉ căn cứ vào bề ngoài có thể là nông nổi, thiển cận và nguy hiểm.
Thành kiến đã làm cho dân làng Nagiarét phán đoán sai về Chúa Giêsu. Họ đã không nhận ra Ngài là Đấng cứu tinh. Đối với chúng ta cũng vậy, thành kiến có thể làm chúng ta mù quáng, không nhận định và phê phán một cách khách quan đúng đắn được. Thành kiến làm chúng ta không thể đối thoại, cởi mở với người khác và không nhìn thấy cái hay cái tốt nơi người.
Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những gì là thành kiến về bản thân để khỏi tự ti mặc cảm; cũng như thành kiến về những người chung quanh, để có được một cái nhìn đúng đắn hơn, một nhận xét chân thành hơn, một phán đoán khách quan hơn, và một đời sống yêu thương cởi mở hơn.
2020
Yêu kẻ thù
16.6.2020 Thứ Ba
Mt 5, 43-48
YÊU CẢ KẺ THÙ
Yêu người yêu thương mình, chào hỏi người chào hỏi mình đó là chuyện bình thường, trong lịch sự giao tiếp. Nhưng Chúa đòi hỏi người Kitô hữu phải đạt tới một mức độ cao hơn: yêu thương cách chân thành.
Trong trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa luật yêu thương đến mức hoàn thiện, nghĩa là không chỉ yêu người thân mà yêu cả kẻ thù. Đó chính là yêu thương tất cả mọi người không trừ một ai, không phân biệt dân tộc, màu da, tiếng nói, tín ngưỡng… Và còn một việc mà chẳng có tôn giáo nào dạy: “Cầu nguyện cho kẻ thù”. Đây là dấu chỉ đích thực của sự tha thứ, nhớ đến họ khi cầu nguyện như chính những người thân yêu.
Chúa Giêsu trích dẫn lề luật cổ xưa dạy rằng: “Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù.” Những dòng chữ này không được tìm thấy như thế trong Cựu Ước. Nói đúng hơn đó là một câu hỏi tâm lý của thời đại, theo đó thì trong thực tế chẳng có vấn đề gì nếu mà người ta thù ghét kẻ địch thù của mình.
Chúa Giêsu đã không đồng ý và nói rằng: “Nhưng Ta bảo các con: Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm như thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm như thế ư? Vì thế, các con không được đặt giới hạn cho tình yêu của các con, như Cha các con trên trời đã không giới hạn tình yêu của Ngài”. Và Chúa Giêsu ban cho chúng ta bằng chứng. Vào giờ phút lâm chung của mình, Chúa đã thực hành những gì Người giảng dạy.
“Hãy yêu mến anh em mình”, mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những “anh em” được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: “Hãy ghét kẻ thù địch” thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh Thánh.
Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu Ước, bất cứ ai không thuộc về Dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạn, là kẻ thù địch, không được yêu thương.
Chúa Giêsu đã đến để mạc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”. Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu: thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa. Thứ hai: Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.
Điều Chúa dạy tưởng chừng nghịch lý: kẻ thù ta, kẻ làm hại ta, khiến ta phải đau khổ, điêu đứng, ngay cả việc nhìn mặt đã phát ghét, khó ưa thì làm sao có thể yêu cho nổi. Nhưng lịch sử đã chứng minh: hận thù chỉ kéo theo hận thù, chiến tranh, chết chóc, nghèo đói, bệnh tật, thất học… Hậu quả thật khủng khiếp và rồi sự trả thù không xóa đi lòng hận thù, nhưng chỉ có tình yêu mới hoá giải được tất cả.
Các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo. Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần muốn làm hoảng sợ, bởi vì điều này sẽ vô ích. Người muốn thay đổi cách loài người sống chung với nhau. Sự đổi mới mà Người muốn xây dựng đến từ kinh nghiệm mới mà Người có với Thiên Chúa, Chúa Cha, đầy dịu dàng, Đấng chấp nhận tất cả mọi người! Những lời đe dọa đối với người giàu có không thể là cơ hội trả thù cho người nghèo. Chúa Giêsu ra lệnh rằng chúng ta phải có thái độ ngược lại: “Hãy yêu thương thù địch!” Tình yêu đích thực không thể phụ thuộc vào những gì mà người ta nhận được từ kẻ khác. Tình yêu là phải ước muốn điều tốt lành cho kẻ khác bất kể những gì họ đã làm cho tôi. Bởi vì đây là phương cách mà tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Chỉ trong sự tha thứ, tôi mới có thể họa lại nơi bản thân mình cái nhìn cảm hóa của Đức Kitô. Một cái nhìn không chỉ dừng lại ở việc giao hòa, mà còn đi sâu vào lòng người, xóa tan mọi ấn tượng, mặc cảm tội lỗi nơi họ. Một cái nhìn tha thứ đến mức tuyệt đối: bảy mươi lần bảy (Mt 18,22).
Chúa Giêsu cảm thấy buồn và đã cầu nguyện : “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm!” Chúa Giêsu, trong tinh thần đoàn kết, gần như là xin lỗi cho những kẻ đang hành hạ và tra tấn mình. Chúa giống như một người anh đi với các người em sát nhân đến trước mặt Quan Tòa và, Người là nạn nhân của chính anh em mình, thưa với quan tòa: “Họ là các anh em của tôi, ngài biết là họ không biết gì. Xin hãy tha thứ cho họ! Họ sẽ trở nên tốt hơn!” Chúa đã yêu mến kẻ thù!
Luật Tình yêu kẻ thù đảo lộn các cách xử sự theo quy ước của loài người. Thường yêu thương là quan tâm đến những ai có cùng kiểu nhìn như mình, trình độ văn hóa như mình, địa vị xã hội như mình. Sứ điệp Tin Mừng vượt quá các giới hạn ấy. Đức ái Kitô giáo không “cào bằng” các con người, nhưng tỏ ra kính trọng họ, thậm chí cả các giới hạn và khiếm khuyết của họ. Lòng nhân ái của Kitô hữu là thông dự vào tình yêu của chính Thiên Chúa.
Luật Kitô hữu là luật yêu thương. Khi người môn đệ Chúa Kitô chấp nhận những từ bỏ do luật này đòi hỏi, luật yêu thương này chứng tỏ được tất cả trọng lượng của nó. Nếu các nguyên tắc được công bố ở đây đi vào trong xã hội, xã hội này hẳn là sẽ không bị tiêu vong, nhưng sẽ thấy các tương quan giữa con người được đổi mới, bởi vì các bất công và bạo động sẽ bị dập tắt dễ dàng nhờ sống theo luật này hơn là do sợ các biện pháp chế tài hình sự.
Thật ra đây chính là lối sống của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã chết vì không nhường bước trước các áp lực của sự thận trọng hoặc của lương tri. Khi làm như thế, Người không đảo lộn trật tự xã hội, nhưng Người củng cố các tương quan giữa con người với con người. Bắt chước Thiên Chúa, và cũng là bắt chước Chúa Giêsu, là quy tắc duy nhất của lối cư xử của Kitô hữu, là con đường duy nhất để vượt qua nền luân lý Pharisêu.
Chúa dạy chúng ta không được đặt giới hạn cho tình yêu của các con, như Cha các con trên trời đã không giới hạn tình yêu của Ngài”. Và Chúa Giêsu ban cho chúng ta bằng chứng. Vào giờ phút lâm chung của mình, Chúa đã thực hành những gì Người giảng dạy.
Xin Chúa đổ tràn trên chúng ta tình thương của Chúa, để chúng ta được giải thoát khỏi tình yêu hạn hẹp, có tính toán, mà quảng đại yêu thương tất cả mọi người, ngay cả kẻ chống đối và có ác cảm với chúng ta.
2020
Lấy ân đền oán
15.6.2020 Thứ Hai
Mt 5, 38-42
LẤY ÂN ĐỀN OÁN
Trở về với Luật Cựu ước, ta thấy Luật đưa ra nguyên tắc dựa trên lẽ công bằng: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Chúa Giêsu đi xa hơn Luật cũ khi dạy rằng: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con” (Mt 5, 44). Thái độ tự nhiên của con người thường “yêu bạn ghét thù”. Ai phạm đến tôi, tôi tìm trả đũa người ấy. Cuộc sống ăn miếng trả miếng.
Tuy nhiên, với trang Tin Mừng hôm nay, ta được mời gọi: “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6, 36). Chúng ta đã chẳng được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa hay sao? Chúng ta đã chẳng được gọi là anh em với nhau vì là con cái Cha trên trời hay sao? Vì vậy, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở nên hoàn thiện như Thiên Chúa là Đấng hoàn thiện. Chính Chúa Giêsu đã không oán ghét một Giuđa phản bội, đã bao dung tha thứ cho những kẻ sỉ vả và đóng đinh người trên thập giá, và cũng yêu thương chúng ta hết thảy: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Câu nói rất phổ biến trong nhân gian: “Lấy ơn đền oán, oán oán tiêu tan. Lấy ác báo oán, oán oán chất chồng”. Vâng, chính Chúa Giêsu đã đi bước trước làm gương, để dạy chúng ta về sự tha thứ cao thượng, khi Ngài bị quân dữ tra tấn đánh đòn…chịu mọi cực hình cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, ấy thế nhưng Chúa vẫn cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc mình làm…”.
Trong cuộc sống, chúng ta không thể nào tránh được những trường hợp người khác không có thiện cảm với mình. Khi đó, chúng ta sẽ đối xử với nhau ra sao? Đức Thánh Cha Phanxicô cũng mời gọi mỗi người hãy trở nên biển cả của lòng từ nhân. Chỉ có sự quảng đại, bao dung và tha thứ mới đem đến bình an, hạnh phúc đích thực cho mỗi cá nhân và cộng đoàn.
Chúa muốn dạy chúng ta, đừng lấy oán báo oán khi chính mình bị xúc phạm. Tuy nhiên Người không cấm chúng ta chống lại những bất công, lại càng không cấm chúng ta bài trừ sự dữ, sự tội lỗi xấu xa ở trần gian. Cuộc sống nơi trần gian, biết sống trong Chúa là sống lý tưởng của sự hiền hòa, khiêm nhường hay tha thứ và yêu thương: vì tất cả đều là con cái một Cha trên trời, là Đấng hằng thi ân cho con cái và tất cả mọi người
“Mắt đền mắt, răng đền răng” – đó là luật báo thù, người ta xúc phạm làm thiệt hại tổn thương về tinh thần hay vật chất tôi bao nhiêu, theo lẽ công bằng phải đền trả tôi bấy nhiêu, đó là luật thế gian với góc độ con người đối xử với con người với nhau. Biết bao chiến tranh và bạo lực xảy ra trên thế giới cũng xuất phát từ những mâu thuẫn, sống tìm lợi ích, ích kỷ cho bản thân là sống như vậy, chỉ cần một chút thiệt hại về tiền bạc hay về tinh thần người ta sẵn sàng đạp đổ hay đổi mạng sống của nhau.
“Mắt đền mắt, răng đền răng” : ta thấy sự tàn nhẫn của Cựu Ước. Thật ra, Cựu Ước chẳng bắt người ta phải móc mắt, nhổ răng kẻ thù. Câu này chỉ nhằm giới hạn việc báo thù trong mức độ cân xứng. Trong xã hội mang tính bộ tộc của Ítraen thuở ban đầu, “mắt đền mắt” đã là một tiến bộ đáng kể.
Chúa Giêsu đi xa hơn khi đòi hỏi đừng chống cự lại người ác, nghĩa là đừng lấy ác báo ác, đừng sống theo luật báo phục. “Nếu bị ai vả má bên phải, hãy đưa cả má kia ra nữa” (c. 39). Bị vả má bên phải nghĩa là bị tát bằng mu bàn tay phải. Không phải là đau hơn, nhưng là nhục nhã hơn nhiều. Chúa Giêsu đã từng có kinh nghiệm này trong cuộc Khổ Nạn (Mt 26, 67). “Đưa má kia” đơn giản chỉ có nghĩa là tránh trả thù, chịu mình ở thế yếu, vì báo oán là chuyện của Thiên Chúa (Rm 12, 19-20). “Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12, 21).
“Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong, hãy để cho hắn lấy cả áo ngoài nữa” (c. 40). Ở Đông phương, áo ngoài là quan trọng để chống cái lạnh ban đêm,nên nếu bị cầm cố, thì cũng phải trả lại cho người ta có cái mà đắp (Đnl 24, 13). Đưa cả áo trong lẫn áo ngoài cho kẻ kiện cáo mình là chấp nhận bị trần trụi và xấu hổ, nếu ai đó chỉ có một bộ thôi. Trong xã hội Paléttin bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, chuyện bị ép vác đồ dùm cho lính tráng vẫn hay xảy ra (Mt 27, 32). “Người bắt anh đi một dặm, hãy đi với người ấy hai dặm” (c. 41).
Chúa Giêsu đưa điều răn yêu thương về lại với ý hướng của Đấng Lập pháp đầu tiên. Tình yêu buộc phải cung cấp cho mọi người những gì phải làm: sự tín nhiệm, sự trân trọng, sự trợ giúp. Cũng như trong những cặp đối nghĩa khác, Đức Giêsu không chỉ cho một lời khuyên, nhưng ban một lệnh mới cho các tương quan giữa con người.
Người môn đệ chỉ trở thành con của Chúa Cha trong mức độ người ấy mô phỏng lối xử sự của mình theo cách ứng xử của Chúa Cha, nghĩa là yêu thương người khác, kể cả kẻ thù, y như Chúa Cha vẫn yêu thương họ. Khi yêu thương mọi người không phân biệt kỳ thị, người Kitô hữu chứng tỏ cách chắc chắn và trung thực nhất dây quan hệ họ hàng với Thiên Chúa.
Câu “anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48) làm vọng lại lời mời gọi của sách Đnl (18,13): “Anh (em) phải sống trọn hảo với Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em)” và của sách Lêvi (19,2): “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel và bảo chúng: Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh”.
Môn đệ Chúa Giêsu, trước những ép buộc không mấy chính đáng, chẳng những được mời ưng thuận, mà còn làm hơn cả điều bị ép buộc. Câu cuối của trang Tin mừng cho thấy thái độ bác ái của Kitô hữu trước những yêu cầu của có thật của tha nhân (c. 42). Mở lòng ra trước người xin, người muốn vay mượn, dù kẻ ấy là kẻ thù hay người không có khả năng hoàn trả.
Không chỉ ngoài xã hội, nơi cộng đoàn hay gia đình ngày nay cũng vậy, họ có thể cũng sẵn sàng loại trừ nhau để đánh đổi chút danh hão huyền, thiếu đi sự yêu thương, cảm thông và tha thứ cho nhau. Nếu mọi người sống không còn thù oán, hiềm khích, biết sống ôn hòa, tha thứ cho nhau, tuy nhiên làm được điều đó quả thật rất khó, nhưng nơi mỗi người có được những đức tính này, thì nơi họ thể hiện bằng sự khiêm nhường, tha thứ, thiết tha trong lời cầu nguyện hay sống trong bí quyết diệu kỳ của Kinh Mân Côi là họ đã được “ từ ơn hoán cải đến ơn cứu độ”
Ta thấy Chúa Giêsu muốn kiện toàn khoản luật mới, đó luật yêu thương sống trong sự hoàn thiện biết đối xử, khoan dung với kẻ ác, cụ thể là với kẻ xúc phạm đến phẩm giá con người. Thầy bảo với anh em: “Đừng chống cự với người ác, trái lại nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ má bên trái ra nữa” (Mt 5, 39).
Quả thật rất nghịch lý, nhưng đây nghịch lý của tình thương. Người Kitô hữu sống Tin Mừng bằng cách không có khái niệm trả thù, sống trong tình thương sẽ lướt thắng họ, để giúp họ sống luật yêu thương trong đó bao gồm sự tha thứ, hy sinh, chịu đựng, thiệt thòi, từ tinh thần lẫn vật chất, luật yêu thương là cho đi không mong lãnh nhận, họ sẽ không ngoảnh mặt hay thờ ơ, lãnh đạm với bất kể ai, kể cả kẻ làm khó mình. Như Chúa nhắc nhở các môn đệ: “Ai xin anh hãy cho: ai muốn vay mượn thì anh đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,42).
Trang Tin Mừng hôm nay Chúa dạy cho các Tông Đồ hãy sống bác ái với chính kẻ thù như chính Ngài đã từng là mẫu gương cho lời dạy của mình. Cũng thế để thăng tiến trên con đường nhân đức, bác ái yêu thương và tha thứ, thì mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy nhìn và sống theo mẫu gương của Thầy Giêsu, Người Thầy đầy yêu thương và bác ái và nhất là hãy lấy ân để đền oán.